!"
NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MAC-LÊNIN
TIỂU LUẬN
QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO-CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM
Nhóm
thực
hiện:G.STAR
Mã lớp HP:211200719
GVHD:Nguyễn Lâm Thanh Hoàng
TIỂU LUẬN:
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2
!"
QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO-CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: G.STAR
1. Trần Thị Kim Anh 10247061
2.Lam Tiểu Giao 10302941
3.Nguyễn Thị Bích Hiệp 10286051
4. Ngô Viết Cẩm Ly 10270921
5.Nguyễn Thị Ngọc 10269781
6. Lê Thị Kim Oanh 10229191
7.Nguyễn Thị Bích Phượng 10249281
8.Nguyễn Thị Thanh Tâm 10212771
9.Đặng Thị Kim Thanh 10279751
10.Nguyễn Văn Thắng 10243151
11.Lê Hoàng Sơn 10255001
12.Lê Trì Thanh Trúc 10371951
Môn học: Những nguyên lí cơ bản cùa chủ nghĩa Mác Lênin
Mã lớp HP: 211200719
GVHD: Nguyễn Lâm Thanh Hoàng
#$%&'()* *+ ,%- !./01
3
!"
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này,nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn :
Ban Giám hiệu trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho
chúng em trong quá trình học tập.
Khoa lí luận chính trị , giảng viên Nguyễn Lâm Thanh Hoàng đã trang bị những kiến
thức chuyên môn, tận tình hướng dẫn giúp đỡ chúng em và tạo cơ hội được thể hiện khả
năng làm việc theo nhóm, phát huy tinh thần đoàn kết, tìm ra những phương pháp học có
hiệu quả, giúp cho mộn học trở nên thú vị hơn.
MỤC LỤC
#$%&'()* *+ ,%- !./01
4
TP.HCM, ngày 4 tháng 11 năm 2010
Nhóm G.STAR
!"
/567&89* 9:;$)9 <=
>6?>@A%"6B6C9D(76$9E9!9!C76F)CG! * 9G! ./5
67&89"(H6B6IJ6KCALMN6O:;$6"&P6IA>@GQA7
M66JG#%A?R6!9:;$.MJ@M89R&89* 9:;$"&6
CASC?6!9M$65.N"6?C9T6!M("6UVC7* C?6!9
M$6!(9!9!C?6!9 <=
?AW6C66J6;6$9E9!9!C76F)CG! %" (6AS
()X6* 9:;$.&MYMJ@9:;$6$ANAS66J6-!Z!W66J6
[66A?%AG!)Z.9%V @M\9:;$)9'X6"])@'
XBMOM"9:;$)9C)Z6 6!9%"#:;$ R6A?
^)9_66`@;$AN* 9[6)%"abZaM"aOZa6 MYaZ
6\aM"aZ a6$.OM\9:;$)9Z%5!6A[M"C)Z]%S
%"#:;$ R6Cc^)9C76F)* )CcCG! `@CR6!9)]d
Ge]O(YFZ6Y9G! %]dGe6f]O* 976OAbM"!^6D6"])@
MO*]g#@MOAN%`66A?OZA?AG!)Z.N"AhGQA7]5
67&89* b769:;$)9Z%5!6A[ C)Z]%S* G!
@%"!YJ* 9"F)%V@9"Ab6MNG! 67&89 <=
#$%&'()* *+ ,%- !./01
i
!"
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một tất yếu khách
quan, và là xu thế của thời đại, có tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực trong đời sống kinh
tế xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đến nay, trên thế giới đã có đến hàng trăm hình
thức tổ chức liên chính phủ và hàng nghìn hình thức tổ chức phi chính phủ hoạt động
trong hầu hết tất cả các lĩnh vực kinh tế-chính trị-xã hội. Trong đó, có những tổ chức
kinh tế và thương mại quốc tế và các tổ chức liên kết kinh tế và thương mại đặc thù theo
khu vực như khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), thị trường chung Nam Mỹ
(MERCOSUR), tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD),…và đỉnh cao của sự hội
nhập trong lĩnh vực kinh tế và thương mại thế giới là sự ra đời của tổ chức thương mại
thế giới (WTO).
Hội nhập là một xu hướng
đã xuất hiện từ rất lâu mà
tiên phong là trong lĩnh vực
thương mại quốc tế. Tham
gia thương mại quốc tế sẽ
đem lại lợi ích cho các quốc
gia. Đây là điều không phải
đến bây giờ các quốc gia
mới nhận thấy mà nó đã
được các nhà kinh tế học từ
thế kỷ XVIII nghiên cứu và chứng minh. Nó càng được khẳng định khi các lý thuyết
thương mại quốc tế lần lượt ra đời, từ các lý thuyết cổ điển và tân cổ điển như: “Lợi thế
tuyệt đối” của Adam Smith, lý thuyết “Lợi thế so sánh” của David Ricardo, lý thuyết “Tỷ
lệ các yếu tố” của Eli Heckcher và Berti Ohlin đến các lý thuyết hiện đại như: lý thuyết
“Lợi thế cạnh tranh quốc gia ” và “Lý thuyết chuỗi giá trị” của Micheal Porter, lý thuyết
“Vòng đờ sản phẩm” của Vernon,…
Là một quốc gia có nền kinh tế ở trình độ thấp nhưng Việt Nam cũng đã xác định
hội nhập là con đường duy nhất để Việt Nam theo kịp thời đại, điều này đã được Đảng và
Nhà nước ta khẳng định ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Đến nay, Việt
#$%&'()* *+ ,%- !./01
<
!"
Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 200 quốc gia, là thành viên của ASEAN, APEC,
ASEM, ký hiệp định thương mại với nhiều nước trên thế giới trong đó có Mỹ và đang
chuẩn bị cho một sự kiện quan trọng là gia nhập WTO. WTO là tổ chức thương mại thế
giới. Từ khi ra đời nó đã không ngừng lớn mạnh và có sự tác
động rất lớn đến nền kinh tế thế giới. WTO hiện có 150
quốc gia thành viên. Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập
WTO vào tháng 1/1995 và hiện đang là 1 trong 24 thành
viên quan sát của WTO. Việt Nam sẽ trở thành thành viên
của WTO khi chấp nhận các điều kiện của WTO qua các
cuộc đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song
phương với các thành viên có quan tâm đến việc gia nhập
thị trường hàng hoá, dịch vụ. Qua các hiệp định thương mại
song phương của Việt Nam với Hoa Kỳ, Việt Nam đã chấp nhận những nguyên tắc của
WTO như MFN, NT,… Trong hiệp định BTA, Việt Nam cũng đã cam kết Các hiệp định
và thoả thuận của WTO, chứa đựng một hệ thống quy định bao trùm toàn bộ các lĩnh vực
kinh tế – thương mại quốc tế, từ hàng hoá, dịch vụ đến quyền sở hữu trí tuệ. Chúng là
những nguyên lý của sự tự do hoá và những cam kết được chấp nhận. Những cam kết của
các quốc gia thành viên trong việc thực hiện giảm thuế hải quan và những rào cản thương
mại khác nhằm mở ra và giữ một thị trường mở. Nó cũng đưa ra phương thức đối sử đặc
biệt đối với những quốc gia đang phát triển.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
j
!"
Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập
WTO đặc biệt là trong năm vừa qua năm 2005 cùng với mục tiêu gia nhập WTO vào cuối
năm 2005. Trong năm 2005, đã có rất nhiều tác phẩm được xuất bản thành sách hay được
đăng lên các tạp chí về tiến trình gia nhập WTO của Việt
Nam, những nỗ lực của Việt Nam cùng với những thách
thức đặt ra và luôn không ngừng hy vọng rằng Việt Nam
sẽ được đứng trong danh sách số thành viên chính thức
của WTO trước khi bước sang năm 2006. Tuy nhiên đến
tháng3/2006 Việt Nam vẫn chưa trở thành thành viên
chính thức của WTO. Đây là một vấn đề nóng hổi được
toàn quốc quan tâm vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta trong tương lai.
Trước thực trạng đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Tiến trình gia nhập WTO,cơ hội và
những thách thức đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập WTO” để làm đề tài nghiên cứu
khoa học với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung của đất nước.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Phân tích, đánh giá thực trạng tiến trình gia nhập
WTO của Việt Nam. Từ đó tìm ra những nguyên nhân khiến Việt Nam chưa thể gia nhập
WTO, những thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong thời gian tới, qua đó kiến nghị
những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO và đối phó với những thách
thức đặt ra khi Việt Nam gia nhập WTO.
Đối tượng nghiên cứu: thương mại quốc tế của Việt Nam, và kết quả hoạt động kinh tế
đối ngoại của Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Tổng hợp, phân tích thống kê số liệu hệ thống chính
sách, môi trường kinh tế. Trên cơ sở tổng hợp các vấn đề kinh tế vĩ mô và dựa trên số
liệu thống kê thực tế, kết hợp với kinh nghiệm của các nước để phân tích mối quan hệ
nhân quả giữa các chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, và tác động của nó tới môi
trường kinh doanh trong nước và tiến trình gia nhập WTO.
Phạm vi nghiên cứu: các chính sách liên quan tới quá trình gia nhập WTO của Việt
Nam và sử dụng số liệu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi bắt đầu quá trình đổi mới kinh
tế ở Việt Nam cuối năm 1986.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, chúng em xin trình bày đề
tài: Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO cùng những cơ hội và thách thức.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
=
!"
NỘI DUNG TIỂU LUẬN
I.Tổng quan WTO
1. Chức năng-mục tiêu của WTO
1.1. Chức năng
Tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là GATT-Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại được thành lập năm 1947.
Ngày 1-1-1995, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chính thức ra đời theo Hiệp định
thành lập tổ chức này ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994 để thay thế cho Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
Đến nay, số thành viên của WTO đã lên tới 148, trong
đó có 2/3 là các nước đang và kém phát triển. Hiện
nay còn một số nước đang trong quá trình đàm phán
gia nhập WTO như Nga, Lào, Ucraina…
Theo như Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, tổ chức này có năm chức năng cơ bản
như sau:
• Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa
phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước
thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
k
!"
• Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương
trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
• Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực
hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương.
• Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm
thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của
WTO.
• Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định những chính sách và
dụ báo về xu hướng phát triển tương lai của nèn kinh tế toàn cầu.
1.2.Mục tiêu
Với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả
các nước trên thế giới, WTO thừa nhận các mục
tiêu của GATT trong đó có 3 mục tiêu chính như
sau:
• Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa
và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát
triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi
trường.
• Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các
nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng những lợi ích
thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
• Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên,
đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu.
2.Các nguyên tắc cơ bản của WTO
#$%&'()* *+ ,%- !./01
l
!"
Hội nghị Bộ trưởng họp ít nhất một lần trong 2 năm. WTO thông qua các quyết định
bằng sự đồng thuận, không bỏ phiếu kín. Một số trường
hợp cần bỏ phiếu: Sửa đổi một số nguyên tắc nền tảng
như nguyên tắc tối huệ quốc , nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia.
WTO được xây dựng trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản:
(1) thương mại không phân biệt đối xử;
(2) thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán;
(3) dễ dự đoán, dự báo;
(4) tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng;
(5) dành cho các nước đang phát triển một số ưu đãi.
WTO xây dựng một hệ thống các qui định vô cùng phức tạp và cụ thể trên 4
lĩnh vực: thương mại hàng hóa; dịch vụ; đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Đối với nông nghiệp, có một số Hiệp định chủ yếu của WTO liên quan đến nông nghiệp
như: Hiệp định nông nghiệp (Agreement on Agriculture - AoA); Hiệp định áp dụng các
biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (Sanitary and Phitosanitary Agreement - SPS);
Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Technical Barries to Trade -
TBT). Ngoài ra có các hợp phần khác của thương mại nông sản trong các Hiệp định về
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS
II.Quá trình Việt Nam gia nhập WTO
1.Việt Nam trước khi gia nhập
Có lẽ trước khi bàn đến hiện tại,chúng ta cũng nên nhìn lại quá trình phát triền của
Việt Nam trước khi gia nhập vào tổ chức thương mại tố chức thế giới -WTO,để từ đó có
một cái nhìn toàn diện, đầy đủ và sâu sắc về tình hình đất nước ta.
Thực hiện đường lối của Đảng,chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện và
mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc, gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), tham gia hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, diễn đàn kinh tế-Thái Bình
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2m
!"
Dương(APEC); là sáng lập viên Diễn đàn hợp tác Á-Âu(ASEM).Cùng với các nước
ASEAN kí kết hiệp định mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.ASEAN-HÀn
Quốc,ASEAN-Ấn Độ,ASEAN-Úc và New Zealand. KÍ hiệp định thương mại song
phương với Hoa Kì(BTA).Đây là những bước đi quan trọng trong quá trình hội nhập.
Thực tiễn những năm qua chỉ rõ:khi mở cửa thị trường,lúc đầu chúng ta còn gặp nhiều
khó khăn.Mở cửa buôn bán với Trung Quốc,hàn hóa nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp
nước ta vào thế bị động,một số ngành sẩn xuất “lao đao”,một số doanh nghiệp phải giải
thể.Tuy nhiên với thời gian các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên trụ vững và đã có bước
phát triển mới.
Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới sản
xuất,cải tiến kiểu dáng,mẫu mã,nâng cao
chất lượng sản phẩm,nhờ đó mà tăng được
sức cạnh tranh,phát triển được sản xuất,mở
rộng thị trường.
Thực hiện theo cam kết “hiệp định mậu
dịch tự do ASEAN”,chúng ta đã loại bỏ
được hàn rào phi thuế quan,gaimr thuế nhập
khẩu.Đến năm 2006,có 10283 dòng thuế chiếm 99,43% .Biểu thuế nhập khẩu ASEAN có
thuế xuất chỉ ở mức 0-5%,nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ
cao.Trong nhiều năm qua,sản xuất nông nghiệp tăng trung bình 15-16%/năm,kim ngạch
xuất khẩu tăng trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng trưởng kinh
tế cao và lien tục ,tạo thêm nhiều công ăn việc làm.Điều đặc biệt quan trọng có ảnh
hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế ,đã
từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao,thong thạo ngoại
ngữ.Hiện nay đã có một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới,có kiến thức,năng động và
tự tin,dám chấp nhận mạo hiểm,dám đối đầu cạnh tranh.Đây là nguồn lực quí báu cho sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Trong hoàn cảnh đó,Đảng và Nhà Nước ta đã nghĩ đến một “côn đường mới-con đường
vào Tổ chức thương mại thế giới WTO”_báo hiệu mở ra một thời kì mới cho nền kinh tế
VN nói riêng vaf cho toàn bộ xã hội VN nói chung.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
22
!"
