TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
-----🙦🙦🙦🙦🙦-----
BÀI THẢO LUẬN
CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
Đề tài:
Tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng của một vùng
văn hóa Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: Dương Hồng Hạnh
Lớp học phần: 217BENTI011
Nhóm: 9
Hà Nội, tháng 11 năm 2021
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM 9
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Tên thành viên
Hồng Anh Qn
Nguyễn Thị Thúy Quỳnh
Trịnh Thị Quỳnh
Nguyễn Quang Sáng
Bùi Đức Tài
Nguyễn Phương Thảo
Nguyễn Xuân Thịnh
Lý Thị Thu
Nguyễn Thị Thu
2
MSV
21D100368
21D100323
21D100369
21D100324
21D100370
21D100371
21D100326
21D100327
21D100372
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu:.......................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................... 4
2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................. 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................................ 5
4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6
6. Kết cấu tiểu luận....................................................................................................... 6
II. Phần nội dung....................................................................................................... 6
1. Giới thiệu chung về văn hoá lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ..........................6
1.1. Khái quát về văn hoá lễ hội của vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ………………..7
1.2. Nét độc đáo đặc trưng trong văn hoá lễ hội vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ........8
2. Những đặc điểm chung về lễ hội chùa Keo.....................................................11
2.1 Những nét độc đáo đặc trưng trong lễ hội chùa Keo...........................................11
2.2 Những giá trị của lễ hội mang lại đối với nhân dân...........................................17
2.3 Những khó khăn thách thức hiện tại của lễ hội chùa Keo...................................19
2.4 Đưa ra những giải pháp cụ thể, thực tiễn để khắc phục những khó khăn...........20
III. Kết luận...............................................................................................................22
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có một hành tinh mang tên Trái Đất và ở đó có một đất nước nhỏ xinh đẹp hình chữ S
nằm bên bờ biển Đơng bao la sóng vỗ mang tên Việt Nam. Việt Nam, cái nơi văn hố
được chắt lọc qua hàng nghìn năm. Và có lẽ trung tâm của mọi tinh t của nền văn hố
ấy khơng thể thiếu vùng văn hố châu thổ Bắc Bộ với vơ số nét văn hoá truyền thống
dường như nơi đây mỗi tấc, mỗi bước đi ta đều cảm nhận được một câu chuyện một nét
văn hố mang ý nghĩa riêng . Đó cũng chính là lý do nhóm cơ sở văn hố chúng em
quyết định tìm hiểu nền văn hố lễ hội nơi đây, đặc biệt là lễ hội chùa Keo. Tại sao
không phải một lễ hội khác mà lại là lễ hội chùa Keo, vậy nó có gì đặc biệt ?
Vùng văn hố châu thổ Bắc Bộ nằm giữa sông Hồng và sông Mã, nơi đây chứa mọi
tinh tuý của dân tộc Việt như văn hố Đơng Sơn, văn hố Đại Việt và văn hố Việt Nam.
Cũng chính trung tâm này, văn hố Việt lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ . Sự lan
truyền ấy chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hoá Việt, sự sáng tạo của người dân đất
Việt. Do vậy văn hố nơi đây vừa có những nét đặc trưng của văn hoá Việt, vừa mang
những nét riêng đặc sắc về văn hóa vùng. Ngồi ra, vùng văn hố châu thổ Bắc Bộ cịn là
sự giao hồ giữa thiên nhiên và con người nơi đây, phát triển dựa trên sự kế thừa và phát
huy bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu có chọn lọc văn hố của khu vực và nhân loại.
Trên mảnh đất quyến rũ thiêng liêng này, có một lễ hội thật đặc biệt diễn ra tại ngơi
chùa cổ nhất Việt Nam đó chính là lễ hội chùa Keo Thái Bình. Mỗi năm, chùa Keo mở
hội hai lần: hội Xuân mùng 4 tháng Giêng âm lịch, hội Thu diễn ra vào trung tuần tháng
Chín âm lịch với nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao mang tính dân gian, gần
gũi với nét sinh hoạt của cư dân trồng lúa nước đồng bằng châu thổ sông Hồng. Lễ hội
được mở hằng năm để nhân dân trong vùng dâng hương, ngưỡng vọng, thành kính tri ân
4
Đức Phật, Đức Thánh, tưởng nhớ công đức của Quốc sư Dương Khơng Lộ, các bậc tiền
nhân có cơng hộ quốc an dân và những người có cơng dựng chùa. Ngồi ra, tháng 10 năm
2017, chùa được đón nhận Bằng ghi danh Lễ hội chùa Keo là di sản văn hoá phi vật thể
quốc gia. Vậy nên áp dụng với những lý thuyết và hiểu biết kiến thức đã tích lũy qua các
tiết học Cơ sở văn hoá Việt Nam cùng với những nguồn tài liệu, nhóm chúng em đã cùng
nhau trao đổi thảo luận về lễ hội chùa Keo.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những nét văn hố độc đáo của lễ hội chùa Keo ở vùng văn hoá châu thổ Bắc
Bộ, những nhân tố ảnh hưởng đến văn hố lễ hội. Từ đó đưa ra hệ thống các giải pháp
góp phần nâng cao hiệu quả của lễ hội chùa keo nói riêng và các lễ hội ở Việt Nam nói
chung.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-
Trình bày hệ thống những đặc điểm, nét đặc trưng của lễ hội chùa Keo ở vùng văn
hố châu thổ Bắc Bộ.
-
Trình bày và phân tích thực trạng hiện tại thơng qua góc nhìn đa chiều, tài liệu có
tính chính xác cao.
-
Đưa ra hệ thống các giải pháp toàn diện và khả thi dựa trên thực trạng hiện tại của
cả nước nói chung và lễ hội chùa Keo nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng:
Đặc điểm văn hóa đặc trưng của lễ hội chùa Keo ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
Phạm vi nghiên cứu :
-
Phạm vi không gian: Tại chùa Keo ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
-
Phạm vi thời gian: Từ khi có lễ hội chùa Keo đến nay tiếp cận nghiên cứu các giá
trị lễ hội.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
-
Vận dụng cách tiếp cận hệ thống để nghiên cứu và tiến hành thu thập tài liệu,
thông tin theo các yếu tố thời gian, không gian.
-
Tổng hợp, phân tích các tài liệu trên các trang mạng, sách báo, tài liệu tham khảo.
