ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM HOÀNG DIỆU LINH
CĂN CỨ TIẾN HÀNH THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ,
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC
GIÁM ĐỐC THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Mở đầu
1
Chương 1: một số vấn đề chung về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện
kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
8
1.1.
Khái quát về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
8
1.2.
Một số vấn đề chung về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự
17
1.2.1.
Khái niệm căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự
17
1.2.2.
Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm theo pháp luật tố
tụng dân sự của một số quốc gia trên thế giới
21
1.2.2.1.
Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm theo pháp luật tố
tụng dân sự của các nước theo truyền thống luật lục địa
(luật dân sự)
21
1.2.2.2.
Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm theo pháp luật tố
tụng dân sự của các nước theo truyền thống luật án lệ và
Nhật Bản
26
1.3.
Một số vấn đề chung về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm
sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
34
1.3.1.
Cơ sở lý luận của việc xác định vị trí, vai trò Viện kiểm sát
trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
34
1.3.2.
Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát (Viện công tố) trong
40
thủ tục giám đốc thẩm dân sự theo pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới
1.3.2.1.
Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát (Viện công tố) trong
thủ tục giám đốc thẩm dân sự theo pháp luật của một số
quốc gia theo truyền thống luật lục địa
40
1.3.2.2.
Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát (Viện công tố) trong
thủ tục giám đốc thẩm dân sự theo pháp luật của một số
quốc gia theo truyền thống luật án lệ và Nhật Bản
47
Chương 2: thực trạng pháp luật về Căn cứ tiến hành thủ tục giám
đốc thẩm và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong
thủ tục giám đốc thẩm dân sự - một số kiến nghị hoàn
thiện
50
2.1.
Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm và vai trò, trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm theo
Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam
50
2.1.1.
Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm theo Bộ luật Tố
tụng dân sự Việt Nam năm 2004
50
2.1.2.
Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám
đốc thẩm theo Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004
58
2.1.2.1.
Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm
59
2.1.2.2.
Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc tham gia phiên
tòa giám đốc thẩm
64
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về căn cứ
tiến hành thủ tục giám đốc thẩm và thẩm quyền của Viện
kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
65
2.2.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về căn cứ
tiến hành thủ tục giám đốc thẩm dân sự
65
2.2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền
của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
81
2.3.
Hoàn thiện các quy định về căn cứ tiến hành thủ tục giám
đốc thẩm và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ
85
tục giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam
2.3.1.
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục
giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm
của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
85
2.3.1.1.
Hoàn thiện pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự phải phù hợp với những
chủ trương, đường lối cải cách tư pháp của Đảng và Nhà
nước ta về hoàn thiện chính sách pháp luật về thủ tục tố tụng tư
pháp và đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân
85
2.3.1.2.
Hoàn thiện pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện
kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự bảo đảm phù
hợp với các nguyên tắc đặc thù của tố tụng dân sự
87
2.3.1.3.
Hoàn thiện pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện
kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự trên cơ sở
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế
88
2.3.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về căn cứ tiến hành
thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
89
2.3.2.1.
Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về căn cứ tiến
hành thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
89
2.3.2.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về vai trò, trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự
95
Kết luận
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
PLTTGQCVADS
: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
UBND
: ủy ban nhân dân
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
TÌNH HÌNH KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM CÁC
NĂM 2005-2008
66
2.2
Tình hình kháng nghị giám đốc thẩm của ngành Kiểm sát
83
2.3
TÌNH HÌNH THAM GIA PHIÊN TÒA GIÁM ĐỐC
THẨM CỦA VKSND
84
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy luật của sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố thuộc cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, pháp luật - một yếu tố thuộc kiến trúc thượng
tầng - dù sớm hay muộn, về cơ bản cũng phải phù hợp với tính chất của nền
kinh tế là cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của nó, bởi sự lệch lạc thái quá tất yếu
dẫn đến việc các yếu tố kìm hãm, hạn chế lẫn nhau. Những nỗ lực không
ngừng nghỉ của chúng ta trong việc cải tổ hệ thống pháp luật diễn ra trong vài
năm gần đây, không gì khác, chính là hệ quả tất yếu của sự phát triển năng
động của các mối quan hệ mang đặc trưng của nền kinh tế thị trường đòi hỏi
phải được điều chỉnh. Đó cũng chính là một cách để Việt Nam thuyết phục
thế giới rằng việc nền kinh tế mà mình đang theo đuổi có định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) không mâu thuẫn hay ngăn cản được một nền kinh tế thị
trường với đầy đủ các mặt tốt, xấu của nó đang hiện hữu ngày một rõ ràng
hơn ở Việt Nam mà biểu hiện nổi bật nhất của nó là đề cao quyền tự do của
con người trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, coi trọng hội nhập, hợp tác trên
phạm vi toàn cầu ở mọi lĩnh vực. Do đó, xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự phải tính đến các khía cạnh của quyền tự do tham gia tố tụng của
con người và có sự tương đồng nhất định với pháp luật, thông lệ quốc tế.