2.Sự cần thiết phải gia nhập WTO
Nếu tham gia WTO Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế,bắt đầu nhịp độ của các nước đã
tham gia trước đó. Điều này sẽ đưa nước ta thoát khoi
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Một con người sẽ không
thể phát triển nếu cứ ờ mải trong vòng tay mẹ mà không
ra tiếp xúc, rèn luyện với thế giới ben ngoài. “Đi một
ngày đàn học một sàn khôn”.Cơ hôi được học hỏi, cọ xát và phát triển của các doanh
nghiệp Việt Nam là rất lớn.Vì vậy, việc gia nhập WTO là cần thiết là tất yếu.Trên cơ sở
đó, sau gần 10 năm đổi mới, tháng 1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.
3.Quá trình kí kết
Trên cơ sở sau gần 10 năm đổi mới,tháng 1-1995: Việt
Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét
việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch
là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ
1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc),bắt đầu
“mở một con đường” đưa nước ta tiến vào hội nhập thế giới.
• 8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”( 1996: Bắt đầu
đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA)
• 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa
phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa
các chính sách thương mại vào tháng 7-
1998, 12-1998, 7-1999, và 11- 2000. Kết
thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã
công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá
trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị
trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
#$%&'()* *+ ,%- !./01
23
!"
12-2001: BTA có hiệu lực
• 4-2002: Tiến hành phiên họp
đa phương thứ 5 với Ban
Công tác. Việt Nam đưa ra
Bản chào đầu tiên về hàng
hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến
hành đàm phán song phương.
• 2002 – 2006: Đàm phán song
phương với một số thành viên
có yêu cầu đàm phán, với 2
mốc quan trọng:
• 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
• 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28
đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
• 26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính
thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14
phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
“Trồng cây cũng có ngày hái quả”.cuối cùng vào ngày 7-11-2006: WTO triệu tập phiên
họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
III.Cơ hội –thách thức
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cả những thời cơ và thách thức đan xen.Mỗi người
dân, đặc biệt là các doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ những thuận lợi và khó
khăn để nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức.
1.Cơ hội
#$%&'()* *+ ,%- !./01
24
!"
Nước ta có lợi thế cơ bản là dân số đông, hơn 80 triệu người, đứng thứ 13 thế
giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ có văn hoá hơn 30 triệu người. Việt Nam
có vị trí thuận lợi cả trên bộ, trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển thương
mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất
trong khu vực. Đây là những lợi thế cho phép và chúng ta cần phải tranh thủ phát huy
trong môi trường kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là sử dụng lao động, khi lao động nông
nghiệp, nông thôn của nước ta đang thiếu việc làm.Tham gia vào Tổ chức thương mại thế
giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
• Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên
với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở
cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử.
Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương
lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh
doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như
nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này
là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2i
!"
• Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường
kinh doanh của nước ta ngày càng được cải
thiện. Đây
là tiền đề
rất quan
trọng để
không những phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp
nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng
cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước
ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi
trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần
56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
• Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác
trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công
bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh
nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh
còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào
khả năng tập hợp lực lượng và năng lực
quản lý điều hành của ta.
• Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế
kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính
việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2<
!"
cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả
hơn.
• Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới,
việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho
ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình,
hợp tác và phát triển.
Thực tế:
Về nhịp độ tăng trưởng GDP, nền kinh tế của Việt Nam
trong 6 tháng đầu năm 2007 đã tăng trưởng cao hơn dự
đoán với nhịp độ tăng trưởng GDP ở mức 7,9%. Nhịp độ
tăng trưởng CLĐP trong quý III năm 2007 ước tính
khoảng 8,93% và cả năm 2007 dừ kiến sẽ vào khoảng
8,3% đến 8,5%, đây là mức tăng trưởng GDP cao nhất
trong 10 năm qua. Điều đáng nói ở đây là, tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam nửa đầu năm 2007 phần lớn do tăng
trưởng từ sản xuất công nghiệp (tăng 12,4%), thương mại, dịch vụ (dịch vụ thương mại
và tài chính tăng 10,4%, khách sạn và nhà hàng tăng 12,7% do tiêu dùng và du lịch tăng
cao) và sự phát triển của khu vực tư nhân (tăng trưởng của khu vực tư nhân là 20,5% gần
gấp đôi khu vực nhà nước). Điều này cho thấy, sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt
Nam đã phát triển đúng hướng với việc dựa vào tăng trưởng ở các ngành quan trọng là
công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Do đó, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng
tích cực: tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành công nghiệp – xây dựng đã được nâng cao
từ 41,31% lên 41,48%, của nhóm ngành dịch vụ đã nâng cao từ 38,25% lên 38,44% và
của ngành nông, lâm, thủy sản đã giảm từ 20,45% xuống còn 20,08%. Thêm vào đó, một
tín hiệu đáng mừng cho thấy hiệu quả của việc cải cách chính sách theo hướng không
phân biệt đối xử (giảm dần bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích doanh
nghiệp tư nhân và các loại hình kinh tế khác) và mở cửa thị trường theo các cam kết với
WTO thể hiện ở chỗ trong 6 tháng đầu năm 2007, đầu tư đã tăng tới 14%. Kết quả này có
được là do việc cải cách chính sách đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh theo cam kết
với WTO. Nhưng điều đáng nói nhất là đóng góp phần lớn vào tăng trưởng đầu tư là do
khu vực tư nhân trong nước (chiếm tới 35%). Như vậy, chứng tỏ chính sách cải cách của
chúng ta đã phát huy tác dụng kích thích và tạo điều kiện khuyến khích đầu tư tư nhân
Về xuất khẩu, trong 8 tháng đầu năm 2007 xuất
khẩu của Việt Nam ước đạt 31,218 tỷ USD, tăng l
9,3% so với cùng kỳ năm 2006 (cao gấp hơn 2
lần tốc độ tăng trưởng kinh tế). Trong đó, các
doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 13,758 tỷ
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2j
!"