6. Kết cấu của Tiểu luận
Gồm 3 phần chính: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận
PHẦN NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung về văn hóa lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ
a. Vị trí địa lý
Châu thổ Bắc Bộ trải rộng từ vĩ độ 21o34’B huyện Lập Thạch tới vùng bãi bồi khoảng
19o5’B huyện Kim Sơn, từ 105o17’Đ huyện Ba Vì đến 107o7’Đ trên đảo Cát Bà. Vùng
nằm ở phía Bắc của đất nước, phía Bắc giáp vùng văn hố Việt Bắc, phía Nam giáp vùng
văn hố Trung Bộ, phía Tây giáp vùng văn hố Tây Bắc, phía Đơng giáp biển Đơng
Khơng những thế vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế
theo hai trục chính Tây- Đơng và Bắc-Nam. Vị trí này khiến cho nơi đây trở thành vị trí
đồn điền để tiến tới các vùng khác trong nước và khu vực Đông Nam Á. Với vị trí địa lý
thuận lợi đã làm cho nó trở thành mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bọn xâm lược
muốn bành trướng thế lực vào Đông Nam Á. Nhưng cũng tạo điều kiện cho dân cư nơi
đây thuận lợi về giao lưu và tiếp thu văn hoá nhân loại
b. Địa hình
Châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng thấp và bằng phẳng,
dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần xuống đến độ cao
mặt biển. Nơi đây có hệ thống sơng ngịi dày đặc tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ
thống giao thông và cơ sở hạ tầng của vùng. Tuy nhiên về mùa mưa dễ gây ra lũ lụt, nhất
là ở các vùng cửa sơng cịn về mùa khơ thì dịng nước trên sơng chỉ cịn 20-30% có thể
gây ra hiện tượng thiếu nước. Đặc biệt ở Vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật chiều. Bởi vậy
6
chính yếu tố nước đã tạo nên sắc thái riêng trong tập quán canh tác cư trú cũng như sinh
hoạt cộng đồng nơi đây vừa có cái riêng vừa có cái độc đáo riêng của vùng
c.Khí hậu
Vùng châu thổ Bắc Bộ thật độc đáo làm sao khác biệt so với các vùng khác. Nơi đây có
bốn mùa rõ rệt dễ dàng cảm nhận được cái nóng bức oi ả của mùa hạ cái se se lạnh của
mùa thu hay cái giá rét của mùa đông đặc biệt cài hơi thở của màu xuân làm cho nơi đâu
thật khác thật riêng biệt. Ngồi ra gió ở đây cũng rất đặc trưng như gió mùa đơng bắc vừa
lạnh vừa ẩm, gió mùa hè vừa nóng vừa ẩm.
d. Kinh tế- xã hội
Nơi đây đóng vai trị quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chung của Việt
Nam do có vị trí địa lý là điều kiện tự nhiên thuận lợi. Với tài nguyên thiên nhiên phong
phú, đa dạng, dân cư đơng đúc, mặt bằng dân trí cao đã tạo nên nhu cầu và mơi trường
lao động, tính cộng đồng và truyền thống văn hoá dân tộc. Đặc biệt là truyền thống lâu
đời về thâm canh lúa nước, cư dân sống với nghề lúa nước làm nông nghiệp một cách
thuần tuý. Biển và rừng bao quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ trong tiềm thức người
nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân ‘xa rừng, nhạt biển’- chữ dùng của PGS; TS. Ngơ
Đức Thịnh. Nhưng giờ đây đã có những trung tâm công nghiệp và hệ thống đô thị phát
triển …là điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển các ngành nghề lao động sản xuất
từ phổ thông đến hiện đại, mang đến sự thuận lợi cho công cuộc định cư lâu dài của con
người.
1.1 Khái quát văn hóa lễ hội ở vùng văn hố châu thổ Bắc Bộ
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu “lễ hội là gì ?”. Lễ hội là một trong những ‘hoạt
động văn hoá cao’, ‘hoạt động văn hoá nổi trội’ trong đời sống con người đồng thời nó là
hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hố có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có vai trị quan
trọng trong đời sống xã hội. Lễ hội gồm có hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ là phần
chính, diễn ra ngắn nhưng không thể thiếu được, mang ý nghĩa tạ ơn và xin thần linh bảo
trợ. Không những thế, phần lễ này cịn có ý nghĩa rất quan trọng và thiêng liêng, chứa
đựng những giá trị văn học truyền thống, thẩm mỹ triết học sâu sắc của cộng đồng. Còn
phần hội là phần hạt nhân của lễ hội. Có hai loại thức cúng: Một là loại thức cúng phổ
biến như oải hương hoa quả, hai là thức cúng mang tính nghi lễ riêng biệt như món bánh
trơi của đền Hát Mơn…
Đặc trưng của dân cư châu thổ Bắc Bộ là sống bằng nghề trồng lúa nước. Ban đầu, lễ
hội chỉ là hình thức để người dân giải trí giữa những vụ mùa rồi lâu dần nó lắng đọng và
trở thành một văn hóa tín ngưỡng.
7
Ở vùng châu thổ Bắc Bộ, lễ hội rất đa dạng, phong phú, rực rỡ về cả thời gian, mật độ
và số lượng. Lễ hội có thể chia theo mùa hoặc chia theo các khu vực, có thể chia thành
hội làng; hội vùng; hội của cả nước; nếu theo thời gian có thể chia thành lễ hội mùa xuân,
lễ hội mùa thu. Dù thuộc loại nào, các lễ hội ấy đều là hội làng của cư dân nơng nghiệp;
hay nói cách khác đó là các lễ hội nơng nghiệp.
Các tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như tục thờ Thành hồng, thờ mẫu, thờ ơng
tổ nghề…hiện diện ở hầu hết các làng quê ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
Lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ không những phác họa về tơn giáo mà cịn mang đậm
chất văn hóa tín ngưỡng văn hóa. Những lễ hội thường được đồng nhất với lễ chùa chiền,
miếu mạo, nếu xét trong phạm vi hẹp nhất định. Khơng những thế, lễ hội cịn là cầu nối
quá khứ với hiện tại giúp giới trẻ biết được công lao của tổ tiên, thêm tự hào về truyền
thống q hương đất nước.
Chính vì thế mà lễ hội ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ có thể được ví như một bảo tàng
văn hóa tổng hợp, nơi đó lưu giữ rất nhiều các sinh hoạt văn hóa của cư dân nông nghiệp.
Với cư dân ở làng quê châu thổ Bắc Bộ, lễ hội là một môi trường cộng cảm, cộng mệnh.
1.2. Nét độc đáo, đặc trưng trong văn hóa lễ hội của vùng châu thổ Bắc Bộ
Như đã trình bày ở trên, châu thổ Bắc Bộ là cái nơi hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi
sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển tiếp nối lẫn nhau. Từ trung tâm này, văn hóa Việt
lan truyền vào Trung Bộ, Nam Bộ. Sự lan truyền ấy chứng tỏ văn hóa châu thổ Bắc Bộ là
sự giao hịa giữa thiên nhiên và con người, phát triển dựa trên sự kế thừa và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc kết hợp tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa khu vực và nhân loại.
