Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

LV ths luật học chức năng của viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.01 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN
BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ

7

1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

7

1.2. Đặc điểm chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm
sát
1.3

19

Mối quan hệ giữa Cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

25

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN


BÁO VỀ TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN

31

2.1. Quy định của pháp luật về chức năng của Viện kiểm sát trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

31

2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

45

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC,
TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ

3.1. Tăng cường ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện và tiếp tục hồn
thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chức năng
của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố

64


3.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động
thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố


69

3.3. Nâng cao nhận thức và trình độ chun mơn nghiệp vụ của Kiểm
sát viên
3.4. Các giải pháp khác
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO

70
71
74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV


: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

QCT

: Quyền công tố

TBVTP

: Tin báo về tội phạm

THQCT

: Thực hành quyển công tố

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Số liệu thống kê THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP
và kiến nghị khởi tố của VKSNDTC từ năm 2013-2017

2.2

Số liệu tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố VKS thụ lý kiểm
sát từ năm 2013 đến 2017


2.3

47

48

Số liệu tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố VKSND tỉnh Điện
Biên thụ lý kiểm sát từ năm 2013 đến 2017

50


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), cải
cách hoạt động tư pháp là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Trước đòi hỏi của xã
hội, cải cách tư pháp phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa thì mới
tích cực góp phần vào sự phát triển của đất nước. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm đến lĩnh vực cải cách tư pháp và coi đây là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm trong thời gian tới. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng khẳng định: "Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, lấy cải
cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động
điều tra"1. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục khẳng định: "Viện kiểm sát
nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm tốt hơn nữa
các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra"2. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ "Nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực
hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp
giữa các cơ quan chuyên trách điều tra với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành hoạt động điều tra để phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm"3. Pháp luật Việt Nam đã thể hiện chủ trương tăng cường chất lượng hoạt
động thực hành quyền công tố (THQCT), đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự (VAHS) mà khởi đầu là giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động THQCT của Viện kiểm
sát (VKS), tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao
cho chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Qua đó góp phần bảo vệ
pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. THQCT và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm (TBVTP) và kiến nghị khởi tố là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
2
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
3
. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị.


2
trọng của Ngành kiểm sát trong lĩnh vực hình sự. Thực hiện tốt khâu cơng tác này
khơng chỉ góp phần bảo đảm hiệu quả việc giải quyết VAHS, chống bỏ lọt tội phạm,
chống oan sai, giữ gìn sự nghiêm minh của pháp luật, mà cịn có ý nghĩa quan trọng
trong việc thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều

tra, gắn công tố với điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm theo
tinh thần Chỉ thị số 06 ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSNDTC). Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay khi chức năng THQCT của
VKS bắt đầu từ khi giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố theo quy định
của Luật tổ chức VKSND 2014 cũng như quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2015. Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều nội dung mới
quan trọng trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố,
đặc biệt về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, trong tiếp
nhận giải quyết tố giác, TBVTP, kiến nghị khởi tố, trong đó đã thể chế hóa một số
quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP
và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên một số quy định của pháp luật vẫn còn chung
chung, chưa đầy đủ, cụ thể.
Trong những năm qua, trên cơ sở những quy định của pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ của VKSND, công tác THQCT, kiểm sát giải quyết tố giác, TBVTP
và kiến nghị khởi tố của VKSND đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên
vẫn còn một số tồn tại khó khăn, đó là: Việc xác minh nguồn tin báo và quyết định
việc khởi tố hay khơng khởi tố VAHS cịn chưa đầy đủ, chính xác dẫn tới việc vẫn
còn để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm; các quy định của pháp luật về cơng tác
này chưa đầy đủ, hồn thiện; nhận thức và vận dụng pháp luật hiện hành chưa thống
nhất... làm hạn chế hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Từ những lý do nêu trên, cho thấy cần phải hoàn thiện công tác THQCT và
kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố sao cho hoạt động này
thật sự hiệu quả. Như vậy xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn thì việc nghiên cứu
đề tài: "Chức năng của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố" là mang tính cấp thiết thời sự trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết tin báo tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố khơng phải là vấn đề cịn mới mẻ. Thời gian qua đã có khá nhiều
bài viết, cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này được cơng bố, mỗi cơng trình nghiên
cứu đều thể hiện ở một khía cạnh khác nhau tuy nhiên đều cho thấy tính cấp thiết



3
cũng như giá trị lý luận cao đó là: Cuốn sách "Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra", Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008, do
TS. Lê Hữu Thể làm chủ biên. Trên tạp chí khoa học "Một số vấn đề tăng cường
trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu của cải cách
tư pháp", Sổ tay Kiểm sát viên hình sự của tác giả Nguyễn Hải Phong, NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội năm 2014, "Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật tố tụng hình sự", Nguyễn Hịa Bình.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đào Nguyên Vũ năm 2017 về "Tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên" đã làm
rõ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến hoạt động tiếp nhận, giải
quyết các tin báo tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình
sự (TTHS) cũng như nghiên cứu vấn đề này trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Qua đó tác
giả cũng đề ra một số giải pháp cơ bản góp phần hồn thiện chất lượng của cơng tác
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm.
Tác giả Phạm Khánh Trường, với luận văn thạc sĩ về " Kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang". Luận văn đã luận giải được những quy
định của pháp luật về công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố theo pháp luật TTHS, phân tích thực trạng cơng tác kiểm sát giải
quyết tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật từ đó đề ra các biện pháp nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trương Văn Chung "Tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Tiền Giang".