USD, chiếm 44,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 25,1% so với cùng kỳ
năm trước; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt l 7,460 tỷ USD, chiếm 55,9
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong số
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì dệt may và da giày là những mặt hàng chịu tác động
trực tiếp của cam kết WTO: theo cam kết WTO, Hoa Kỳ đã phải bỏ hạn ngạch nhưng
duy trì cơ chế giám sát, tạo nguy cơ điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may xuất
khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Do chúng ta quản lý tốt công tác giám sát xuất khẩu
hàng dệt may sang Hoa Kỳ để tránh bị kiện bán phá giá nên các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ
đã quay trở lại Việt Nam đặt hàng cho quý IV và các tháng đầu năm 2008. Kim ngạch
xuất khẩu dệt may của Việt Nam 8 tháng năm 2007 ước đạt 5,084 tỷ USD, tăng 29,6% so
với cùng kỳ năm 2006. Đối với mặt hàng da giày, kim ngạch xuất khẩu 8 tháng năm 2007
ước đạt 2,7 tỷ USD, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm 2006. Nhóm hàng công nghiệp và
chế biến có tốc độ tăng trưởng cao và giá trị xuất khẩu lớn bao gồm: hàng dệt may, giày
dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ…(sản phẩm nhựa tăng 49,3%; điện
tử và linh kiện máy tính tăng 24,6%; dây điện và cáp điện tăng 24,5%; sản phẩm gỗ tăng
24,3%…). Nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra do
giá thế giới tăng cao là cà phê, hạt tiêu, sản phẩm nhưa…(cà phê tăng 90,8%, mặc dù số
lượng xuất khẩu chỉ tăng 47,3%; hạt tiêu tăng 20,2%, trong khi lượng giảm 43,l %). Một
số mặt hàng chủ lực khác có giá trị xuất khẩu 8 tháng qua tăng cao so với cùng kỳ năm
trước gồm: nhân điều tăng 24,2%; rau quả tăng 19,3%; than đá tăng 17,4%; giày dép tăng
14,3%; thủy sản tăng 14,1% gạo tăng 12,1%
2.Thách thức
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại,
cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta
là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất
cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.Những thách thức này bắt nguồn từ
sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác
động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
• Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện
rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các
nước, giữa doanh nghiệp nước ta với
doanh nghiệp các nước, không chỉ trên
thị trường thế giới và ngay trên thị
trường nước ta do thuế nhập khẩu phải
cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2=
!"
nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn
giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm,
doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà
nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát
huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được
lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong
một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi
phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng
được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
• Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều.
Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được
hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân
phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ
phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí
còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy
cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân
hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an
sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng:
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
• Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô
đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở
để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước
có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị
trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu
vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước
dân tộc.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2k
!"
• Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền
Thực tế:
Hàng loạt xe nhập khẩu có cơ hội giảm thuế
Thuế nhập khẩu một loạt xe tải van, chuyên dụng và không chuyên dụng sẽ bị cắt giảm
trong thời gian tới theo cam kết WTO và ASEAN.Bộ Tài chính vừa gửi văn bản tới các
bộ ngành có liên quan đề nghị góp ý cho biểu thuế nhập khẩu đối với nhiều phụ tùng,
linh kiện xe tải loại trên dưới 5 tấn theo cam kết WTO và ASEAN. Việc điều chỉnh thuế
theo cam kết được cho là sẽ tác động đáng kể đến các nhà sản xuất Việt Nam.Theo cam
kết ASEAN thì đến năm 2018, các loại xe thu gom phế thải, xe thiết kế chở bê tông, xi
măng sẽ áp dụng chung thuế suất nhập khẩu ưu đãi 0%, trong khi cam kết WTO đến
giai đoạn cuối cùng là 20-25%. Thời điểm cắt giảm cuối cùng theo WTO chính là cuối
năm nay - 2010.
Đối với dòng xe tải, mức cam kết 50-70% WTO vào năm 2014 hoặc 2017 tùy theo trọng
lượng của xe. Thuế suất hiện hành đối với dòng xe này hiện là 80%.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
2l
!"