Đây là vùng văn hóa đúng như PGS, TS. Ngơ Đức Thịnh nhận xét: “Trong các sắc thái
phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng bằng châu thổ Bắc Bộ là một vùng
văn hóa độc đáo và đặc sắc.” Trong cái bao hàm đó thì đương nhiên văn hóa lễ hội của
đồng bằng châu thổ Bắc Bộ cũng không ngoại lệ, nó cũng có những nét độc đáo đặc
trưng, phù hợp với điều kiện khí hậu cũng như địa hình tự nhiên để tạo nên những nét
thuộc về phong tục tín ngưỡng riêng biệt.
VÍ DỤ VỀ 1 SỐ LỄ HỘI ĐẶC TRƯNG VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ
Hội gò Đống Đa (Hà Nội) – Mùng 5 Âm lịch
Hội gò Đống Đa xảy ra hàng năm vào ngày mùng 5 Tết Nguyên Đán tại gò Đống Đa,
phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội. Ðây là lễ hội thắng lợi, mừng công tích
lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, do Hoàng đế Quang Trung (Nguyễn
Huệ)_người anh hùng áo vải Tây Sơn lãnh đạo.
8
(Hội gò Đống Đa)
Lễ hội Cổ Loa (Hà Nội) - Từ mùng 6 đến 16 Âm lịch
Lễ hội Cổ Loa xảy ra từ mùng 6 đến 16 tháng Giêng âm lịch tại đền thờ An Dương
Vương ở xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Sáng mùng 6 Tết, hội mở bài bằng đám
rước Văn với 5 lá cờ ngũ hành, phường bát âm, giá văn tế đặt trong kiệu Long đình, có
lọng, tàn che.
Sau đám rước Văn là màn tế lễ xảy ra quá giờ ngọ (12 giờ trưa), tiếp theo là đám rước
thần của 12 xóm.
Lễ hội Cổ Loa (Hà Nội)
Ngồi ra trong lễ hội cịn có nhiều trò chơi khác nhau: chơi đu, thổi cơm thi, hát trù,
hát chèo… Hội Cổ Loa kéo dài cho tới 16 tháng Giêng mới làm lễ tế tạ trời đất, kết thúc
lễ hội. Lễ hội Cổ Loa nhằm tưởng nhớ và suy tơn Thục Phán An Dương Vương, người có
cơng dựng nước Âu Lạc và xây thành Cổ Loa.
Lễ hội Chùa Hương (Hà Nội) – Từ mùng 6 đến hết tháng 3 Âm
lịch
9
Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa phận huyện Mỹ Đức,
Hà Nội. Ngày mồng sáu tháng Giêng là khai hội, thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 Âm
lịch.
Chùa Hương là một danh thắng nổi tiếng, khơng chỉ bởi cảnh đẹp mà nó cịn là một nét
đẹp văn hóa tín ngưỡng đạo Phật của người dân nước ta.
Không giống bất kỳ nơi nào, Chùa Hương là một tập hợp nhiều đền chùa hang động
gắn liền với núi rừng, và biến thành một quần thể thắng cảnh rộng lớn, với một kiến trúc
hài hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo.
Chùa Hương khơng chỉ cịn là giá trị một vùng miền, mà là di tích của quốc gia cũng là
giá trị văn hóa tâm linh của một dân tộc, vì nó là giá trị sống của chuỗi phát triển văn hóa
tín ngưỡng.
Trẩy hội chùa Hương
Lễ hội chùa Keo (Thái Bình) – Mùng 4 Âm lịch
Lễ hội chùa Keo được tổ chức tại Chùa Keo, xã độc nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình. Lễ hội được tổ chức trong hai kì một năm: Hội xuân và hội thu. Chùa Keo được
xem là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Việt Nam với gác chuông là cơng trình kiến
trúc được làm hồn tồn bằng gỗ, như một hoa sen vươn lên giữa màu xanh bát ngàn của
q lúa Thái Bình.
Hội chùa Keo thờ thiền sư Khơng Lộ, có cơng chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tơng,
được phong làm Quốc Sư. Mỗi khi lễ hội xảy ra đã lôi cuốn khách du lịch thập phương ở
mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp cư dân trong vùng đến du xuân, cầu may mắn.
10
Trong khi xảy ra lễ hội còn kèm theo các trị chơi dân gian truyền thống, giải trí gắn liền
với sinh hoạt của cư dân nông nghiệp.
2. Những đặc điểm chung về lễ hội chùa Keo Thái Bình
2.1. Những nét độc đáo của lễ hội
Khái quát về chùa Keo:
-
-
-
Chùa Keo thuộc huyện Vũ Thư, Thái Bình, có tuổi đời gần 400 năm, vẫn giữ gần
như nguyên vẹn kiến trúc cổ kính đặc trưng của các ngơi chùa Việt.
Chùa Keo có tên là “Thần Quang Tự”, tọa lạc trên bờ sơng Thái Bình tại làng Keo
nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Dân gian cịn gọi ngơi chùa ở
Thái Bình là Keo trên, phân biệt với chùa Keo dưới ở Nam Định, theo dòng chảy
của con sông. Ngôi chùa Keo ngày nay được xây dựng từ thời vua Lê Trung Hưng
năm 1632 theo lối kiến trúc “Nội công ngoại quốc” đặc trưng của kiến trúc chùa
Việt Nam (có nghĩa là kiến trúc bên trong theo hình chữ Cơng, bên ngồi theo hình
chữ Quốc). Hiện nay, chùa Keo có 17 cơng trình với 128 gian. Tồn bộ khn viên
chùa rộng hơn 41.500m2, gồm 16 tịa kiến trúc với 116 gian xây dựng. Trong
khn viên chùa có 3 hồ lớn gồm hồ giữa tam quan ngoại và tam quan nội và hai
hồ phía sau dãy hành lang đơng và tây.
Chùa Keo Thái Bình được đánh giá là cơng trình có quy mơ rộng lớn bậc nhất
trong các chùa cổ ở Việt Nam, bên cạnh đó là nhiều giá trị kiến trúc nghệ thuật độc
đáo. Bên cạnh kiến trúc “Nội cơng, ngoại quốc” thì việc chùa được xây dựng quay
mặt ra hướng nam với điểm đầu là Tam quan ngoại và điểm cuối Gác chuông nằm
trên một trục bắc – nam được xem là đường “thần đạo” trong phong thủy kiến
trúc.
Từ mặt đê đi xuống là tam quan ngoại. Men theo hồ sen hai bên tả, hữu là hai cổng
tò vò, giữa là tam quan nội. Qua tam quan là khu thờ Phật gồm chùa ơng Hộ, tịa
thiêu hương và điện Phật. Phía trong khu thờ Phật là khu thờ Thánh thờ Thiền sư
Không Lộ, vị đại sư thời nhà Lý. Cuối cùng là gác chuông 3 tầng nguy nga bề thế.
Hai dãy hành lang Đông và Tây nối từ chùa ông Hộ đến gác chuông gồm hơn
hàng chục gian là nơi để Phật tử sắp lễ và du khách nghỉ chân.
Lễ hội chùa Keo là lễ hội vùng, một năm thường mở hai lễ hội là Hội Xuân và Hội Thu.