Pháp luật tố tụng dân sự các nước trên thế giới đều được xây dựng dựa
trên các nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, đương sự
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh, bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên trong tố tụng dân sự, bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) Việt Nam năm 2004 cũng đã ghi nhận những
nguyên tắc này nhưng lại chưa thực sự coi nó là những nguyên tắc mang tính
định hướng, chi phối toàn bộ hoạt động của các chủ thể tiến hành cũng như
tham gia tố tụng, trong một số chế định, một số quy phạm của Bộ luật, người
2
ta còn nhận thấy sự vi phạm các nguyên tắc nêu trên và chế định thủ tục giám
đốc thẩm cũng không tránh khỏi hạn chế này.
Các quy định về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm và vai trò,
trách nhiệm của Viện kiểm sát (VKS) trong thủ tục này đã được hoàn thiện
một bước trong BLTTDS, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan có
thẩm quyền trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng giám đốc thẩm. Tuy
nhiên, các quy định còn thiếu cụ thể, rõ ràng và chưa đầy đủ. Nhiều quy định
mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự như không thừa nhận
quyền kháng cáo của đương sự là căn cứ để mở thủ tục giám đốc thẩm, cho
phép kháng nghị không phụ thuộc vào việc có yêu cầu của đương sự hay
không, phạm vi yêu cầu… Đối với quy định về vai trò, trách nhiệm của VKS
trong thủ tục giám đốc thẩm cũng còn tồn tại những bất hợp lý về thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm, phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm, thủ tục tham
gia phiên tòa giám đốc thẩm của VKS
Trên phương diện áp dụng pháp luật, những bất cập trong quy định
của pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm đã tạo ra sức ép lớn
đối với các cơ quan Tòa án và VKS trong việc giải quyết đơn đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm; bản án, quyết định giám đốc thẩm không có giá trị khuôn
mẫu, hướng dẫn hoạt động xét xử; việc kháng nghị còn dựa trên căn cứ mang
tính chủ quan; vi phạm tính thống nhất của hoạt động xét xử Việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm thường gặp phải
những trở ngại do Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không có quyền thay đổi,
bổ sung, rút quyết định kháng nghị tại phiên tòa nên phải hoãn phiên tòa để
xin ý kiến người đã kháng nghị giám đốc thẩm; Kiểm sát viên phải phát biểu
ý kiến về quyết định kháng nghị trong trường hợp VKS kháng nghị gây ra
lãng phí thời gian , và những khó khăn, tồn tại khác nữa.
Ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 49-NQ/TW
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ: "Từng bước
hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ
3
những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng
nghị đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực; khắc phục tình
trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ" [11]. Trong hoạt động tố tụng tư
pháp, cần:
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp…theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để họ chủ động trong thực
thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình [11].
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm
sát trong thủ tục giám đốc thẩm vụ việc dân sự " nhằm hoàn thiện pháp luật
về các vấn đề này có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai
trò, trách nhiệm của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự là những vấn đề
pháp lý tương đối hẹp nên trong khoa học luật tố tụng dân sự từ trước đến nay
chưa có một công trình nghiên cứu khoa học riêng biệt và chuyên sâu về
những vấn đề này.
Vấn đề căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
và vai trò, trách nhiệm của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự cũng
được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu chuyên khảo về luật tố
tụng dân sự gần đây. Đó là: Đề tài khoa học cấp bộ: "Thủ tục giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Viện Khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (VKSNDTC), 2003; Sách chuyên khảo: "Tiến tới xây dựng
Bộ luật Tố tụng dân sự của thời kỳ đổi mới", của TS. Phan Hữu Thư, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2004; Đề tài khoa học cấp bộ: "Căn cứ tiến hành thủ tục giám
đốc thẩm và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc
4
thẩm", của Viện Khoa học kiểm sát, VKSNDTC, 2006; Sách chuyên khảo:
"Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp
dụng", của TS. Lê Thu Hà, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; Sách chuyên khảo "Vị
trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp",
do TS. Khuất Văn Nga chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008… Tuy nhiên,
bởi các công trình đều có phạm vi nghiên cứu rộng nên các vấn đề trên chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện.
Trên một số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành như Tạp chí Kiểm
sát, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật cũng có những bài viết đề cập đến một số
khía cạnh của các vấn đề nêu trên như: "Thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật
Tố tụng dân sự", của TS. Khuất Văn Nga, Tạp chí Kiểm sát, số 12-2003;
"Trách nhiệm kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án kinh tế, dân sự",
của Đào Xuân Tiến, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10-2004; "Viện kiểm sát
nhân dân đã và đang vững bước trên con đường cải cách tư pháp", của TS.