Luận văn thạc sĩ luật học "Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Vụ Thực hành
quyền công tố và Kiểm sát điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao" của tác giả Thái
Hưng năm 2013.
Ngoài ra, các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành liên quan trực tiếp
đến vấn đề kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như:


4
Bài viết trên tạp chí chuyên ngành của Bùi Mạnh Cường "Những vấn đề cơ
bản về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm
và kiến nghị khởi tố", Tạp chí Kiểm sát số 19/2017. Tác giả bài viết đã đánh giá
khái quát về chức năng THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác
TBVTP và kiến nghị khởi tố của VKSND theo BLTHS 2015 đồng thời cũng chỉ ra
các giải pháp để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát việc giải quyết tố giác,
TBVTP và kiến nghị khởi tố.
"Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố" của tác giả Dương Ngọc Hải, đăng trên Tạp
chí Kiểm sát, số 16 (tháng 8/2016). Trong phạm vi bài viết, trên cơ sở phân tích các
quy định mới của BLTTHS 2015 về tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, TBVTP,
kiến nghị khởi tố, đặc biệt là các nội dung có liên quan trực tiếp đến cơng tác
nghiệp vụ của VKS, từ đó nêu ra một số đề xuất, giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả cơng tác THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, TBVTP
và kiến nghị khởi tố trong thời gian tới.
Nhiều hội nghị, hội thảo khoa học đã được triển khai và tổ chức thực hiện
như: "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tình hình mới" do Ủy
ban pháp luật Quốc hội tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 04/01/2001, "Hội
nghị sơ kết việc thực hiện chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 và thông tư
liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSTC ngày 02/8/2013" do
VKSNDTC tổ chức thực hiện vào tháng 10 năm 2014 tại Hà Nội.

Như vậy có thể thấy, tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều cấp, các tác gải đã
đề cập đến nội dung này ở những góc độ khác nhau, những phạm vi khác nhau. Tuy
nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn
diện và sâu sắc về chức năng của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố. Do vậy đề tài không trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã
được công bố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận; quy định của pháp
luật về chức năng của của VKS trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị
khởi tố trong BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, do BLTTHS


5
năm 2015 mới được thi hành chưa lâu và để có cơ sở đưa ra giải pháp, luận văn xin
được phép nghiên cứu thêm thực trạng thực hiện chức năng của VKS trong việc giải
quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố tại tỉnh Điện Biên, nơi học viên công tác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về chức
năng của của VKS trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố trong
BLTTHS 2003 làm cơ sở cho việc đánh giá thực tiễn; BLTTHS năm 2015 và các
văn bản liên quan. Luận văn không nghiên cứu lịch sử phát triển của quy định này
trong TTHS;
- Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng của của VKS trong việc
giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố tại tỉnh Điện Biên trong 05 năm, từ
năm 2013 đến năm 2017. Do BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 nên luận văn chưa có điều kiện để nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức
năng của VKSND theo BLTTHS năm 2015.

4. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận; pháp luật về chức năng của
VKS trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố; thực tiễn thực hiện
chức năng của VKS trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, luận
văn đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện chức năng của VKS trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố một cách có hiệu
quả, làm tiền đề quan trọng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ làm rõ
những câu hỏi sau:
- Chức năng của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là gì? Đặc điểm của chức năng giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố?
- Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố?
- Quy định của pháp luật về chức năng của VKS trong việc giải quyết tố
giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố?
- Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về chức năng của VKS trong
việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố? Những kết quả đạt được, hạn
chế, vướng mắc và nguyên nhân?


6
- Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chức năng của VKS trong việc giải
quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố?
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra; trong quá trình nghiên
cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ cở lý luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật;
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp thống kê, diễn dịch,
phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp lịch sử so sánh.
7. Ý nghĩa luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cũng như
những quy định của pháp luật về chức năng của VKS trong việc giải quyết tố giác,
TBVTP và kiến nghị khởi tố.
Đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng của VKS trong việc tố giác, TBVTP
và kiến nghị khởi tố giai đoạn 2013-2017 và một số tồn tại, vướng mắc khi áp dụng
pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên, luận văn cũng đưa ra một số kiến nghị, giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật, làm nguồn tài liệu nghiên cứu,
tham khảo phục vụ công tác tại địa phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chức năng của Viện kiểm sát trong việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Chương 2: Quy định của pháp luật về chức năng của Viện kiểm sát trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Chương 3: Các biện pháp bảo đảm thực hiện chức năng của Viện kiểm sát
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.