Hội xuân được tổ chức vào ngày 4 Tết Nguyên Đán. Hội vui xuân chùa Keo xưa, ngoài lễ
Phật là các cuộc đua tài giải trí gắn với sinh hoạt của cư dân nơng nghiệp, trong đó đáng
chú ý là ba trò chơi: Bắt vịt, nấu cơm và ném pháo.
Hội thu mở từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 9 âm lịch hằng năm. Ngày 13 tháng 9 tức 100
ngày sau khi thiền sư Không Lộ qua đời, ngày 14 là ngày sinh của Người, hội mở thêm
ngày rằm là lễ tiết hàng tháng của đạo Phật. Nếu hội Xn ở làng Keo vừa có tính chất thi
11
tài, vừa là hội làng về phong tục thì hội Keo tháng 9 mang đậm tính hội lịch sử, hội văn
nghệ, gắn liền với cuộc đời thiền sư Không Lộ
Lễ hội chùa Keo là lễ hội tôn giáo ( phật giáo) do đó khơng có các hình thức lễ nghi.
Nói đến lễ hội tơn giáo là nói đến một trình tự Lễ và Hội, lễ trước hội sau. Trước khi vào
hội là việc thực hiện các hình thức nghi lễ với thần linh, sau đó là hội với các hình thức
diễn xướng
Quy trình thực hành lễ hội:
- Chuẩn
bị lễ vật:
Lễ vật dâng cúng cả trong lễ hội vui xuân và lễ hội tháng Chín đều được dân làng chuẩn
bị chu đáo từ trước ngày diễn ra lễ hội, với những sản vật quen thuộc của địa phương
như: xôi, rượu, hoa quả, bánh chưng... Tất cả các lễ vật này được người dân lựa chọn
cơng phu, chọn người có uy tín, gia đình đầy đủ, khơng có bụi, làm ăn thuận lợi để thực
hiện công việc làng giao. Lễ vật chuẩn bị xong được dân làng dâng cúng Phật và thánh
trong lễ hội.
- Chuẩn bị các hoạt động khác:
Lễ hội vui xuân vừa là lễ hội nông nghiệp vừa là lễ hội thi tài gắn với sinh hoạt của cư
dân nông nghiệp vùng sông nước. Trước đây, người dân làng Keo còn chuẩn bị cho các
cuộc thi như: thi bắt vịt, thi ném pháo, thi nấu cơm. Tuy nhiên, các cuộc thi tài này nay
khơng cịn thực hành nữa. Lễ hội mùa thu ngồi tính chất là hội thi tài cịn mang đậm
tính chất là hội lịch sử, hội văn nghệ.
Bầu chủ hội và các đại diện giúp việc:
Từ tiết kỵ Thánh mùng 3 tháng 6, sau khi lễ thánh bằng thứ bánh bột gạo nếp trộn
mật nấu cách thủy hai đêm một ngày (tục gọi là bánh bìa), người dân trong xã theo
lệ cũ bầu một ông chủ hội. Chủ hội phải là người có uy tín mới đủ tư cách có
quyền quyết định mọi việc cho hội. Sau đó, người dân bầu các đại diện cho các
làng trong xã để giúp ông chủ hội điều hành mọi việc trong hội.
Dựng phướn, kéo cờ:
Ngày 11 tháng 9, dân làng dựng cây phướn ở sân cỏ trước tam quan ngoại. Cây
phướn cao hơn 100 thước, tức khoảng trên 40m. Để kéo được lá cờ hội mỗi chiều
rộng tới 5m, người dân phải dùng dây kéo bằng 8 cây song.
Chuẩn bị của đội rước kiệu:
+ Cũng trong ngày 11, trai tân khỏe mạnh của làng Keo kéo nhau đến khoảng sân
lát đá trước tam quan ngoại để dự cuộc chọn trai vào kiệu. Kết thúc cuộc tuyển trai
này, ông chủ hội chọn 42 trai làng khỏe mạnh, thuần thục động tác để rước kiệu,
rước nhang án, long đình, thuyền rồng và tiểu đĩnh (thuyền cò). Người làng Keo
gọi việc chọn trai này là “kéo kén”, nghĩa là kéo quân để kén người.
12
+ Ngày 12, 42 trai làng được tuyển hôm trước lại dự cuộc kéo kén lần nữa để chọn
người rước kiệu thuyền rồng, gồm: 4 người vào địn chính, 8 người vào đòn gồng
(mỗi gồng 2 người), 2 người cầm quạt vả che hai bên kiệu chính. Những người
cịn lại sẽ rước nhang án, long đình, thuyền rồng và tiểu đĩnh…
Chuẩn bị của đội tế nữ quan và nam quan:
Trước lễ hội nhiều tháng, các đội tế nữ quan, nam quan bắt đầu tập luyện theo lệ
cũ, tập luyện rất nghiêm túc và hướng dẫn những thành viên mới của đội.
►Phần lễ:
Phần lễ được cử hành trịnh trọng, tôn nghiêm. Phần lễ của lễ hội chùa Keo gồm các
nghi thức:
Lễ nhập tịch, lễ dâng hương:
Lễ nhập tịch mở cửa chùa là nghi lễ quan trọng nhất của lễ hội. Đầu tiên là đại diện của
tám giáp làng Keo lên cầu sớ và dâng hương, sau đó là màn dâng hương của nhân dân và
du khách. Lễ nhập tịch và lễ dâng hương như một nghi lễ để mời thiền sư và các vị thần
linh về dự hội, ban cho lễ hội diễn ra thuận lợi, suôn sẻ.
● Lễ rước nước:
Sáng sớm ngày 13, sau khi làm lễ nhập tịch mở cửa chùa, làng làm lễ lấy nước từ giữa
sông Hồng rước về chùa. Nước được đựng vào một chiếc bình sứ đã được lau chùi sạch
sẽ. Nước phải được múc bằng gáo đồng đỗ qua miếng vải đỏ ở miệng bình , sau đó được
đưa lên kiệu rước về chùa Lễ rước nước nhằm mục đích lấy nước đó tắm tượng Thánh và
rửa khí tự đồng thời cũng là một nghi thức cầu mưa của cư dân trồng lúa nước. Việc rước
13
nước ở giữa dịng sơng để mong muốn cân bằng âm dương, tìm đến sự cân bằng trong
lưỡng phân- lưỡng cực tạo ra sự phát triển bền vững. Điều đó thể hiện nền văn minh văn
hóa lâu đời của cư dân trồng lúa nước vùng châu thổ Bắc Bộ.
● Lễ mộc dục:
Sau khi rước nước về, làng cử hành nghi lễ mộc dục (lễ tắm tượng Thánh). Nghi lễ này
được do chủ hội và một số người uy tín trong làng tiến hành một cách nghiêm trang, kín
đáo. Người mộc dục cho tượng Thánh phải trai giới trước đó và làm lễ bịt miệng bằng
một chiếc khăn điều để trần khí khơng xơng tới Thánh cung mà mang tội. Tượng thánh
được tắm 2 lần: lần 1 bằng nước được rước về, lần 2 bằng nước ngũ vị hương. Nước tắm
tượng Thánh là nguồn nước mát lành có thể rửa sạch những tanh hôi bụi trần, đem lại
phước lành may mắn cho mọi người.