Khuất Văn Nga, Tạp chí Kiểm sát, số 13-2005; "Cần một cách nhìn mới về
thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự", của TS. Nguyễn Ngọc Khánh,
Tạp chí Kiểm sát, số 20-2007; "Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí
Kiểm sát, số 14+16-2008…
Với vấn đề nghiên cứu đặt ra có phạm vi tương đối hẹp là căn cứ tiến
hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của
VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự, người viết mong muốn luận văn
này trở thành một tài liệu tham khảo tương đối đầy đủ và toàn diện, giải quyết
được triệt để và thấu đáo các vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
5
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về căn cứ
tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm
của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự; góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về những vấn đề này.
* Nhiệm vụ
- Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về căn cứ tiến hành thủ tục
giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của VKS trong thủ
tục giám đốc thẩm dân sự.
- Nghiên cứu quy định của pháp luật một số nước theo các truyền
thống pháp luật lục địa và án lệ về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện công tố trong thủ tục
giám đốc thẩm dân sự; chỉ ra được những vấn đề có thể tham khảo trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của VKS trong thủ tục này ở Việt Nam.
- Đánh giá quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về căn cứ
tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm
của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về căn
cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách
nhiệm của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự trước yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn không nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của lý
luận và pháp luật thực định về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong
tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của VKS trong thủ tục này.
- Luận văn chỉ nghiên cứu các căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện công tố (Viện kiểm sát)
6
trong thủ tục này theo BLTTDS năm 2004 và ở một số quốc gia mà người
viết cho là điển hình và có tư liệu thuộc hai truyền thống pháp luật chính trên thế
giới là luật lục địa (Pháp, Nga, Trung Quốc), luật án lệ (Anh, Mỹ, Úc) và Nhật
Bản.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa pháp
luật và điều kiện kinh tế, xã hội, về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử
- cụ thể, phương pháp luật học so sánh
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu
về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò,
trách nhiệm của VKS trong thủ tục giám đốc thẩm dân sự.
- Luận văn chỉ ra được sự khác biệt trong quy định của pháp luật các
nước trên thế giới thuộc các truyền thống pháp luật lục địa và án lệ về vấn đề
nghiên cứu; những yếu tố tiến bộ và phù hợp mà Việt Nam có thể tham khảo
trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của mình về vấn đề này.
- Luận văn lý giải được cơ sở khoa học của việc quy định căn cứ tiến hành
thủ tục giám đốc thẩm và vai trò, trách nhiệm của VKS trong thủ tục giám đốc
thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành; làm rõ một số khái niệm: căn cứ
tiến hành thủ tục giám đốc thẩm, căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
- Luận văn đưa ra được những kiến nghị trực tiếp, cụ thể đối với
những vấn đề nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của luận văn
7
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm
và về vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập các môn Luật tố tụng dân sự, Cơ chế xét xử vụ án dân sự
và các môn học về luật tổ chức hệ thống tư pháp… tại các cơ sở đào tạo luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm và vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm
dân sự - Một số kiến nghị hoàn thiện.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CĂN CỨ TIẾN HÀNH
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ
Thủ tục (trình tự, cách thức, thời hạn ) giải quyết một tranh chấp,
một yêu cầu trong quan hệ dân sự tại Tòa án (từ khi Tòa án chấp nhận đơn
kiện của người khởi kiện đến khi có được một phán quyết cuối cùng về tranh
chấp, yêu cầu đó) hiện nay, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự một số
nước trên thế giới, được thực hiện theo các mô hình chủ yếu sau:
Ở những nước thực hiện chế độ hai cấp xét xử (thường là các nước
theo truyền thống luật dân sự và các nước theo truyền thống XHCN trước đây
như Liên bang Nga, Trung Quốc, Việt Nam…), sau khi xét xử lần đầu (sơ
thẩm), nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án, đương sự có quyền
kháng cáo để Tòa án có thẩm quyền xét xử lại (phúc thẩm). Sau khi đã xét xử
phúc thẩm hoặc sau khi xét xử sơ thẩm mà không có kháng cáo hoặc kháng
nghị trong thời hạn pháp luật quy định thì phán quyết của Tòa án là chung
thẩm, có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, trong trường hợp phán quyết chung
thẩm của Tòa án có sai lầm, pháp luật của các nước đều quy định cho phép
kháng cáo, kháng nghị để mở thủ tục xét lại các bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật với các tên gọi khác nhau như thủ tục phá án, thủ tục
giám đốc thẩm… nhằm hạn chế tối đa các phán quyết sai lầm của Tòa án, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các chủ
thể khác. Hệ thống Tòa án ở các nước này được tổ chức theo cấp xét xử, gồm
Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm (hoặc Tòa thượng thẩm), Tòa phá án (hoặc Tòa
9
án tối cao). Các Tòa án này chỉ giải quyết vụ án theo một trình tự nhất định,
Tòa sơ thẩm chỉ giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, Tòa phúc thẩm làm
nhiệm vụ phúc thẩm và Tòa án tối cao, Tòa phá án làm nhiệm vụ giám đốc
thẩm hoặc phá án.