7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Chức năng của VKS trong TTHS là một vấn đề được nghiên cứu, tranh luận
trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi mới cải cách
tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua. Việc đi sâu
nghiên cứu làm rõ chức năng của VKS trong TTHS giúp chúng ta nhận thức và
phân biệt hình thức hoạt động của VKS với các cơ quan nhà nước khác.
Thuật ngữ "Chức năng" được hiểu là: nhiệm vụ, công dụng hoặc vai trò hay
được định nghĩa là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan,
một hệ thống nào đó trong cơ thể. Chức năng cũng có thể được hiểu là cơ chế, nhiệm
vụ là thực thi, thường thì người ta nói các cơ quan chức năng tức là chỉ những người có
thẩm quyền đang làm việc. Theo định nghĩa chung nhất được hiểu là phương diện,
hướng hoạt động của tổ chức cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó. Trong khi đó
"chức năng của cơ quan nhà nước" là "hoạt động chủ yếu, thường xun, có tính ổn
định tương đối riêng cùa cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của nhà nước".
Việt Nam là một nước theo hệ thống XHCN. Bộ máy nhà nước nằm trong
hệ thống các nước XHCN được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân
dân, nhân nhân thực hiện quyền lực của mình thơng qua các cơ quan đại diện là Hội
đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Mọi quyền lực đều tập
trung ở Quốc hội, nhưng Quốc hội không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các
cơ quan nhà nước, trong đó cơ quan VKSND là một mắt xích quan trọng được giao
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung (Hiến pháp 1960, 1980). Hiến
pháp 1992 quy định VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật; Hiến pháp 1992 sửa
đổi năm 2002 quy định VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp; Hiến
pháp năm 2013 và tiếp đó là Luật tổ chức VKSND năm 2014, và cụ thể hơn là
BLTTHS năm 2015 đã quy định: Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật... 4
4

. Xem Điều 20 BLTTHS năm 2015.



8
Như vậy có thể khẳng định rằng trong TTHS, VKS có hai chức năng: Một
là, THQCT; Hai là, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hai chức năng này sẽ được chúng
tơi phân tích và làm rõ hơn trong những phần tiếp theo của luận văn. Hay nói một
cách khác: Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
1.1.2. Khái niệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố
Trong công cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, thơng tin về hoạt động
của các loại tội phạm là cơ sở quan trọng trong việc lập kế hoạch, chương trình đấu
tranh phịng chống tội phạm. Xã hội càng phát triển, tội phạm ngày càng tinh vi
kèm theo đó là phát sinh nhiều thơng tin có dấu hiệu phạm tội hoặc hành vi vi
phạm, do đó cần phân biệt rõ ràng thơng tin nào là tin báo, tố giác về tội phạm,
thông tin nào là kiến nghị phản ánh. Thực tế ở nhiều địa phương, do không hiểu
đúng các khái niệm nêu trên nên Điều tra viên (ĐTV) không phân loại được các tin
truyền đến, dẫn đến việc thụ lý và giải quyết không đúng thẩm quyền, để tin tồn
đọng không giải quyết được. Trong khi đó Kiểm sát viên (KSV) cũng lúng túng,
mặc dù hằng ngày, hàng tuần vẫn cùng ĐTV nắm thụ lý và giải quyết tin báo nhưng
không phát hiện được những vi phạm để có thể có đề xuất kiến nghị, hay yêu cầu
khắc phục.
* Tố giác, tin báo về tội phạm
Dưới góc độ ngơn ngữ học thì các thuật ngữ tố giác, tin báo được hiểu là:
Tố giác: Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc
hành động phạm pháp nào đó hay là việc vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác
cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn hành vi, tội ác đó.

Theo Đại từ điển tiếng Việt, tin báo được xác định là: Điều báo cho biết sự
việc tình hình xảy ra.
Tin báo về tội phạm là những thông tin do người dân cung cấp cho cơ quan
hoặc người có trách nhiệm về con người hoặc hành vi phạm tội hay có dấu hiệu
phạm tội.


9
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì "Tố giác là cơng
dân tố cáo trước cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội về người hoặc hành động phạm
pháp xảy ra".
Tin: Được truyền đi, báo đi cho biết về sự việc, tình hình xảy ra hay là sự
truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung
quanh và những q trình xảy ra trong nó.
Báo: Cho biết việc gì đó đã xảy ra hay là cho người nào đó viết về việc đã
xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung... Là dấu hiệu cho biết trước 5.
Ở phương diện phản ánh, những thông tin về tội phạm là kết quả phản ánh
của những tội phạm đó trong hiện thực khách quan, sự tồn tại của những thơng tin
này mang tính quy luật. Những thơng tin này tồn tại ở dạng vật chất, đó là tín hiệu
thơng tin. Trong hoạt động điều tra tội phạm, tín hiệu thơng tin có thể tồn tại ở hai
dạng: Vật chất và tư tưởng, ý nghĩ. Hai hình thức tồn tại của tín hiệu thơng tin này
chính là sự đa dạng của những dấu vết tội phạm để lại trong môi trường xung quanh.
Ở phương diện điều tra khám phá tội phạm tố giác, TBVTP là những thơng
tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem xét tính chất nghiêm
trọng hay khơng của sự việc đã được những chủ thể báo tin, tố giác đến; tính chính
xác và độ tin cậy của các thơng tin đến đâu; có dấu hiệu của tội phạm hay khơng...
Tố giác, TBVTP là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động điều tra, xác minh theo
luật định.
Về khái niệm tố giác, TBVTP theo quy định của pháp luật Việt Nam có
những định nghĩa khác nhau qua các giai đoạn lịch sử khác nhau:

Trước đây (thời điểm sau khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực) đã có Thơng
tư liên ngành số 03/TTLT ngày 15/5/1992 hướng dẫn về công tác tiếp nhận giải
quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên kể từ thời điểm năm 2003
BLTTHS có hiệu lực, vẫn chưa có thơng tư hướng dẫn thay thế cho thơng tư liên
tịch nói trên. Do đó, trong thực tiễn, nhiều CQĐT và VKS các cấp chưa nhận thức
thống nhất một số khái niệm về "tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm", "việc giải
quyết tin báo về tội phạm".
Theo Thông tư liên ngành số 03/TTLT ngày 15/5/1992 giữa VKSNDTC,
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp, Tổng cục Hải
quan quy định: "Tố giác, tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được
5

. Hoàng Phê (Chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.


10
quy định trong Bộ luật hình sự do cơng dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết, do các
phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú".
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định theo hướng khái quát hóa về định nghĩa
và chỉ mơ tả hành vi, phương thức để công dân báo tin về tội phạm: Công dân có
thể tố giác tội phạm với CQĐT, VKS, Tịa án hoặc với các cơ quan, tổ chức khác.
Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ
ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của
công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho CQĐT bằng văn bản.
Như vậy có thể hiểu tố giác, TBVTP là những thông tin chứa đựng dấu hiệu ban
đầu về tội phạm thuộc trách nhiệm giải quyết của CQĐT; những thông tin khác không
chứa đựng thông tin về tội phạm nếu được chuyển đến, CQĐT phải có trách nhiệm
chuyển các cơ quan khác giải quyết theo thẩm quyền, không được giữ lại để giải
quyết.

Tuy nhiên cần phải phân biệt giữa "tố giác" và "tin báo" về tội phạm dựa
trên chủ thể của tố giác, tin báo về tội phạm. Có quan điểm cho rằng: "Tố giác về
tội phạm là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu
tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 100,
Điều 101 và Điều 103 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tin báo về tội phạm là việc các
cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho
cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 5 Điều 100,
Điều 101 và Điều 103 của Bộ luật Tố tụng hình sự"6.
Thực tiễn áp dụng BLTTHS 2003 gặp phải nhiều khó khăn, việc đánh giá
thế nào là tố giác, tin báo về tội phạm Thông tư liên tịch số 06/2013 đưa ra các khái
niệm cụ thể:
Tố giác về tội phạm là những thơng tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do
cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm
tiếp nhận, giải quyết7.

6

. Quy chế về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền của VKS. (Ban hành kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐ-VKSNDTC-V7 ngày
06/02/2006 của Viện trưởng VKSNDTC).
7
. Thông tư liên tịch sô 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC về hướng dẫn thi hành quy
định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.


11
Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ
quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
* Kiến nghị khởi tố

Dưới góc độ ngơn ngữ học, thuật ngữ "Kiến nghị" được hiểu là: Nêu ý kiến
đề nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét. Ở góc độ pháp lý đã đưa
ra khái niệm tại: Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện
nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị
CQĐT xem xét khởi tố VAHS.
Theo chúng tôi, kiến nghị khởi tố là quyền của cơ quan, tổ chức, thể hiện
bằng văn bản kiến nghị gởi đến CQĐT và VKSND, yêu cầu khởi tố hình sự để điều
tra, xử lý tội phạm và người phạm tội nào đó, là một dạng đặc biệt của tin báo về
tội phạm.
Khoản 1 Điều 26 BLTTHS quy định tất cả các cơ quan nhà nước đều có
quyền kiến nghị khởi tố: "Các cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh
tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật để xử lý và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình;
có quyền kiến nghị và gởi các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội".
Như vậy kiến nghị khởi tố chính là việc thơng qua cơng tác kiểm tra, thanh
tra của cơ quan nhà nước (chủ yếu là cơ quan thanh tra) khi phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì ban hành văn bản kiến nghị kèm theo hồ
sơ, tài liệu thu thập được gửi cho CQĐT, VKS có thẩm quyền giải quyết.
Trong thực tiễn, thông thường là văn bản kiến nghị khởi tố của cơ quan
Thanh tra, XHCN. Đối với Cơ quan Thanh tra, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
thanh tra, nếu phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm, thì trong thời hạn 05 ngày, kể
từ ngày phát hiện dấu hiệu tội phạm, phải chuyển hồ sơ vụ việc đó và bản kiến nghị
khởi tố đến CQĐT có thẩm quyền để xem xét khởi tố VAHS, đồng thời thông báo
ngay bằng văn bản cho VKS cùng cấp biết.
Có quan điểm cho rằng: "Kiến nghị khởi tố là văn bản Kiến nghị khởi tố
cùng hồ sơ, tài liệu về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm được
phát hiện thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng được