Thông qua nghi lễ này cho thấy cội nguồn xa xưa từ những nghi thức cầu mưa của cư dân
nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam.
● Lễ phục miều Y:
Hằng năm cứ đến dịp này, 100 vuông lụa tốt được dân làng chuẩn bị kĩ lưỡng để may áo
cho tượng Thánh. Sau đó chọn một ngày lành, dân làng tổ chức lễ phục y tượng Thánh để
may áo cho tượng Thánh. Thông qua lễ phục y, dân làng mong muốn nhận được phước
lành từ đức Thánh cho con cháu, người già em nhỏ…
● Lễ Thánh đản:
Được tiến hành vào đêm ngày 13 rạng sáng ngày 14 . Trong toà Thiêu Hương trước bài
vị Thánh là trầm hương và một mâm son bày hoa quả tươi, bên cạnh đó là một mâm bánh
đầy cùng ấm đĩa chén được mạ vàng , trạm nổi hình rồng phượng , con trâu bạc đặt ngay
cạnh mâm. Nghi lễ này được cử hành bởi các thầy chùa mặc áo cà sa đọc Thánh ca bằng
lời cổ với giọng ê a trầm bổng trong tiếng mõ cầm nhịp và hồi chuông nhỏ ngắt câu chia
đoạn, ở toà thánh Giá Roi các lão bà lần tràng hạt chầu kệ (thánh ca diễn nôm). Một già
lĩnh xướng dẫn lời trong tiếng mõ đều đều , các già khác đồng thanh đệm ‘A di đà phật’
kèm tiếng chuông chấm câu và hồi chuông ngắt đoạn. Lễ Thánh đản nhằm mục đích đón
rước và thỉnh mời đức Thánh về dự hội, hưởng lễ vật, đây cũng là dịp dân làng chúc
tụng,. bày tỏ lòng biết ơn đối với đức Thánh và cầu mong ngài phù hộ dân làng được yên
bình
14
Rước phụng nghinh:
Đây là lễ rước có quy mơ lớn cả về số người, số kiệu rước và các hoạt động khác. Sáng
ngày 13, dân làng tổ chức đám rước nhang án, long đình, thuyền rồng, thuyền cị ra tam
quan ngoại, rồi từ tam quan ngoại về tòa Thiêu Hương.
Sáng ngày 14, hội chùa Keo kỉ niệm ngày sinh của thiền sư Khơng Lộ với đám rước có
hàng trăm người tham gia. Nghi thức này đã diễn tả lại cuộc đời của ngài. Những người
được chọn vào đội rước phải là những người khơng có tang chế, đẹp người, khỏe mạnh,
nhanh nhẹn. Đội hình rước kiệu Thánh gồm 42 người, 4 người trong số đó cho vị trí địn
chính, 8 người đoàn gồng, 2 người quạt vả, 8 người rước nhang án, 10 người rước long
đình thuyền rồng bà thuyền cị.
Nghi lễ nhằm biểu thị tấm lịng thành kính sâu sắc và ghi nhớ công lao đối với vị Thánh
đã có cơng với nước và tổ tiên làng xã. Nghi lễ rước kiệu vừa mang tính đặc trưng tơn
giáo vừa mang đậm đà sắc thái của những người dân chất phác, mộc mạc đất Thái Bình.
Qua nghi lễ đó mọi người cầu mong một cuộc sống sung túc, đủ đầy, an khang thịnh
vượng, phát tài phát lộc và một mùa màng bội thu cho những người nông dân.
Đám rước chùa Keo là một trong những đám rước hoành tráng nhất trong các lễ hội
miền Bắc. Nét độc đáo trong đám rước này là diễn tả lại sự tích xuất thân của thánh
Khơng Lộ với những trị diễn xướng dân gian.
► Phần hội:
Phần hội là những trò chơi dân gian đậm màu sắc dân tộc:
● Bắt vịt: diễn ra tại ao trước cổng chùa trị bắt vịt khơng đơn thuần chỉ là trị chơi
giải trí mà cịn là tục cầu lộc, cầu may để có mùa màng bội thu.
15
● Thổi cơm: Thi thổi cơm liên quan đến sự tích thánh Khơng Lộ và sư Giác Hải,
Đạo Hạnh đi lấy kinh, khơng có lửa nấu cơm. Trị chơi vừa thể hiện tính khéo léo,
nhanh nhẹn và phản ánh đậm nét đời sống lao, động của cư dân trồng lúa Việt
Nam.
Thi ném pháo: Vào cuộc thi, khi người xem đã đứng ổn định quanh sân, ông chủ
khảo cho nổi ba hồi trống cái, các giáp lần lượt cử người vào chơi. Người chơi tay
cầm quả pháo nhỏ, tay cầm nén hương đang cháy bước vào vịng trịn vạch vơi đã
quy định. Khi nghe tiếng trống hiệu, người chơi châm hương vào ngịi pháo và
ném quả pháo lên nón pháo trên cột. Nếu ném pháo lọt vào nón pháo đúng lúc
pháo nổ sẽ làm cháy lá đề. Lửa sẽ bén vào ngòi, làm nổ dây pháo tép, lan đến 4
quả pháo nhỡ và cuối cùng làm nổ quả pháo to. Cuộc vui có thể chỉ diễn ra với
một hoặc hai người đủ cho cả 8 chàng trai của 8 giáp đều được vào dự cuộc.
Người thắng cuộc sẽ được thưởng tiền. Theo quan niệm của người dân, người
thắng cuộc sẽ được may mắn cả năm. Trò chơi này cũng mang ý nghĩa cầu mưa
của cư dân nông nghiệp, cầu mong mùa màng bội thu.
● Đua thuyền
● Tổ tôm, tổ điếm: Đây là trị chơi dân gian có từ rất lâu và là thú vui tao nhã, cũng
phải đấu trí như chơi cờ.
● Múa rối cạn: Một hình thức nghệ thuật đặc sắc thể hiện sự khéo léo của những
người nghệ nhân. Nhóm rối rất sinh động gồm có cơ tiên và sáu đầu rối được thể
16
hiện với những nét mặt khác nhau. Qua mỗi màn múa rối đều thể hiện những sự
tích, những lời khuyên răn trong đạo lí con người.
● Bơi trải: Để ơn lại sinh hoạt buổi thời thiếu của Quốc sư Không Lộ được tổ chức
vào ngày 15 , đây là hoạt động không thể thiếu trong hội chùa Keo. Ban tổ chức
phải quy định tuyến bơi, định đường đua đồng thời cắm phao, đích và đặt giải
thưởng, nhắc nhở luật chơi đảm bảo tính trong sáng tình cảm của xóm làng.