Hệ thống Tòa án ở các nước theo truyền thống thông luật về cơ bản
gồm Tòa sơ cấp xét xử những vụ việc tranh chấp có giá trị không lớn hoặc có
giá trị lớn nhưng các bên đề nghị và đồng ý đưa ra cấp tòa này để xét xử, Tòa
án trung cấp xét xử những tranh chấp lớn và phức tạp, xét xử phúc thẩm
những vụ án mà tòa sơ cấp đã xét xử, Tòa án tối cao xét xử sơ thẩm những vụ
việc có quy mô quốc gia, những vụ việc liên quan đến Hiến pháp, là cấp ra
phán quyết cuối cùng về các vấn đề tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh từ các
bản án của các tòa án cấp dưới. Ngoại trừ cấp tòa thấp nhất không có thẩm
quyền xét xử phúc thẩm, các tòa còn lại đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm và
xét xử lại các bản án của tòa án cấp dưới. Thủ tục tố tụng dân sự không áp
dụng chế độ hai cấp xét xử, nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án,
đương sự có quyền kháng cáo nhưng tại mỗi cấp Tòa án khác nhau, pháp luật
lại quy định các căn cứ kháng cáo khác nhau. Ở các quốc gia này, không có
khái niệm bản án có hiệu lực pháp luật, bản án chung thẩm và vì vậy, không
có thủ tục xét lại bản án có hiệu lực pháp luật mà các nước theo truyền thống
luật dân sự gọi là thủ tục phá án hoặc thủ tục giám đốc thẩm. Các nước này
thường quy định thủ tục tại Tòa sơ thẩm và thủ tục tại Tòa kháng cáo (Appeal
Court). Tại mỗi Tòa kháng cáo cũng có những căn cứ, thủ tục khác nhau.
Nhật Bản mặc dù không phải là quốc gia điển hình theo truyền thống
thông luật song pháp luật tố tụng Tòa án của Nhật Bản có khá nhiều điểm
tương đồng với pháp luật các nước này. Theo các quy định của BLTTDS và
Quy chế số 5 ngày 17 tháng 11 năm 1996 của Tòa án tối cao Nhật Bản về thủ
tục tố tụng dân sự (sau đây gọi tắt là Quy chế), chế độ xét xử được thực hiện
theo 3 cấp: cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm Koso, cấp phúc thẩm Jokoku, Kokoku
hoặc tái thẩm. Phụ thuộc vào căn cứ kháng cáo, Tòa án có phán quyết bị
10
kháng cáo, Tòa án xét xử lại… do pháp luật quy định mà bản án, quyết định
có thể bị kháng cáo theo từng thủ tục phúc thẩm nêu trên. Trong các thủ tục
này, phúc thẩm Jokoku có tính chất gần giống với tính chất của thủ tục giám
đốc thẩm trong tố tụng Tòa án ở Việt Nam, Liên bang Nga, Trung Quốc hoặc
thủ tục phá án theo pháp luật của Cộng hòa Pháp và một số nước khác trên thế
giới. Sở dĩ pháp luật tố tụng Tòa án ở Nhật Bản gọi thủ tục này là thủ tục
phúc thẩm vì theo quan điểm lập pháp và theo pháp luật hiện hành thì không
có khái niệm "bản án có hiệu lực pháp luật" (hiệu lực thi hành) như các nước
khác. Sau khi phúc thẩm Koso (có tính chất tương tự như phúc thẩm ở nước
ta), nếu thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật thì đương sự có quyền
kháng cáo Jokoku và bản án chưa được thi hành.