12
gửi đến cơ quan Cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân" 8 Quan điểm này
chưa xác định rõ chủ thể của kiến nghị khởi tố.
Quan điểm khác cho rằng: "Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước
thông qua công tác kiểm tra, thanh tra phát hiện có hành vi phạm tội, hành vi có
dấu hiệu tội phạm và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan
có thẩm quyền để xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội" 9. Quan điểm
này xác định chủ thể của kiến nghị khởi tố là các cơ quan nhà nước.
Cả hai quan điểm trên đều cho rằng thông qua cơng tác thanh tra, kiểm tra
phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm mới có kiến nghị khởi tố. Chúng tôi cho
rằng quan niệm như vậy là chưa đầy đủ, bởi vì Tịa án thơng qua cơng tác xét xử
cũng có quyền kiến nghị khởi tố.
Về lý luận, cần phân biệt trường hợp nào cơ quan nhà nước là chủ thể của
TBVTP và trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi tố:
- Cơ quan nhà nước là chủ thể của kiến nghị khởi tố trong trường hợp thông
qua công tác thanh tra, kiểm tra, xét xử… phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì
thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị khởi tố gửi đến
CQĐT, VKSND cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án;
- Cơ quan nhà nước là chủ thể của TBVTP trong trường hợp thông qua
công tác quản lý hoặc công tác khác, phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong
lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thơng tin cho cơ quan có thẩm quyền để xem
xét, giải quyết.
Như vậy, có thể hiểu: Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế... thơng qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực
hiện các nhiệm vụ khác phát hiện có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kèm theo tài
liệu liên quan, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra, xử lý nghiêm minh trước
pháp luật.
Theo chúng tôi, để đảm bảo cho các khái niệm về tố giác, TBVTP và kiến

nghị khởi tố được hiểu đầy đủ và thống nhất thì cần phải đưa ra một khái niệm ngắn
gọn nhưng phải thể hiện được cả nội hàm và ngoại diện của nó. BLTTHS 2015 đã
đưa ra được khái niệm tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố một cách khái quát
8

. Quy chế Phối hợp giữa VKSND quận Long Biên và Công an quận Long Biên trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (QC số 169 ngày 13/7/2011.
9
. Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của
Cơ quan điều tra VKSNDTC. (Ban hành kèm theo Quyết định số 116/2011/QĐ-VKSNDTC-C6 ngày
14/4/2011 của Viện trưởng VKSNDTC).


13
nhưng đầy đủ khắc phục những bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2003
cũng như Thông tư liên tịch số 06/2013.
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu
tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thơng tin về vụ việc có dấu hiệu phạm tội do cơ
quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thơng tin về tội
phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng
văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS, có thẩm
quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu phạm tội.
* Khái niệm giải quyết tố giác, TBVTP
Mặc dù chưa có thông tư hướng dẫn nhưng thông qua tiêu đề về "Nhiệm vụ
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố" và nội dung quy định
tại Điều 103 BLTTHS đã thể hiện "Việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố" bao hàm từ việc tiếp nhận đến việc giải quyết tố giác, TBVTP và
kiến nghị khởi tố.

Luật quy định có hai loại cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận người
tố giác tội phạm. Loại thứ nhất là CQĐT, VKS, Tòa án. Đây là cơ quan bảo vệ pháp
luật nên mọi tin tức về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo pháp luật TTHS xảy ra trên
địa bàn mình, các cơ quan này đều phải nắm được và có biện pháp phòng ngừa và
đấu tranh giải quyết tội phạm. Loại thứ hai là các cơ quan, tổ chức khác tuy không
phải là các cơ quan tổ chức chuyên trách trong đấu tranh phịng chống tội phạm
nhưng đều có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội, tham gia đấu
tranh phòng ngừa tội phạm. Đối với CQĐT, VKS là những cơ quan chính có nhiệm
vụ tiếp nhận đầy đủ mọi tin tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật
TTHS do cá nhân, cơ quan tổ chức chuyển đến thì các cơ quan này phải có bộ phận
thường trực để tiếp nhận nguồn tin về tội phạm. Các bộ phận tiếp nhận tin tức tội
phạm, kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận có trách nhiệm chuyển ngay các tin tố
giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến kèm theo các
tài liệu có liên quan do cơ quan mình tiếp nhận cho CQĐT có thẩm quyền để tiến
hành xác minh.
Chủ thể tiếp nhận và giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố theo
pháp luật TTHS chỉ có thể là những cơ quan do pháp luật quy định theo Khoản 1


14
Điều 5 và Khoản 1 Điều 6 Thông tư 06/2013. Mức độ giải quyết tố giác, TBVTP và
kiến nghị khởi tố của từng chủ thể tiếp nhận cũng khác nhau, phụ thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ của từng chủ thể tiếp nhận tố giác, TBVTP. Trong tổ chức tiếp nhận,
giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, các cơ quan theo luật định chỉ được
áp dụng những biện pháp mà pháp luật cho phép để kiểm tra, xác minh và giải
quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố đạt hiệu quả. Đồng thời phải bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố giác tội phạm.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: Giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của cơ quan, người có
thẩm quyền mà pháp luật quy định, tiến hành xem xét những nguồn tin về tội phạm

