Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng đó và xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.63 KB, 13 trang )

ĐỀ TÀI
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận
dụng tư tưởng đó và xây dựng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay.
Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích và chứng minh luận điểm «Cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc » là một sáng tạo lớn của Hồ
Chí Minh

HỒ CHÍ MINH
(1890-1969)

“…Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”
Trích “Tun ngơ độ lập”- Hồ Chính Minh,1945


I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách

mạng.
1.1. Quan điểm của HCM về vai trò của đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng là một trong những bộ phận quí giá nhất của di sản Hồ Chí
Minh, nó tạo nên vẻ đẹp rực rỡ, độc đáo của phong cách Hồ Chí Minh, một phong
cách có sức cuốn hút kỳ diệu, không chỉ đối với những người cộng sản mà đối với các
tầng lớp xã hội, không chỉ là một tấm gương sáng đối với dân tộc Việt Nam, mà còn
thu hút được sư cảm phục của các dân tộc trên thê giới; không chỉ tranh thủ tranh thủ
được trái tim của những người lao động bình thường, mà cịn có sức thuyết phục to
lớn đối với trí tuệ của nhiều chính khách và của nhà lãnh đạo các quốc gia; một phong
cách mà ngay cả kẻ thù cũng phải cảm phục.
Nguyên tắc này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn ngày càng to lớn. Ngày nay, khi những
chủ trương, chính sách đổi mới về kinh tế và xã hội đã đươc thực tiễn xác nhận, thì


nhiệm vụ nâng cao đạo đức cách mạng, làm trong sạch đội ngũ của Đảng là nhiệm vụ
hàng đầu để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới
tới được thắng lợi lớn hơn nữa.
Với ý nghĩa to lớn của tư tưởng đạo đức tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, có thể và cần
phải đưa những tư tưởng này vào cương lĩnh và điều lệ mới của đảng. Nói cách khác
phải thể chế hóa tư tưởng đạo đức củaHồ Chí Minh thành những nguyên tắc của tổ
chức Đảng. Phải trở lại với quan điểm của Bác, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, xứng đáng với niềm tin của bác: “đảng ta là
đạo đức,văn minh”.
1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
1.2.1 Trung với nước, hiếu với dân
Đạo nho phải dạy người quân tử phải trung quân ái quốc - trung với vua là yêu
nước. Còn chữ Hiếu nghĩa là hết lịng thờ kính cha mẹ, ơng bà người trên của mình.
Từ "trung hiếu" trong đạo nho đã được Bác tiếp thu, kế thừa và phát triển lên thành
phạm trù mới của đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm cũ một nội
dung mới mang tính cách mạng đó là "trung với nước hiếu với dân". Đây là chuẩn
mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Từ chỗ trung với với vua, hiếu với cha
mẹ đến trung với nước hiếu với dân và một cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Theo người trung với nước là:
+ Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải đặt lợi ích của Đảng
của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
+ Quyết tâm phấn đấu mục tiêu cách mạng.
+ Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước.
Theo người, hiếu với dân là:
+ Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
+ Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận
động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
Nước.
+ Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trung với nước - Hiếu vời dân là phẩm chất hàng đầu của người cách mạng.



Song, ở mỗi con người, trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, ở mỗi vị trí khác nhau phải
hiểu thấu đáo phạm trù đạo đức này.
Trong chiến tranh vệ quốc, khi kẻ thù thực hiện âm mưu và hành động cướp
nước, giày xéo quê hương, thì mỗi người thực hiện Trung với nước - Hiếu với dân là
sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc, vì nhân
dân.
Trong xây dựng đất nước hiện nay, cũng rất cần thiết có sự hi sinh vì sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc và sự bình yên của nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN mà
nhân dân ta xây dựng , đồng thời vô cùng cần thiết là sự cống hiến trong sự nghiệp
xây dựng đất nước. Trung với nước hiếu với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện trong mọi cơng việc cách mạng của đảng, trong từng việc làm từng suy nghĩ của
mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Vì vậy trong suốt quá trình xây dựng Đảng
lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao tinh thần trung
hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ đảng viên nói riêng, và
đòi hỏi họ ghi sâu trong lòng chữ "trung với nước, hiếu với dân".
Tấm gương trong sáng hết lịng vì Tổ quốc vì nhân dân của Bác kính u cũng
bắt đầu, cũng từ sự biểu hiện của những điều bình dị nhất, gần gũi nhất, cụ thể nhất
nhưng thật là vĩ đại soi cho chúng ta noi theo.
1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính là đạo đức lớn mà Bác Hồ đã dạy chúng ta từ cách đây
gần 60 năm và còn nhắc lại trong Di chúc của Người năm 1969: "Đảng ta là một đảng
cầm quyền, Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự "cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư". Cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1949, để cổ
vũ phong trào Thi đua ái quốc và xây dựng đời sống mới, Bác viết bài "Cần, Kiệm,
Liêm, Chính", chỉ rõ rằng: "...Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới,
nền tảng của Thi đua ái quốc”
Cần, kiệm,liêm, chính là những điều người xưa từng nói, sách xưa từng viết.
Nhưng Bác Hồ đã làm cho tất cả đó đều chứa đựng một nội hàm mới, vừa có kế thừa,