Như vậy, khả năng xem xét lại một bản án, quyết định dân sự của Tòa
án đều được pháp luật các nước đặt ra nhằm hạn chế tối đa những phán quyết
sai lầm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, của Nhà nước, của
công chúng và của pháp luật. Tuy nhiên, thủ tục giám đốc thẩm với tính chất
là thủ tục Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị theo những căn cứ do pháp luật quy
định thì chỉ có trong pháp luật các nước theo truyền thống luật châu Âu lục
địa và truyền thống luật XHCN, không có trong pháp luật các nước theo
truyền thống thông luật và một số nước khác như Nhật Bản…
Ở Việt Nam, các quy định về xét lại bản án của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật được quy định từ Thông tư số 321/VHH-CT của Bộ Tư pháp ngày
12 tháng 02 năm 1958 về việc yêu cầu các Tòa án phải nghiên cứu giải quyết
các đơn thư khiếu nại về các vụ án đã xử chung thẩm. Thông tư quy định:
"Đối với những việc đã xử rồi… nếu thấy sai hoặc đúng không rõ ràng thì tùy
từng trường hợp có kế hoạch giải quyết thích đáng (báo cáo cấp trên đề nghị
kháng cáo hay xin xử lại hoặc đặt vấn đề điều tra, xác minh lại )". Trong
giai đoạn này, sở dĩ có các quy định trên là do đòi hỏi từ thực tiễn có nhiều
đơn khiếu nại về các bản án chung thẩm có oan, sai chứ không phải xuất phát
11
từ quá trình nghiên cứu lý luận và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Chính
vì vậy, đã không có một thủ tục cụ thể để giải quyết vấn đề này. Sau đó, các
quy định về xử lại những vụ án do Tòa án nhân dân (TAND) cấp dưới đã xử
mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSND) kháng nghị được quy định cụ thể hơn trong Luật Tổ chức
TAND năm 1960 và Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC và
tổ chức của các TAND địa phương năm 1961. Theo các quy định này, việc xử
lại thuộc thẩm quyền của TANDYC nhưng nếu thấy cần thiết, TANDTC có
thể giao cho TAND cấp tỉnh thực hiện thẩm quyền xử lại đối với những vụ án
mà Tòa án cấp này hoặc cấp dưới đã xử mà bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây chỉ là việc xử lại vụ án bị kháng nghị
bởi Tòa án có thẩm quyền (có thể là Tòa án cấp trên hoặc chính Tòa án đã ra
bản án, quyết định bị kháng nghị nếu được Tòa án cấp trên giao). Quy định
này khác với thủ tục giám đốc thẩm hoặc phá án hiện nay là sau khi có kháng
cáo hoặc kháng nghị giám đốc thẩm, Tòa án giám đốc thẩm sẽ xem xét kháng
cáo, kháng nghị đó và nếu có căn cứ thì hủy án và giao cho Tòa án đã ra bản
án đó xét xử lại. Thủ tục để xem xét kháng cáo, kháng nghị mới là thủ tục
giám đốc thẩm chứ không phải là thủ tục xét lại vụ án như quy định của giai
đoạn này.
Thuật ngữ "giám đốc thẩm" lần đầu tiên xuất hiện trong một văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam lại không phải là văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành về tố tụng dân sự, đó là Luật Tổ chức TAND năm 1981
(khoản 3 Điều 21, khoản 3 Điều 31) trong các quy định về thẩm quyền của
Tòa án chứ không phải dưới góc độ một thủ tục tố tụng. Chỉ đến khi Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) năm 1989 có
hiệu lực thi hành với chế định thủ tục giám đốc thẩm tại Chương XII, lần đầu
tiên hoạt động giám đốc thẩm mới có được cơ sở pháp lý rõ ràng, tương đối
cụ thể. Theo các quy định này, nếu phát hiện thấy bản án, quyết định đã có
12
hiệu lực pháp luật của Tòa án có sai lầm, những người có thẩm quyền (Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án, Phó Chánh án TANDTC,
Viện trưởng VKSND cấp tỉnh và Chánh án TAND cấp tỉnh) sẽ kháng nghị
bản án, quyết định đó. Trên cơ sở kháng nghị, Tòa án giám đốc thẩm sẽ xem
xét lại vụ án và ra một trong những quyết định: bác kháng nghị, sửa bản án,
quyết định bị kháng nghị hoặc hủy bản án quyết định bị kháng nghị và giao
cho Tòa án cấp dưới xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Như vậy,
trong giai đoạn này, giám đốc thẩm được hiểu là việc Tòa án cấp giám đốc
thẩm xét xử lại vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Biểu hiện rõ
nhất của hoạt động "xét xử lại vụ án" là ở quy định Tòa án cấp giám đốc thẩm
có quyền sửa lại nội dung của bản án hoặc quyết định bị kháng nghị.
Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự được hoàn thiện một bước
căn bản trong BLTTDS năm 2004. Theo các quy định này, Tòa án cấp giám
đốc thẩm không có quyền sửa bản án, quyết định bị kháng nghị mà chỉ có
quyền bác kháng nghị, giữ nguyên bản án, quyết định đó hoặc hủy bản án,
quyết định để giao cho Tòa án cấp dưới xét xử lại. Như vậy, giám đốc thẩm
không còn được hiểu là việc "xét xử lại vụ án" như giai đoạn trước nữa mà
chỉ là việc "xét lại bản án, quyết định" có hiệu lực pháp luật. Đây thực sự là
sự thay đổi căn bản quan niệm về bản chất của giám đốc thẩm chứ không chỉ
là việc thay đổi câu chữ trong cách diễn đạt. Như vậy, phải cần đến gần nửa
thế kỷ, Việt Nam mới có được một quan niệm tương đối đúng đắn, tương
đồng với pháp luật các nước về giám đốc thẩm trong khi chúng ta đều biết
rằng, trước khi có quy định về giám đốc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, ở Việt
Nam đã từng biết đến thuật ngữ "phá án", thủ tục phá án với bản chất tương
tự.
Thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của BLTTDS Việt Nam hiện
hành có những đặc điểm chính sau đây:
Đặc điểm thứ nhất, với quan niệm mới về bản chất của giám đốc
thẩm, chế định giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự được xây dựng với tính
13
chất của một thủ tục "đặc biệt" đã được khắc họa rõ nét hơn, thể hiện qua
những quy định cấu thành sau đây:
Một là, BLTTDS lần đầu tiên xây dựng một điều luật chính thức đưa
ra khái niệm về giám đốc thẩm, nội dung điều luật khẳng định tính chất của
giám đốc thẩm "là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
việc giải quyết vụ án". Với quy định này, giám đốc thẩm không phải là thủ tục
thông thường và cũng không phải là cấp xét xử thứ ba (như cách mà người ta
vẫn hiểu về thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của PLTTGQCVADS).
Giám đốc thẩm là thủ tục "xét lại" bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
chứ không phải là thủ tục "xét xử lại vụ án"; đối tượng của hoạt động "xét lại"
không phải là "vụ án" mà là các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án (Điều 282 BLTTDS).
Hai là, căn cứ mở thủ tục giám đốc thẩm chỉ có thể là kháng nghị của
người có thẩm quyền do pháp luật quy định. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc
thẩm chỉ thuộc về một số ít người là người đứng đầu cơ quan Tòa án và VKS
ở cấp tỉnh và cấp tối cao. Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc
thẩm của Phó Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng VKSNDTC theo quy
định của PLTTGQCVADS đã bị hủy bỏ nhằm nâng cao trách nhiệm của
người ra kháng nghị, nâng cao chất lượng kháng nghị (Điều 285 BLTTDS).
Ba là, việc kháng nghị chỉ được tiến hành trong trường hợp có vi
phạm pháp luật đến mức nghiêm trọng được BLTTDS quy định. Theo quy
định tại Điều 283, những căn cứ sau đây được coi là vi phạm pháp luật đến mức
14
"nghiêm trọng" trong việc giải quyết vụ án: 1. Kết luận trong bản án, quyết định
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; 2. Có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng; 3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
pháp luật.
Bốn là, có ba cấp giám đốc thẩm: Ủy ban thẩm phán TAND cấp tỉnh
giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp huyện bị kháng nghị, nhằm hạn chế việc giám đốc thẩm bản án, quyết
định của Tòa án cấp dưới dồn lên TANDTC, nơi mà hiện nay đã thực sự quá tải
về án giám đốc thẩm; Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
TAND cấp tỉnh bị kháng nghị, theo từng loại vụ việc sẽ được giám đốc thẩm
tại Tòa dân sự, Tòa lao động, Tòa kinh tế của TANDTC; Hội đồng Thẩm
phán TANDTC chỉ giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của các tòa chuyên trách của TANDTC bị kháng nghị. Trong trường
hợp có "xung đột" về thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp khác nhau thì
cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án (Điều 291
BLTTDS).
Năm là, phạm vi giám đốc thẩm bị giới hạn bởi phạm vi của kháng
nghị. Chỉ có phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị mới
được đưa ra xem xét. Phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội
dung kháng nghị chỉ bị xem xét lại nếu nó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án (Điều 296 BLTTDS).
Sáu là, không đặt ra vấn đề giám đốc thẩm quyết định của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC vì Hội đồng Thẩm phán TANDTC là cấp giám đốc
thẩm cao nhất và quyết định của cơ quan này còn mang ý nghĩa là khuôn mẫu,
hướng dẫn công tác xét xử nên phải được coi là quyết định cuối cùng, quyết
định tối cao (Điều 285 Khoản 1 BLTTDS).
15
Bảy là, phiên tòa giám đốc thẩm không mở công khai. Về thành phần
tham gia, chỉ đại diện VKS cùng cấp bắt buộc phải có mặt, những người tham
gia tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị chỉ được
tham gia phiên tòa giám đốc thẩm trong trường hợp Tòa án "xét thấy cần
thiết" (Điều 292 BLTTDS).
Tám là, Hội đồng giám đốc thẩm không được quyền "sửa bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật" theo như quy định tại Điều 77
PLTTGQCVADS mà chỉ còn hai loại thẩm quyền: Thứ nhất, không chấp
nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
(Điều 297 điểm 1 BLTTDS); thứ hai, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật hoặc để giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án
cấp dưới đã bị hủy, bị sửa hoặc để xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm lại hoặc
đình chỉ việc giải quyết vụ án (Điều 297 điểm 2, 3, 4 BLTTDS).
Đặc điểm thứ hai, thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của BLTTDS
được đổi mới một cách nửa vời, thiếu triệt để. Thực tiễn đã cho thấy việc tiến
hành thủ tục giám đốc thẩm ở Việt Nam là một sự biểu hiện đầy mâu thuẫn và
bất hợp lý.