Bộ Tài chính cho rằng xe tải là tư liệu sản xuất của doanh nghiệp sử dụng để vận chuyển
hàng hóa nên thuế suất hiện hành đối với loại dưới 5 tấn là 80% và từ 6 đến 10 tấn 54-
55% là quá cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt hiện tiếng là nhà sản xuất nhưng
mới dừng lại ở việc lắp ráp những phần chính của ôtô như động cơ, còn lại vẫn nhập
khẩu. Do vậy, Bộ Tài chính dự kiến điều chỉnh giảm thuế đối với xe tải theo hướng chỉ
chênh lệch với bộ linh kiện, phụ tùng khoảng 10-15%. Đây là mức chênh lệch phù hợp
vừa đảm bảo cam kết, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến doanh nghiệp sản xuất trong
nước.
. Các dự án đầu tư cũng được Nhà nước thẩm định có tính đến lộ trình áp dụng cam kết
ASEAN và WTO đến năm 2018. Nếu Bộ Tài Chính bất ngờ hạ thuế đột ngột từ 80%
xuống 30% cho xe tải dưới 5 tấn và từ 55% xuống 25% cho xe tải từ 5tấn đến 10 tấn thì
làm ảnh hưởng rất lớn tới sức tích cực đầu tư mạnh vào nội địa hoá phụ tùng ôtô theo
cam kết với Chính phủ đến năm 2018 khi ra nhâp WTO.
Nặng nề hơn nữa chính sách thuế này sẽ “bóp chết” nền công nghiệp sản xuất ôtô. Và
Việt Nam sẽ trở thành đất nước không có nền công nghiệp ôtô phát triển, và là quốc gia
nhập khẩu tiêu thụ ô tô nước ngoài Hơn nữa số thuế thu được từ thuế nhập khẩu ô tô
nguyên chiếc còn thấp hơn các loại thuế thu được từ các công ty sản xuất trong nước.
Cũng theo cam kết gia nhập WTO thì thuế suất của ô tô dưới 10 tấn là 55% đến 70% đến
năm 2018. Nhưng Bộ Tài chính hạ thuế nhập khẩu nguyên chiếc từ 25% - 30% như dự
thảo thì thấp hơn một nửa so với cam kết của biểu thuế WTO 2018.Từ những phân tích
kể trên, doanh nghiệp đặt câu hỏi: Liệu có nên cắt giảm quá mạnh thế không?
Bộ Tài chính cho biết ngoài xe tải, thuế suất nhập khẩu xe con nguyên chiếc cũng sẽ sẽ
đồng loạt giảm trong vài năm nữa. Theo cam kết, thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc từ
ASEAN sẽ còn 0% vào năm 2018.
Theo đó, các loại ôtô phải cắt giảm thuế suất xuống 70% sau 7 năm kể từ khi gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Tức là đến năm 2014, thuế xe nguyên chiếc nhập
khẩu từ các nước thành viên của WTO sẽ giảm từ 83% hiện nay xuống 70%. Dòng xe
chở người có dung tích xi-lanh từ 2,5 lít trở lên đến năm 2019 sẽ giảm thuế suất từ 90%
xuống 52%.
IV.Việt Nam sau 3 năm gia nhập WTO
#$%&'()* *+ ,%- !./01
3m
!"
1.Tình hình
• Năm 2007, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được hưởng lợi từ nhiều yếu tố tích cực
từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế gắn liền với hội nhập kinh tế quốc tế.
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 tiếp tục đà tăng trưởng của những năm trước
đó, đạt 8,5%, mặc dù giá trên thế giới tăng cao gây áp lực lớn đến giá đầu vào của
sản xuất trong nước.
• Năm 2008, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra theo chiều trái ngược
nhau. Giá nguyên liệu tăng cao tạo sức ép lạm phát cao và tăng trưởng kinh tế thấp
hơn. Kinh tế các nước bạn hàng chính bước vào suy thoái hoặc tăng trưởng chậm
lại cũng là yếu tố ảnh hướng xấu đến xuất khẩu và FDI của Việt Nam, do đó ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.Thêm vào đó là sự lúng túng trong việc xử
lý các bất ổn kinh tế vĩ mô cũng gây ảnh hưởng nhất định đến lạm phát và tăng
trưởng. Mặt khác, giá dầu thô và giá lương thực- hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam cũng như giá nhiều mặt hàng xuất khẩu khác tăng cao; thị trường
xuất khẩu được mở rộng đã tác động tích cực đến tăng trưởng. Do những tác
động tiêu cực ảnh hưởng lớn hơn, truyền dẫn nhanh hơn vào nền kinh tế nên tăng
trưởng GDP đã chững lại chỉ đạt 6,2%. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định
nếu không có hội nhập kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế sẽ thấp hơn.