để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án vụ án hình sự cũng như những
quyết định khác theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Trong TTHS, VKS là cơ quan duy nhất tham gia đầy đủ các giai đoạn tố
tụng. Chức năng THQCT của VKS là những hoạt động trong việc xác định tội
phạm, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và việc buộc tội trước Tịa án. Do đó, để
bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật,
không để lọt người, lọt tội, khơng làm oan người vơ tội, thì các hoạt động công tố phải
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP. Hơn nữa, trong tiến
trình cải cách tư pháp và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà
nước luôn yêu cầu VKS phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt động TTHS phải được
kiểm tra, giám sát, kiểm sốt chặt chẽ, bởi vì các hoạt động này đều có tác động, liên
quan đến quyền con người, quyền cơng dân, thậm chí là sinh mệnh chính trị của con
người... đây là nguyên tắc tối thượng được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, bảo vệ.
Như vậy, việc giải quyết tố giác, TBVTP trở thành "Một giai đoạn" của TTHS, VKS
THQCT sớm hơn, ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP.
Vậy để hiểu được khái niệm "Chức năng thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố"
trước tiên chúng ta cần đi sâu nghiên cứu khái niệm "Quyền công tố" và "Thực
hành quyền công tố".


15
Theo từ điển Tiếng Việt: "Công tố là truy tố, buộc tội bị cáo và phát biểu ý
kiến trước Tòa án, nhân danh Nhà nước’ 10. Còn theo từ điển Luật học: Công tố là
"Quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội." 11
Về quan điểm khoa học, còn nhiều quan điểm khác nhau về QCT:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: QCT không phải là một chức năng độc lập

của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. 12 Quan điểm này đã đánh đồng THQCT với kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Vì vậy dẫn đến việc khơng xác định được hoạt động nào của
VKS là để thực hiện chức năng THQCT, hoạt động nào cuả VKS là để thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.
Quan điểm thứ hai cho rằng: QCT là quyền của Nhà nước giao cho VKS
truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa. 13 Quan điểm này
đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi QCT và không phản ánh được đầy đủ
bản chất của quyền này.
Quan điểm thứ ba cho rằng: QCT là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa ra
các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo về lợi ích của Nhà nước,
bảo vệ trật tự pháp luật.14Quan điểm này cho rằng QCT xuất hiện từ khi có Nhà nước
và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, TTHS và cùng với sự phát
triển của xã hội, các ngành luật, QCT được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân
sự. Quan điểm này đã xác định phạm vi QCT quá rộng, đã đồng nhất QCT với quyền
hạn của VKS trong những lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động
tư pháp khác, xóa nhịa ranh giới giữa TTHS và các lĩnh vực tố tụng khác.
Quan điểm thứ tư cho rằng: QCT bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án,
quyền truy tố và buộc tội bị can trước tòa án. 15 QCT luôn gắn liền với các hoạt động
buộc tội nhân danh nhà nước. Do vậy QCT chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực
duy nhất là TTHS. Quan điểm này phổ biến trong các nhà nước có sự phân chia
quyền lực.
Quan điểm thứ năm cho rằng: QCT là quyền của cơ quan nhà nước được ủy
quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm
10

. Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng, tr.210
. Viện khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa-Nxb Tư pháp, tr.188
12
. Nguyễn Thái Phúc - Một số vấn đề về quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân, trong Kỉ yếu đề tài

"Những vấn đề lí luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam", Viện kiểm sát nhân dân tối cao
13
. Võ Thọ (1985), Một số vấn đề về Luật tó tụng hình sự, Nxb Pháp lý, Hà Nội
14
. Trường Cao đẳng kiểm sát, Giáo trình Cơng tác kiểm sát phần chung (1996), Nxb. CAND, tr 85
15
. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr.204.
11


16
đưa người đó ra xét xử trước Tịa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó. 16 Quan
điểm này đã khẳng định được QCT là quyền của Nhà nước, chỉ có thể được xem xét
trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật TTHS, nó ln gắn liền với việc nhân danh
Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, việc thực hiện quyền này sẽ được Nhà nước ủy quyền cho một cơ quan nhà
nước thực hiện.
Như vậy có thể khẳng định rằng, quyền công tố là quyền lực công được
Nhà nước trao cho cơ quan nhà nước thực hiện nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội mà người đó đã thực hiện. Quyền này nhà nước giao cho
một cơ quan duy nhất là VKS (từ năm 1960). Do đó, để làm được điều này, cơ quan
cơng tố - VKSND phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng
cứ để xác định tội phạm và người phạm tội và trên cơ sở đó quyết định việc truy tố
bị can ra trước tịa án, đồng thời tiến hành buộc tội người phạm tội trước phiên tịa.
Phạm vi QCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có
hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị. Cho nên, để bảo đảm thực hiện QCT trong
thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của
QCT. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho VKS thực hiện để phát hiện
tội phạm và thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Trong các giai đoạn tố tụng VKS đảm nhiệm cả hai chức năng THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp, hai chức năng này luôn song song với nhau trong suốt
quá trình tố tụng. Bởi lẽ, nếu chỉ đơn thuần giao cho VKS chức năng kiểm sát thì
trách nhiệm của VKS chỉ dừng lại ở hoạt động kiểm tra, giám sát để phát hiện vi
phạm, tội phạm mà khơng có thẩm quyền xử lý, dẫn đến khả năng pháp luật khơng
có tính nghiêm minh, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm và phạm tội. Theo quy
định của pháp luật hiện hành thì, THQCT là hoạt động của VKSND trong TTHS để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay
từ khi giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
VAHS17. Như vậy, định nghĩa đã xác định cụ thể ba vấn đề của THQCT.