Một là, khác với pháp luật tố tụng dân sự các nước, BLTTDS Việt
Nam không quy định quyền kháng cáo giám đốc thẩm của đương sự với quan
niệm sai lầm cho rằng việc ghi nhận quyền kháng cáo giám đốc thẩm của
đương sự làm mất đi tính chất đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm và sâu xa
hơn là tư tưởng về vai trò kiểm soát từ phía Nhà nước đối với việc giải quyết
vụ việc dân sự vẫn còn rất lớn. Thực chất, điều tạo nên tính chất đặc biệt của
thủ tục giám đốc thẩm là khác với kháng cáo phúc thẩm thông thường, kháng
cáo giám đốc thẩm không đương nhiên dẫn tới việc mở phiên tòa giám đốc
thẩm mà cần có thủ tục tố tụng "riêng và đặc biệt" nhằm kiểm tra, xem xét
việc kháng cáo giám đốc thẩm đó có cơ sở hay không rồi mới quyết định việc
mở phiên tòa giám đốc thẩm. Việc BLTTDS không ghi nhận quyền kháng cáo
16
giám đốc thẩm của đương sự đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự, nguyên tắc cơ bản hàng đầu trong tố
tụng dân sự ở các nước trên thế giới.
Hai là, BLTTDS không hạn chế quyền phát hiện, quyền thông báo của
mọi công dân, tổ chức đối với vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật (Điều 284 BLTTDS) nhưng lại không quy định một
cơ chế "riêng và đặc biệt" để xem xét các văn bản thông báo của những chủ
thể này nên trên thực tế, các phát hiện, thông báo (trong đó có khiếu nại hoặc
đề nghị xem xét giám đốc thẩm) gửi tới người có quyền kháng nghị phải được
giải quyết theo trình tự giải quyết đơn khiếu nại thông thường. Điều này có
nghĩa là người có quyền kháng nghị phải giải quyết tất cả các đơn nhận được
và có trách nhiệm trả lời cho tất cả những người thông báo biết lý do trong
trường hợp không kháng nghị. Tình trạng "quá tải" trong việc giải quyết đơn
khiếu nại giám đốc thẩm của các cơ quan TANDTC và VKSNDTC bắt nguồn
từ chính nguyên nhân này và ngày càng trầm trọng hơn khi số lượng đơn
khiếu nại tăng dần qua từng năm. Kháng nghị giám đốc thẩm và hoãn thi hành
án ngày càng nhiều thì càng tỏ ra "thiếu" và "không đầy đủ" so với lượng đơn
đã nhận được.
Ba là, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm được quy định là 3 năm
như hiện nay (Điều 288 BLTTDS) là quá dài, không bảo đảm được tính ổn
định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật dẫn đến tình trạng thi
hành án bị dây dưa, kéo dài.
Bốn là, quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm cả vấn
đề đánh giá chứng cứ của vụ án như quy định tại Điều 283 Khoản 1 BLTTDS
khiến cho thủ tục giám đốc thẩm không còn nguyên nghĩa là thủ tục đặc biệt
nữa mà gần giống với thủ tục thông thường - một cấp xét xử phúc thẩm lần
thứ hai hay một cấp xét xử thứ ba.
17
Năm là, việc BLTTDS bỏ hoàn toàn thẩm quyền "sửa bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án" của Hội đồng giám đốc thẩm là
chưa thực sự hợp lý. Do chất lượng xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm ở
nước ta còn nhiều hạn chế, nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật chỉ có một
phần bị vi phạm và Hội đồng giám đốc thẩm có thể sửa ngay được. Thực
trạng mọi trường hợp đều phải hủy án để xét xử lại làm cho quá trình giải
quyết vụ án bị kéo dài, gây lãng phí lớn, gây bất ổn cho những người có liên
quan đến việc kháng nghị.
Sáu là, BLTTDS không ghi nhận quyền tham gia phiên tòa giám đốc
thẩm của đương sự là chưa bảo đảm quyền tự định đoạt của họ. Phiên tòa
giám đốc thẩm vừa giống một phiên tòa xét xử thông thường vừa giống một
phiên tòa xét xử rút gọn, là nơi diễn ra tranh luận và quyết định hướng giải quyết
vụ án. Do đó, với tư cách là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, đương sự cần được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm để đưa ra ý kiến từ
phía họ.
Đặc điểm thứ ba, quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTDS
còn thiếu tính cụ thể. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất ở quy định về căn cứ
kháng nghị giám đốc thẩm còn rộng, không rõ ràng, dễ bị lạm dụng hoặc vận
dụng sai. Thêm vào đó, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi tham
gia tố tụng tại phiên tòa giám đốc thẩm hiện còn rất chung, chưa phân biệt các
trường hợp VKS tham gia phiên tòa để xây dựng các quy định về thủ tục
phiên tòa cho phù hợp (Điều 295 BLTTDS).
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CĂN CỨ TIẾN HÀNH THỦ TỤC
GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.2.1. Khái niệm căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự
18
Như trên đã phân tích, thủ tục giám đốc thẩm, bởi tính chất đặc biệt
của nó, không được mở một cách đương nhiên và dễ dàng. Dù theo truyền
thống pháp luật nào, thông luật, châu Âu lục địa hay XHCN, dù có áp dụng
chế độ xét xử hai cấp hay không thì pháp luật các nước đều đặt ra các điều
kiện hạn chế đến mức tối đa việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật hoặc bản án, quyết định đã được xét xử phúc thẩm lần thứ nhất.