● Thi giã bánh dày : Dân làng thi nhau làm bánh dày đem ra đền làm lễ. Các xóm
phân cơng nhau làm lệ, ai đến phiên phải làm 30 tấm bánh, mỗi tấm nặng chừng
1,6 kg . Khi các xóm mang bánh ra đình phải trình bày ban giám khảo để xem xét
chấm giải. Bánh xóm nào mịn, trắng xanh, đúng quy cách sẽ trúng thưởng.
● Đêm thơ hội làng: Là một hình thức mới trong những năm gần đây. Đây là cuộc
thi của các thầy cúng có giọng đọc tốt văn hay ở các làng lân cận về dự thi, tự
trình bày sáng tác của mình bằng văn nơm trào phúng. Trong khi đó ở dưới ao
cuộc thi bơi thuyền của tám em nhỏ chừng mười tuổi cũng bắt đầu . Sau lễ thánh
một hoạt động văn nghệ thuật khá hấp dẫn được tổ chức đó là thi kèn trống
Cuối lễ hội cịn có nghi lễ chầu Thánh, nghi lễ đặc biệt chỉ có ở lễ hội chùa Keo. Hình
thức chầu Thánh này được cách điệu như một điệu múa. Điệu múa chầu thánh là điệu
múa cổ diễn tả bằng điệu chèo cạn và múa ếch vồ. qua đó thể hiện với thần thánh long
biết ơn vô bờ bến của dân làng đối với ngài.
2.2. Giá trị của lễ hội:
a) Giá trị tâm linh:
Lễ hội chùa Keo gắn với sự tích về thiền sư Khơng Lộ phản ánh một thời kỳ phát triển
của Phật giáo Việt Nam. Thánh tổ Không Lộ được coi là vị thần của dân gian, thần đánh
cá, thần đúc đồng, thần chữa hổ. Lễ hội thể hiện sự suy tôn của cộng đồng đối với thánh
Khơng Lộ - nhân vật được huyền thoại hóa thành vị thần bảo hộ, che chở cho làng, được
thánh hóa để trở thành vị thánh quyền năng của cư dân nơng nghiệp.
Trong khn khổ lễ hội có nhiều nghi lễ nhằm biểu thị tấm lịng thành kính và ghi nhớ
cơng lao đối với thánh thần và tổ tiên làng, xã. Qua các nghi lễ đó, dân làng cầu mong
thánh thần phù hộ độ trì, che chở cho mùa màng bội thu, cuộc sống an khang thịnh
vượng, phát tài phát lộc.
b) Giá trị cộng đồng, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá
17
Lễ hội chùa Keo là dịp để nhân dân trong vùng, trong tỉnh có thể tụ hội, là cơ hội để
những người con xa quê có thể trở về và hịa vào khơng khí lễ hội với gia đình, người
thân, bạn bè, là dịp để cộng đồng dân cư giao lưu với nhau, củng cố và nâng cao mối
quan hệ, gắn kết tình làng xóm, gia đình,…
Lễ hội làm cho q trình giao lưu văn hóa giữa 2 bờ sơng Hồng, giữa các địa phương
ngày càng phát triển. Tổ chức và duy trì lễ hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng và vui
chơi lành mạnh của người dân, giúp tăng cường mối đồn kết, gắn bó giữa các thành viên
trong làng xã, thơn xóm, gia đình; đồng thời, gửi gắm ước mơ, khát vọng về cuộc sống
ấm no, hạnh phúc. Lễ hội là thời gian phù hợp nhất, là dịp để trai gái có điều kiện gần
gũi, giao lưu tìm hiểu, vui chơi, thổ lộ tâm tình….
Lễ hội chùa Keo cũng mang lại cơ hội cho cư dân trong làng có thể xóa bỏ hiềm khích,
mâu thuẫn để cùng nhau sửa sang đình, chùa, dọn dẹp đường làng ngõ xóm, chuẩn bị chu
đáo cho ngày lễ quan trọng của làng, xã.
c) Giá trị truyền thống, bảo tồn và trao truyền văn hóa:
Lễ hội chùa Keo mang các giá trị về mặt lịch sử, phong tục, là bảo tàng sống về các
giá trị tinh thần, dân chủ, nhân văn đã được kết tinh trong suốt chiều dài lịch sử, mang
tính truyền thống sâu sắc. Lễ hội chùa Keo bắt nguồn từ truyền thống nhớ về cội nguồn,
từ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Lễ hội gợi nhớ lại công lao to
lớn của Thánh Tổ Không Lộ đối với người dân.
Lễ hội là một hình thức tái hiện lại quá khứ của người dân xưa thông qua các hoạt động
tế lễ, văn nghệ, trò chơi dân gian. Tại lễ hội, thơng qua hình thức biểu diễn nghệ thuật
dân gian, sẽ tái hiện lại lối sống của vùng dân cư châu thổ sông Hồng, mang đậm màu sắc
văn hóa nơng nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ.
Lễ hội chùa Keo được người dân lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua
dịp lễ hội hàng năm. Lễ hội khơng những được bảo tồn mà cịn được phát huy, mở rộng
bởi các thế hệ sau này.
d) Giá trị du lịch:
Các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng độc đáo trong lễ hội chùa Keo đã có từ hàng trăm
năm nay. Trước kia, có giai đoạn, do điều kiện đất nước có chiến tranh khiến việc tổ chức
lễ hội và các hoạt động truyền thống trong lễ hội chùa Keo ít nhiều bị ảnh hưởng. Từ năm
1980 đến nay, với sự quan tâm của các cấp, các ngành, lễ hội chùa Keo truyền thống
được khơi phục, duy trì và phát huy.
Lễ hội chùa Keo là di sản văn hóa dân tộc, là nguồn tài nguyên quan trọng trong việc
phát triển văn hóa và du lịch tâm linh ở Việt Nam. Lễ hội cịn là hình thức sinh hoạt tổng
18
hợp, là một sinh hoạt văn hóa mang sắc thái vùng miền, nên thu hút nhiều du khách. Lễ
hội chùa Keo bao gồm nhiều nghi lễ độc đáo, trò chơi dân gian đặc sắc nên phù hợp với
mọi lứa tuổi, mọi người dân nên thu hút rất nhiều người dân lẫn du khách đến tham gia.
Số lượng khách du lịch đến với lễ hội chùa Keo ngày càng đông và cũng mang lại cho
người dân địa phương nguồn lợi kinh tế cao thông qua các hoạt động dịch vụ trong lễ hội.
Du khách hành hương về chùa Keo ngoài việc lễ phật, lễ thánh cịn được chiêm ngưỡng
một cơng trình kiến trúc độc đáo có lịch sử gần 400 năm mà hiện nay rất ít các cơng trình
văn hóa cổ nào cịn giữ lại được. Khơng những thế theo thống kê hằng năm đón 500000
đến 60000 lượt khách mang lại giá trị kinh tế.
Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội chùa Keo được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 217/QĐBVHTTDL ngày 23/01/2017.
2.3. Khó khăn gặp phải trong lễ hội chùa Keo:
Công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm chưa được quản lý chặt chẽ
dẫn đến nhiều trường hợp đáng tiếc như ngộ độc thực phẩm còn xảy ra.
Đặc biệt ở lễ hội chùa Keo sử dụng thuyền gỗ dễ gây cháy nổ.
Ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội của một bộ phận người dân
vẫn cịn hạn chế:
Chính vì nếp sống tùy tiện, thiếu ý thức của một bộ phận du khách và người dân, sự
buông lỏng quản lý của cơ quan quản lý văn hóa và các cấp chính quyền là ngun nhân
gây nên sự xơ bồ, mất trật tự, khiến cho trật tự an toàn chưa đảm bảo, nạn trộm cắp, lừa
đảo, ăn xin, ùn tắc giao thông, chen lấn xô đẩy diễn ra khá phổ biến trong các lễ hội.
Thực tế đã diễn ra nhiều tình huống đáng tiếc khơng đáng có như mất cắp điện thoại, ví
tiền, bị rạch túi, bị lừa đảo mua hàng hoặc ép giá, chèo kéo mồi chài tham gia các trị chơi
mang tính chất cá cược,.. Nhiều vụ tai nạn, va chạm xích mích chỉ từ sự lộn xộn, chật
chội của địa hình, địa thế (như trong hậu cung chật hẹp, nơi hóa vàng mã khơng rộng rãi,
đường đi quanh co khúc khủy, bãi đỗ xe lắt léo hoặc trên mơi trường sơng nước, bến
bãi...) mà có thể dẫn đến thương tật suốt đời hoặc án mạng tại chỗ... Điều đáng tiếc xảy ra
do cả nguyên nhân từ người đi dự hội, du khách... lẫn cơ quan, chính quyền địa phương
sở tại.
Những đối tượng cờ bạc thường lợi dụng tâm lý tò mò, cả tin, cầu may và hám lợi của
người dân để dụ dỗ cò mồi người đi lễ hội, tham quan di tích chơi xóc đĩa, đánh bài, đánh
cờ thế, hoặc đánh bạc theo hình thức “tơm, cua, cá, bầu", thò lò, tung vòng trúng
19
thưởng,... Mùa lễ hội cũng là mùa cờ bạc ẩn hình bằng nhiều trị vui chơi có thưởng, thu
hút nhiều người, được coi như một hình thức tiêu khiển vui vẻ được thua là “lì xì” đầu
năm hay “tán lộc”, xua đuổi vận đen để đón năm mới. Trị chơi chọi gà ở nhiều lễ hội
khơng cịn là một trị chơi vui thuần túy, đã bị biến thành trò cờ bạc để ăn thua, sát phạt
nhau.
Không những thế lễ hội chùa Keo vẫn xảy ra các tình trạng như các dịch vụ di kèm phát
sinh trong lễ hội nở rộ và luôn song hành cùng tệ nạn o ép, chèo kéo, ép giá: dịch vụ sắp
lễ, đội lễ thuê, khấn thuê trọn gói, hóa tiền vàng mã, xin xăm, xóc thẻ, giải thẻ, cầu cúng
giải tội giải hạn, bán bùa cầu an sát tà,... khá lộn xộn khiến cho một bộ phận người dân sợ
hãi và buồn rầu, ngơ ngác, bán tín bán nghi sau các dịp đi lễ hội.
Tệ nạn xã hội tại lễ hội, dù dưới hình thức cơng khai hay trá hình, lén lút, giấu giếm... đều
là “mặt xám” của tổng thể các hoạt động văn hóa và tâm linh xảy ra trong kỳ dịp hoặc
thường xuyên, khiến chất lượng và uy tín của lễ hội bị ảnh hưởng, giảm sút, thậm chí tạo
nên hiệu ứng tâm lý không tốt cho đối tượng người hành lễ, du khách tham quan (nhất là
trong trường hợp chính họ là nạn nhân).
Tình trạng ơ nhiễm mơi trường ở lễ hội:
Dịch vụ trong các lễ hội gồm có: dịch vụ ăn nghỉ (quán ăn uống, quán trọ, nhà hàng, p, ô
tô...; dịch vụ vệ sinh môi trường, thu gom rác thải; dịch vụ văn hóa, tín ngưỡng: chụp
ảnh, tổ chức các trò chơi xem biểu diễn nghệ thuật, mua bán đồ lễ, sách và các loại văn
hóa phẩm, đồ lưu niệm... ở nhiều nơi trong thời gian diễn ra lễ hội đã bị “biến tướng” lạm
dụng quá mức khiến cho không gian chợ búa thương mại lấn át không gian văn hóa, làm
xấu đi hình ảnh đẹp của di tích và lễ hội. Vì vậy cần xem xét nhu cầu của người dự lễ hội,
khách hành hương về đi lại, ăn, ở, hướng dẫn tham quan, mua sắm, vui chơi giải trí để
phục vụ, bảo đảm chất lượng, đem lại danh tiếng và uy tín cho di tích, lễ hội.
Những yếu kém, tiêu cực trong hoạt động lễ hội và thực hiện chưa tốt nếp sống văn
minh trong sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội đang ảnh hưởng đến mơi trường văn hoá, gây nên
sự bức xúc trong dư luận. Từ thực trạng đã ở trên đang đặt ra vấn đề quản lý và tổ chức lễ
hội truyền thống hiện nay phải có những đổi thay theo kịp sự đổi thay của thực trạng lễ
hội. Để lễ hội vẫn giữ được bản sắc văn hóa, cơng tác tổ chức và quản lý lễ hội hiện nay
đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ mối quan hệ nhiều chiều trong đời sống văn hóa - xã hội,
giữa du lịch, kinh tế... và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
2.4. Giải pháp bảo tồn và phát triển chùa Keo:
Lễ hội chùa Keo đã trở thành hình thức sinh hoạt văn hố cộng đồng không thể thiếu
nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân về đời sống tinh thần, đời sống tâm linh. Để bảo tồn
20
và phát huy giá trị của lễ hội, các cơ quan, đơn vị của tỉnh Thái Bình đã thực hiện những
hoạt động cụ thể:
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch của tỉnh Thái Bình đã phân cấp, giao huyện Vũ Thư
lập Ban Quản lý di tích để quản lý và bảo vệ, phát huy giá trị di tích, lễ hội, có biện pháp
đảm bảo an ninh trật tự, quản lý tốt các dịch vụ và cảnh quan môi trường, không gian tổ
chức lễ hội, tuyệt đối không để xảy ra các hoạt động mê tín dị đoan, chặt chém khách
tham quan.