16
17

. Trần Văn Độ (2001), "Một số vấn đề về QCT", Tạp chí luật học, tr10
. Khoản 1 Điều 3 LTCVKSND năm 2014


17
Thứ nhất, THQCT là hoạt động của VKSND trong TTHS. Vấn đề này
nhằm xác định THQCT chỉ có thể diễn ra trong lĩnh vực TTHS, còn ở các hoạt động
của VKS ở lĩnh vực khác không phải là THQCT.
Thứ hai, THQCT là hoạt động thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội. QCT là quyền nhân danh quyền lực công để buộc tội đối với một
người khi thực hiện hành vi phạm tội. Nhà nước trao quyền này cho VKS là hệ
thống cơ quan thuộc bộ máy Nhà nước để thực hiện.
Thứ ba, THQCT được tiến hành ngay từ khi giải quyết tố giác, TBVTP và
kiến nghị khởi tố cho đến khi xét xử xong VAHS.
Luật tổ chức VKSND 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi
THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố bao gồm: Phê

chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ
và các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố
giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố; Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố;
Trực tiếp giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã
yêu cầu nhưng không được khắc phục; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để
THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, làm oan người vơ
tội.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm chức năng THQCT của VKS
trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố như sau: Thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
để thực hiện việc buộc tội của nhà nước khi giải quyết nguồn tin về tội phạm.
1.1.4. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố
Vận dụng tư tưởng Lenin vào thực tiễn xây dựng tổ chức bộ máy Nhà nước,
Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng để đảm bảo cho pháp luật thực hiện một
cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan nhà nước có chức
năng kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và
công dân là địi hỏi mang tính khách quan, chính vì lý do đó cơ quan VKSND được
thành lập. VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần


18
đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Chức năng của
VKSND được thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: "Viện Kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" và Điều 2 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014: "Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là vấn đề được quan tâm nghiên
cứu trong suốt quá trình lập hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi mới cải
cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua. Việc
đi sâu nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS
giúp chúng ta nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của VKS với các cơ quan
nhà nước khác, đồng thời đưa đến nhận thức chung, thống nhất trong toàn thể cán
bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả các quy định của pháp luật.
"Chức năng" theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương diện,
hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó.
Kiểm sát được hiểu là xem xét, đánh giá, theo dõi nhằm phát hiện, ngăn
chặn những điều trái với quy định. Theo từ điển Tiếng Việt thì kiểm sát là kiểm tra,
giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước. Nội dung của khái niệm kiểm sát là
hoạt động kiểm tra, giám sát. Đối tượng là việc chấp hành pháp luật của Nhà nước.18
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một dạng giám sát nhà nước về tư pháp, là
hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự
giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được
giao một số thẩm quyền tư pháp trong q trình tố tụng.
Mục đích của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng
thống nhất trong việc giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục
tố tụng mà pháp luật quy định.
Phạm vi kiểm sát tư pháp: Là việc chấp hành pháp luật trong giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử các VAHS, giải quyết các vụ án dân sự, hơn nhân gia đình, hành chính,
kinh tế, kinh doanh, thương mại và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự bắt
đầu từ khi VAHS được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án.
Từ những nội dung trên có thể nêu khái niệm chung về kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong TTHS như sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hiến
18

. Phạm Khánh Trường, Luận văn Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang, tr. 12


19
định của VKS, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động tư pháp trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo cho pháp luật TTHS
được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất. Việc kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS
có nhiều cơng tác khác nhau, trong các hoạt động tư pháp khác nhau điển hình như
kiểm sát việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra, kiểm sát việc xét xử, kiểm sát thi hành án hình sự, kiểm sát các vụ việc dân
sự, hành chính....Các hoạt động này cho thấy vai trị và nhiệm vụ của VKS trong
quá trình thực hiện quyền giám sát hoạt động tư pháp, bảo đảm pháp luật được thực
hiện nghiêm minh và chính xác.
Từ khái niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, chúng ta có thể xây
dựng khái niệm kiểm sát việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố. Hiện
nay tồn tại khá nhiều các quan điểm khác nhau, cách hiểu khác nhau về kiểm sát
việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố. Có quan điểm cho rằng kiểm
sát việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố là việc VKS bằng quyền
năng pháp lý theo luật định thực hiện việc kiểm tra, giám sát trực tiếp và liên tục
hoạt động giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Tuy nhiên có quan điểm cho rằng hoạt động kiểm sát việc giải
quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của VKS chỉ giới hạn dưới góc độ kiểm
tra giám sát, có hay khơng việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của
cơ quan có thẩm quyền chứ không đi sâu vào kiểm sát nội dung giải quyết. Theo
quan điểm của tác giả thì cách hiểu thứ nhất đã làm rõ ý nghĩa chức năng, hoạt động
của VKS trong việc giải quyết tin báo, TBVTP.19
Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố là một
giai đoạn hoạt động được quy định trong BLTTHS. "VKS có trách nhiệm kiểm sát
việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố".