Trong đó, "rào cản" đầu tiên và cơ bản chính là căn cứ tiến hành (mở) thủ tục
giám đốc thẩm, điều kiện này luôn được pháp luật các nước chú trọng quy
định chặt chẽ và thể hiện rõ ràng trong Bộ luật (Luật) tố tụng dân sự của mình
để không có một phiên tòa giám đốc thẩm nào được mở mà không phục vụ
cho mục đích tối cao là tính đúng đắn của pháp luật, công lý và sự công bằng.
Khái niệm "căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm" cho đến hiện nay
chưa được giải thích trong cả từ điển cũng như là các giáo trình luật học của
các cơ sở đào tạo luật học. Theo Từ điển Tiếng Việt, "căn cứ" được hiểu là
"cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động". Như vậy, căn cứ
tiến hành thủ tục giám đốc thẩm có thể hiểu là cơ sở để tiến hành thủ tục giám
đốc thẩm. Nếu hiểu theo cách này thì căn cứ để tiến hành thủ tục giám đốc
thẩm tức là căn cứ để Tòa án có thẩm quyền mở thủ tục xét lại bản án có hiệu
lực pháp luật chính là kháng cáo hoặc kháng nghị của người có quyền do
pháp luật quy định. "Kháng cáo", "kháng nghị" giám đốc thẩm là quyền phản
đối một cách có căn cứ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của một số
chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là hình thức thể hiện tư tưởng
phản đối, cũng đồng thời là thủ tục thực hiện sự phản đối đó. Nếu không có
kháng cáo, kháng nghị thì một bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật không bao giờ được đưa ra xem xét lại mà phải được thi hành. Các
Tòa án đều có chức năng xét xử, đều nhân danh công lý để ra phán quyết nên
không một Tòa án nào được tự tiện phán xét phán quyết của Tòa án khác khi
phán quyết đó đã được chấp nhận.
19
Tuy nhiên, không phải mọi kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm đều
có khả năng tất yếu dẫn đến việc mở thủ tục này. Qua nghiên cứu pháp luật
thực định một số nước trên thế giới thuộc các truyền thống pháp luật châu Âu
lục địa, thông luật và luật XHCN, ta thấy có điểm chung là ở các nước này
kháng cáo (ở một số nước thì bao gồm cả kháng nghị) không đương nhiên dẫn
đến việc mở thủ tục giám đốc thẩm (hay thủ tục phúc thẩm ở các nước có
truyền thống luật án lệ) và việc có tiến hành thủ tục giám đốc thẩm hay không
là do Tòa án quyết định trên cơ sở xem xét tính có căn cứ của kháng cáo,
kháng nghị theo một thủ tục riêng, chặt chẽ, cùng với một số quy định mang
tính chất thủ tục khác như thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nơi nộp đơn kháng
cáo, kháng nghị, sự cho phép kháng cáo, kháng nghị của cấp tòa cao hơn, án
phí kháng cáo… Như vậy, ở các nước này chỉ có kháng cáo, kháng nghị có
căn cứ theo luật định được Tòa án chấp nhận mới là cơ sở trực tiếp dẫn đến
việc mở thủ tục giám đốc thẩm và phiên tòa giám đốc thẩm không xem xét
kháng cáo, kháng nghị có căn cứ hay không mà xem xét ngay bản án, quyết
định bị kháng nghị có những sai lầm, vi phạm mà kháng cáo, kháng nghị nêu
ra hay không.
Riêng pháp luật Việt Nam quy định theo hướng khác: mọi kháng nghị
giám đốc thẩm đều dẫn đến việc mở thủ tục giám đốc thẩm (BLTTDS không
cho phép đương sự kháng cáo giám đốc thẩm mà chỉ thừa nhận quyền kháng
nghị giám đốc thẩm của người đứng đầu các cơ quan Tòa án và VKS từ cấp
tỉnh trở lên). Tính có căn cứ của kháng nghị chỉ là cơ sở để Hội đồng giám
đốc thẩm chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm chứ
không phải là căn cứ để mở thủ tục này. Trên thực tế, cứ có kháng nghị giám
đốc thẩm là Tòa án phải mở phiên tòa giám đốc thẩm trong thời hạn pháp luật
quy định mà không có thủ tục xem xét kháng nghị đó có căn cứ hay không.
Quy định này có nguyên nhân sâu xa từ quan niệm về nguyên tắc bảo đảm
pháp chế XHCN trong tố tụng dân sự, được thể hiện trước hết ngay trong bản
chất, nhiệm vụ của tố tụng dân sự là bảo đảm cho Tòa án giải quyết vụ án dân
sự một cách công bằng, đúng đắn, khách quan, cũng như để bảo đảm Tòa án