Quy trình thực hành lễ hội và các nghi thức liên quan trong lễ hội được cộng đồng tổ
chức và thực hiện gần nhất với nghi lễ truyền thống do các thế hệ trước truyền lại.
Không gian tổ chức lễ hội là di tích quốc gia đặc biệt nên đã được trùng tu tôn tạo, tái
hiện lại khơng gian hồn chỉnh của lễ hội, góp phần thu hút khách du lịch và bảo tồn lễ
hội một cách bền vững.
Duy trì và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội chùa Keo, tuyên truyền,
giới thiệu về lễ hội bằng nhiều hình thức khác nhau. Quảng bá về giá trị văn hóa của lễ
hội bằng các sản phẩm lưu niệm đặc thù chỉ có ở chùa Keo.
Bên cạnh các biện pháp trên tỉnh Thái Bình nên thực hiện nhiều biện pháp như:
Thực hiện các biện pháp phòng chống cháy nổ mạnh mẽ
Biên soạn các ấn phẩm , các tài liệu nghiên cứu chun sâu về di tích thờ thiền sư
Khơng Lộ ở Thái Bình, từ lịch sử hình thành đến đặc điểm giá trị nghệ thuật giá trị
tâm linh… để giới thiệu và quảng bá hơn với du khách trong nước và quốc tế
Bên cạnh đó, cần phát triển thương hiệu thông qua các hãng lữ hành . Các hoạt
động truyền thông này tập trung vào kênh trung gian như công ty du lịch, đại lý lữ
hành để thông tin kích thích, hấp dẫn thuyết phục khách du lịch
Khơng những thế, chúng ta tổ chức các cuộc thi online , làm bài nghiên cứu trong
trường học về văn hoá lễ hội, tổ chức tham quan tìm hiểu trực tiếp
Cần đánh giá, rà soát và từng bước nâng cao chất lượng tổ chức lễ hội chùa Keo
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội mới; khắc phục những hủ tục
thường diễn ra tại lễ hội (mê tín dị đoan, thương mại hóa..).
Cần phát huy vai trị của các cơ quan văn hóa, thể thao và du lịch; cơ quan quản lý
nhà nước về tôn giáo; phát huy vai trị của hệ thống chính trị và các đoàn thể trong
việc nâng cao chất lượng của lễ hội đảm bảo các mục tiêu nâng cao đời sống tinh
thần, tâm linh song lành mạnh, có giá trị văn hóa đậm đà bản sắc của người Việt
và vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Chú trọng đúng mức và từng bước nâng cao hiệu quả quản lý lễ hội chùa Keo theo
quy định của Pháp luật.
Việc tổ chức lễ hội là một vấn đề phức tạp ở những quy mô khác nhau và thường
đan xen với các hủ tục mới phát sinh, đôi khi làm hạn chế các giá trị của lễ hội
21
trong đời sống tâm linh của cộng đồng, địa phương. Do vậy cần có nhận thức đúng
và giải pháp phù hợp trong việc nâng cao chất lượng quản lý lễ hội nói chung và
các vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng nói riêng.
Đẩy mạnh cơng tác quản lý nhà nước trong hoạt động lễ hội, phát huy những tính
chất, những hoạt động văn hoá, những chuẩn mực chân thiện mỹ của lễ hội; ngăn
ngừa và loại trừ những hoạt động lệch chuẩn trong hoạt động lễ hội chùa Keo
thông qua những phương thức đổi mới quan điểm về quản lý lễ hội, chính sách,
thể chế cán bộ và cách thức thực hành lễ hội... là một nhu cầu cấp bách về mặt lý
luận và thực tiễn của đời sống xã hội cũng như của hoạt động văn hoá, hoạt động
lễ hội hôm nay.
Các nhà khoa học xã hội, khoa học văn hoá cần nghiên cứu chuyên sâu, phân định
rạch rịi các khái niệm: tơn giáo, tín ngưỡng, mê tín dị đoan... để tuyên truyền cho
người dân hiểu được quan niệm chính thống mang tính nhà nước giúp họ có thể
phân định được các hành vi thuộc dạng nào trong thực hành lễ hội. Đồng thời,
chúng ta tìm cách để người dân hiểu và nhận thức được ranh giới giữa sinh hoạt
tín ngưỡng với các hoạt động mê tín dị đoan.
Đồng thời cũng quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn, phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hố, tơn
giáo để đáp ứng u cầu tun truyền, tổ chức và quản lý lễ hội ở địa phương,…
Đó khơng chỉ là nhiệm vụ riêng của tỉnh Thái Bình mà cịn nhiệm vụ chung của cả
nước để bảo tồn phát huy hết tiềm năng hiệu quả giá trị của các lễ hội đóng góp trung vào
sự nghiệp cơng nghiệp hố tồn cầu hố của đất nước.
KẾT LUẬN
Có thể nói, lễ hội chùa Keo ở Thái Bình mang những đặc trưng rất riêng và thu hút rất
nhiều du khách du lịch trong và ngồi nước. Lễ hội ấy cịn là sợi dây tinh thần gắn kết
mọi người với nhau thông qua rất nhiều hoạt động mang đậm phong tục, tập quán đặc
trưng vùng Bắc Bộ. Hơn thế, không chỉ là chiếc gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc,
lễ hội còn là nơi bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa mảnh đất nơi đây. Sở dĩ lễ hội
dễ dàng thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo quần chúng, bởi nó khơng những bộc
lộ được vẻ ngồi đa sắc thái trong diễn trình từ lễ đến hội mà còn hướng tâm hồn con
người đến với bản tính thật thà, chứa đựng những giá trị nhân văn cao cả.
Bài thảo luận trên đây là thành quả sau q trình tìm tịi, nghiên cứu cũng như tiếp thu
những kiến thức giảng dạy của giảng viên bộ môn về đặc trưng của các vùng văn hóa.
Thơng qua bài thảo luận này, chúng em mong muốn hơn cả là đưa những giá trị của vùng
văn hóa Bắc Bộ đến với người đọc nói riêng và khắp bạn bè quốc tế nói chung để có thể
tự hào mà nói rằng “Việt Nam chúng ta không chỉ đẹp trong tâm hồn những người con
22
đất Việt mà còn khiến mỗi du khách gần xa ấn tượng về những nét văn hóa mỗi vùng
miền”, cụ thể ở đây đó chính là lễ hội chùa Keo ở Thái Bình. Bài luận có thể cịn nhiều
thiếu sót bởi kinh nghiệm của một sinh viên năm nhất như chúng em nhưng mong thầy cơ
có thể bỏ qua được phần nào. Hơn hết, chúng em mong muốn có thể truyền tải được niềm
tự hào, sự trân trọng qua từng câu chữ về những giá trị văn hóa đặc trưng thông qua lễ hội
chùa Keo. Để ngày càng cải thiện hơn nữa, nhóm 9 chúng em rất mong có thể được thầy
cơ giáo và các bạn đóng góp ý kiến!
Chúng em xin trân thành cảm ơn!
23