• Năm 2009 tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế
toàn cầu, tăng trưởng GDP tiếp tục giảm, chỉ đạt 5,3%. Tuy đây là mức sụt giảm
đáng kể từ năm 2009 đến nay nhưng vẫn được xem là tương đối cao so với mức
tăng trưởng thấp hoặc âm của nhiều nước trên thế giới trong bối cảnh khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Như vậy nhìn chung sau 3 năm gia nhập WTO bên cạnh việc đối mặt với những vấn đề
mang tính khách quan chúng ta đã được lợi nhiều. Dù còn có những tồn tại khiến cho
#$%&'()* *+ ,%- !./01
32
!"
nền kinh tế chúng ta chưa khởi sắc, thế nhưng đó là tình hình chung của thế giới. Sau
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, thử hỏi có quốc gia nào giám vổ ngực xưng
tên rằng mình không bị ảnh hưởng? Ngay cả đến những cường quốc hùng mạnh về kinh
tế như Mỹ hay Nhật bản cũng không giám thốt lên điều đó. "Quay đầu nhìn lại" - không
khiên cưỡng, không mệt mỏi mà là nhìn những thành quả gì ta đã làm được, đã vượt qua
được khó khăn như thế nào?
Vấn đề ở chổ là chúng ta không ngủ quên trên chiến thắng mà chúng ta nhìn thành quả để
phát huy, nhìn tồn động để khắc phục. Nhiều hơn thế nữa, là những chuyển biến về mặt
tư duy và nhận thức của người dân cũng như của các vị lãnh đạo đã có những chuyển
biến tích cực.
2.Kết quả
• Chuyển biến mạnh về nhận thức và tư duy
Đằng sau bức tường thành WTO là cả thế giới cho những quốc gia khám phá, trong đó
Việt Nam.
Khi gia nhập WTO đã gia tăng niềm tin vào triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam; thúc
đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu; tăng
cường thu hút FDI Tuy nhiên bên cạnh đó đã bộc lộ những tồn đọng và yếu kém, đó là
chất lượng tăng trưởng thấp; yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực; khả
năng cạnh tranh yếu
Thành quả đạt được cũng có, tồn đọng cũng có , chúng ta sẽ làm gì để tiếp tục phát triển
và khắc phục những hạn chế đây?
Cần cải thiện chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả đầu tư; cải thiện chất lượng FDI;
củng cố ổn định hệ thống và thị trường tài chính; thực hiện chính sách bình ổn kinh tế vĩ
mô kịp thời, linh hoạt, hợp lý, đồng bộ là điều cần thiết.
Bên cạnh đó tái cấu trúc nền kinh tế cũng là vấn đề cần quan tâm, cần trả lời được câu
hỏi: "năng lực hội nhập của Việt Nam như thế nào?"
Ba năm, thời gian chưa đủ để nói lên tất cả, chỉ trong khoản thời gian ngắn chúng ta có
lúc nhìn lại những được và chưa được. Thời gian không ngừng lại, thách thức vẫn còn đó,
#$%&'()* *+ ,%- !./01
33
!"
và cơ hội cũng không phải là hiếm. Chúng ta có quyền hy vọng rằng ngày mai, ngày kia
Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia đứng đầu trên thế giơi về mọi mặt.
Đánh giá về tác động sau 3 năm Việt Nam gia nhập WTO tại hội thảo do Văn phòng
Chính phủ tổ chức hôm qua (24-5), các bộ, ngành, chuyên gia đều có chung nhận định
việc gia nhập WTO đã có nhiều tác động tích cực đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện
khung pháp lý, môi trường kinh doanh minh bạch hơn… Song hội nhập cũng khiến Việt
Nam đối mặt với nhiều thách thức từ bên ngoài ngày càng lớn.
• Tác động tích cực về xuất khẩu, đầu tư
Theo ông Lê Xuân Bá, Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), việc gia
nhập WTO đã có tác dụng tích cực đến tăng trưởng
kinh tế nước ta. điển hình năm 2007, nhờ hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng hơn, rào cản thương mại
tại các nước bạn hàng giảm, Việt Nam đã mở rộng
thị phần sang các thị trường lớn như ASEAN,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU nhờ đó
tăng kim ngạch xuất khẩu, sản lượng các ngành
xuất khẩu đều tăng. Thị trường bên ngoài trở nên đa dạng và Việt Nam đã thâm nhập sâu
hơn thị trường thế giới, xuất khẩu tăng mạnh, nhất là các năm 2007, 2008. Các thị trường
trên chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu nước ta.
Lĩnh vực đầu tư cũng có tác động tích cực. Môi trường pháp lý minh bạch hơn, bình đẳng
hơn, mức độ mở cửa cao hơn sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO. Các điều kiện
ưu đãi trong những hiệp định thương mại, đầu tư song phương và khu vực mà Việt Nam
đã tham gia là những yếu tố quan trọng nhất thu hút đầu tư tại Việt Nam. Tác động của
việc gia nhập và thực hiện cam kết WTO thể hiện mạnh mẽ qua các số liệu: nếu thời kỳ
2001-2006 tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân hàng năm 13,3% thì năm 2007,
năm đầu tiên gia nhập WTO đã tăng cao kỷ lục, tới 27% (năm 2008 và 2009 do khủng
hoảng tài chính, tốc độ tăng đầu tư còn 7,8% và 11,4%). Động lực chủ yếu khiến đầu tư
toàn xã hội tăng cao trong năm 2007 là do khu vực FDI và ngoài nhà nước phát triển
nhanh với tốc độ huy động vốn cao kỷ lục: 93,4% và 26,9%.