Như vậy, kiểm sát việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố đối với VKS
là một chức năng, một nhiệm vụ luật định. Từ các phân trên đây, có thể đưa ra khái
niệm chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong việc giải quyết tố giác,
TBVTP và kiến nghị khởi tố như sau: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính

19

. Dương Tiến Mạnh, Luận văn Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam, tr 17


20
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát
1.2.1. Đặc điểm chức năng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
* Về đối tượng của thực hành hành quyền công tố trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Theo từ điển tiếng Việt, đối tượng được hiểu là "Người, vật, hiện tượng mà
con người nhằm vào trong suy nghĩ, hành động".20
Hiện nay, do còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về QCT nên đối tượng
của THQCT vẫn còn những quan điểm khác nhau:
Có quan điểm cho rằng đối tượng của QCT là sự tuân thủ pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Tuy
nhiên bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra tính
có căn cứ và tính hợp pháp cuả hành vi và quyết định của các chủ thể bị kiểm sát.
Do đó, đối tượng của hoạt động kiểm sát trong TTHS phải là hành vi xử sự của các

cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Ngược lại bản chất của QCT
trong TTHS là việc đòi trừng phạt những hành vi phạm tội để bảo vệ lợi ích cơng
thì đối tượng của quyền này phải là tội phạm và người phạm tội. "QCT ln mang
tính cụ thể, tức là xuất hiện trong trường hợp một tội phạm cụ thể được thực hiện và
đối với những người nhất định đã phạm tội đó"21.
Với quan điểm cho rằng QCT khơng chỉ là sự buộc tội, vì vậy QCT có
trong cả các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính thì những
tác giả này cho rằng đối tượng của THQCT không chỉ là tội phạm và người phạm
tội mà còn cả những vi phạm phạm pháp luật khác không phải là tội phạm. Với
quan điểm đối tượng của THQCT quá rộng như vậy là xuất phát từ cách tiếp cận về
phạm vi QCT có trong tất cả các lĩnh vực tư pháp.22
Như vậy, về bản chất, THQCT chính là việc thực hiện hóa QCT, đưa QCT
là quyền của Nhà nước vào đời sống xã hội và đối tượng của THQCT chính là việc
20

. Viện ngôn ngữ học (2003), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.338.
. Đỗ Văn Dương (1999), "Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung QCT", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ:
Những vẫn đề lý luận về QCT và việc tổ chức thực hiện QCT ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay , VKSNDTC,
Hà Nội, tr.134-144
22
. Phạm Thị Tuyết Chinh, Luận văn" Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên
địa bàn thành phố Hải Phòng", tr.19
21


21
xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội trong từng giai đoạn cụ thể
của TTHS. THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố là
một trong những nội dung cụ thể của THQCT, mở đầu cho các giai đoạn tiếp theo
trong TTHS. Do đó, đối tượng của THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và

kiến nghị khởi tố là việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được
giao một số nhiệm vụ điều tra, những người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố
giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố.
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để THQCT theo quy định của
BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội
Chức năng THQCT được trao cho VKSND nhằm đảm bảo mọi hành vi
phạm tội, người phạm tội được phát hiện khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội. THQCT của VKS trong việc giải quyết tố
giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố là việc VKS sử dụng các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị nghi thực
hiện tội phạm, được tiến hành theo trình tự tố tụng hình sự nhằm ghi nhận kiểm tra
những tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự
và những vụ việc có tính chất hình sự do người dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
chuyển đến hoặc đăng tải trên các phương tiện thơng tin đại chúng, trên cơ sở đó
có thể đưa ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án và những quyết định giải
quyết cần thiết khác, nhằm đảm chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vơ tội.
* Về mục đích, phạm vi của hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Mục đích của hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và
kiến nghị khởi tố nhằm ghi nhận kiểm tra những tin báo, TBVTP và kiến nghị khởi
tố theo pháp luật TTHS và những vụ việc có tính chất hình sự do người dân, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội chuyển đến hoặc đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trên cơ sở đó có thể đưa ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án và những quyết định giải quyết cần thiết khác, đảm bảo mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội đều được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật.
Phạm vi THQCT là vấn đề gây nhiều bàn luận trong giới nghiên cứu vì vậy,
khi xem xét cần phải phân biệt cụ thể, đầy đủ chính xác giữa phạm vi của QCT với
phạm vi THQCT....



×