#$%&'()* *+ ,%- !./01
34
!"
Một nguyên nhân khiến đầu tư năm 2008 tăng thấp hơn là do giảm đầu tư công để kiềm
chế lạm phát (giảm 16,4% so với năm 2007) nhưng hai khu vực FDI và ngoài nhà nước
vẫn tăng, tuy tốc độ chậm lại. “Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tích cực vào việc
huy động vốn đầu tư nền kinh tế. Theo tỷ lệ so với GDP, tổng vốn đầu tư toàn xã hội sau
khi Việt Nam gia nhập WTO cũng đạt mức cao nhất từ trước đến nay: năm 2007 bằng
46,5% GDP, năm 2008 và 2009 lần lượt là 41,5% và 42,7%”, báo cáo của CIEM nhận
định.
• Đối mặt nhiều khó khăn
3 năm là quãng thời gian không dài để có thể đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về
những ảnh hưởng của việc gia nhập WTO nhưng theo CIEM, bên cạnh việc tạo ra nhiều
cơ hội song hành nhiều thách thức đan xen nhau và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
Việt Nam.
Chẳng hạn như năm 2008, do hội nhập sâu hơn nên việc giá nguyên liệu trên thế giới
tăng cao đã tác động mạnh và nhanh hơn đến nền kinh tế, tạo sức ép lạm phát cao và tăng
trưởng thấp hơn. Kinh tế các nước bạn hàng chính bước vào suy thoái hoặc tăng trưởng
chậm lại cũng là yếu tố ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và FDI của Việt Nam. Do đó ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, theo CIEM, nếu không hội nhập, tăng trưởng kinh tế năm 2008 cũng khó đạt
mức 6,2% và mức 5,3% năm 2009. Về những hạn chế sau khi gia nhập WTO, chuyên gia
kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng GDP năm 2008 và 2009 giảm mạnh so với 2007 đã bộc
lộ nhiều điểm yếu cơ bản về chất lượng tăng trưởng. Do cơ cấu hàng xuất khẩu không
bền vững nên dễ bị tổn thương trước những cú sốc từ bên ngoài.
Theo GS-TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp
hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
Việt Nam cần có sự thay đổi trong việc thu hút
FDI, cần có sự ưu tiên trong các lĩnh vực cần
thu hút và không cho đầu tư khai thác tài
nguyên để xuất khẩu, bất động sản mà để cho
các doanh nghiệp Việt Nam khi đủ mạnh thì
tạo cơ hội cho đầu tư và gắn kết với quốc tế. “Chúng ta không chỉ cần vốn nước ngoài mà
#$%&'()* *+ ,%- !./01
3i
!"
còn cần cả sự lớn mạnh của doanh nghiệp trong nước. Đó mới là chính sách lâu dài”, ông
Mại nói.
Theo nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, dường như Việt Nam “đang có sự lúng túng
trong việc ứng phó với quá trình hội nhập trong bối cảnh khủng hoảng, chưa tận dụng hết
cơ hội đã có”. Nguyên Phó Thủ tướng nhấn mạnh, tái cấu trúc nền kinh tế là vấn đề quan
trọng, cấp bách và lâu dài, nếu không làm tốt vấn đề này sẽ khó hội nhập thành công.
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng, sau 3 năm gia nhập
WTO, chúng ta phải trả lời được câu hỏi năng lực hội nhập của Việt Nam như thế nào.
Năm 2009 đã khẳng định năng lực phản ứng của nền kinh tế và năng lực điều hành của
Chính phủ trước những biến động của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, theo ông Thiên,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp còn hạn chế. Chẳng hạn, sự liên kết giữa
các doanh nghiệp trong nước còn kém, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển…
Kiến nghị về những chính sách trong thời gian tới, CIEM cho rằng, đối với FDI cần thực
hiện ngay các giải pháp cơ bản, như thay đổi tư duy, có quan điểm mới về thu hút và sử
dụng FDI; gắn chiến lược thu hút với giám sát quá trình thực thi, hoạt động; đề ra các
chính sách phù hợp để loại bỏ các dự án không mong muốn và khuyến khích các dự án
cần thiết, chú trọng đến chất lượng; cần tăng cường xúc tiến đầu tư đối với các tập đoàn
đa quốc gia và có các chính sách riêng với các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành
viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…
Bên cạnh đó, giải quyết vấn đề nhập siêu và bình ổn cán cân thanh toán một cách cơ bản
theo hướng phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế để tăng giá trị gia tăng cho xuất khẩu. Cùng với đó, cần
tiếp tục thực hiện các chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô một cách kịp thời, linh hoạt và lựa
chọn mục tiêu tăng trưởng hợp lý trong từng thời kỳ dựa trên thông tin phân tích và dự
báo có tính chính xác, có căn cứ khoa học.
V.Giải pháp tối ưu cho nền kinh tế Việt Nam
#$%&'()* *+ ,%- !./01
3<