vừa có phát triển, có bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với việc xây dựng con người
mới trong thời đại mới.
Cần là siêng năng, chăm chỉ. Cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm
được. Chữ cần chẳng những có nghĩa “tay siêng làm thì hàm siêng nhai”. Mà cịn
nghĩa là mọi người đểu phải Cần, cả nước đều phải Cần. Muốn cho chữ Cần có nhiều
kết quả hơn thì phải có kế hoạch cho mọi cơng việc. Cần và chun phải đi đôi với
nhau.
Kiệm tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi. Cần và Kiệm,
phải đi đơi với nhau. Cần mà khơng Kiệm thì "làm chừng nào, xào từng ấy". Kiệm mà
khơng Cần thì khơng phát triển được. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về
thời giờ. "Thời giờ là tiền bạc".
Liêm là trong sạch, không tham lam. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ
gây được tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một
dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng đứng
đắn, thẳng thắn, tức là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Một người phải Cần,


Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Một người cần phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng cịn
phải Chính mời là người hồn tồn.
Về Chí cơng vơ tư, là khơng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc,vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Thực hành chí cơng vơ tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Người còn chỉ ra mối quan hệ: Cần, Kiệm, Liêm
Chính tốt sẽ dẫn tới chí cơng vơ tư, và chí cơng vơ tư, một lịng vì dân, vì nước thì
nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Những lời nói của Bác về cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư cho đến này vẫn
còn nguyên giá trị. Đặc biệt là tấm gương của Bác về thực hành cần kiệm liêm chính
vẫn mãi mãi để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta noi theo.
1.2.3 Thương yêu con người

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy rõ sự thể hiện nhất quán giữ
tư tưởng chung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, Đó là cốt lõi trong tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đó là u người lao động, cần lao, cùng khổ, người bị
bóc lột, những người bị đàn áp. Tình u thương con người cịn thể hiện đối với
những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố
gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với kẻ thù bị
thương, bị bắt và quy hàng. Bác Hồ kết luận : "chỉ có một mối tình hữu ái thật mà
thơi, đó là tình hữu ái vơ sản". Hồ Chí Minh thương yêu con người với một với một
tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận
con người.
Song trên tất cả, điều làm ta phải suy nghĩ và xúc động là trước khi ra đi, Bác
còn dặn dò cả việc đối với những nạn nhân của xã hội cũ như trộm cắp, gái điếm, cờ
bạc, bn lậu... thì Nhà Nước ta vừa phải giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo
họ, giúp họ trở nên người lương thiện. Có thể nói trong mn vàn tình thương u của
Người, Bác Hồ khơng để sót một ai, khơng qn một ai, có quên chăng chỉ là quên
mình!

1.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Tu tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi tồn nhân loại, vì Người là
"người Việt Nam nhất" đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải
phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đồn kết quốc tế trong sáng của HCM thể hiện trong các
điểm sau:
+ Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng
con người khỏi ách áp bức bóc lột. Quá trình tìm đường cứu nước HCM giúp người
đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình dù các nước
thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nhĩa thực dân tàn
ác. Người đi tới kết luận: Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống



người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật: tình
hữu ái vơ sản.
+ Đồn kết quốc tế giữa những người vơ sản tồn thế giới vì một mục tiêu chung,
"bốn phương vơ sản đều là anh em". Hành trình qua các nước vào những năm đầu của
thế kỉ XX giúp HCM nhận thấy rằng phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách
mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa. Người đã chứng minh được bọn đế quốc
không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa mà còn thống trị nhân dân lao
động và giai cấp vơ sản chính quốc.
+ Đồn kết với nhân loại tiến bộ vì hịa bình, cơng lí và tiến bộ xã hội. Theo HCM
chủ nghĩa đế quốc vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Trong bài " tinh thần yêu
nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã nhấn mạnh: "tinh thần yêu nước và tinh
thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham
gia phong trào ủng hộ hịa bình thế giới". Nếu tinh thần u nước khơng chân chính và
tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi hoặc
chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kì thị chủng tộc... Những khuynh hướng sai lệch ấy
có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân
tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến
tình trạng đối đầu đối địch. Đây là một thực tế đã diễn ra ở châu Âu và nhiều khu vực
trên thế giới hiện nay.
1.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng vấn
đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách
mạng. Người nhấn mạnh: cũng như sơng phải có nguồn, cây phải có gốc.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
khơng lãnh đạo được nhân dân. Hiện nay yêu cầu của thực tiễn là phải xây dựng một
nền đạo đức mới ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Vì vậy học
tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Song bài này chỉ đề
cập tới những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
1.3.1 Nói phải đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,Hồ Chí Minh ln ln nêu gương
sáng về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà
khơng nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất
sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là
tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm
gương của các vị anh hùng, chiến sỹ thi đua nhứng tấm gương của những người tiêu
biểu cho từng ngành, từng cấp, những tấm gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi
trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề
này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào,
giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có" (2).


1.3.2 Xây đi đơi với chống
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo
đức ln ln đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa
phải chống cái phi đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây.
Cũng vì vậy Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quýet sạch chủ
nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đồn kết, tính tổ chức và kỷ luật"(3). Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là
phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự giác nhận thức
được trách nhiệm đạo đức của mình. Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới
phải gắn liền chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá
nhân. Trong tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân
được công bố vào ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam đã mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức cách
mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
1.3.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên chăm lo tu
dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công việc phải kiên trì bền bỉ

suốt đời, khơng người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người: "Đạo đức cách mạng
không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" (4).
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề là
khơng tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy,
thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện
trong hoạt động thực tiễn. Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tại hội nghị
TW 6(lần 2) khoá VIII (tháng 2/1999) của Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cuộc vận
động và xây dựng chỉnh đốn Đảng. Trong đó Đảng đặc biệt chú trọng các nguyên tắc
về xây dựng đạo đức mới mà Hồ Chí Minh đã đưa ra. Để làm tốt cuộc vận động các tổ
chức Đảng cần tăng cường công tác giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, đường lối chính sách của Đảng, nhiệm vụ đạo đức của người đảng viên.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những
biểu hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác
ngộ trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện
những nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu
biểu để nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo
đạo đức Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.

II. Vận dụng những chuẩn mực đạo đức cách mạng vào việc xây
dựng đạo đức, lối sống của sv hiện nay
2.1. Một số nét khái quát về đạo đức, lối sống của SV hiện nay
- Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên mấy năm gần đây
đã trở thành điểm nóng khơng chỉ của ngành giáo dục mà cịn của tồn xã hội. Các


hành vi lệch chuẩn về đạo đức trong học sinh, sinh viên ngày càng gia tăng. Ở đâu
một hình mẫu lý tưởng cho tuổi học trò? Và làm thế nào để các em học sinh, sinh viên
định hình cho mình một phong cách sống phù hợp với chuẩn mực đạo đức đúng lứa

tuổi?
Giới trẻ, trong đó có sinh viên – đối tượng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi
mới với những biến đổi vơ cùng nhanh chóng, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần xã hội, đang là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển của kinh
tế - xã hội. Sự thay đổi của đời sống vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu
cực đến đạo đức sinh viên hiện nay.
Sinh viên là những trí thức trẻ tương lai, khơng ai hết mà chính họ sẽ là những
người đóng vai trị chủ chốt trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa học kỹ thuật, nên rất
cần có những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo cao, có khả năng
tiếp nhận cái mới rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay
đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.
Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người. Nhưng
bên cạnh đó, họ cịn mang những đặc điểm riêng: trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới,
nhạy cảm với các vấn đề chính trị - xã hội,… Đặc điểm rất đáng chú ý đang hình
thành trong những người trẻ hôm nay, liên quan đến sự phát triển của công nghệ thông
tin với tư cách là một cuộc cách mạng. Hình thành một phương thức tư duy của thời
đại cơng nghệ thơng tin: ngơn ngữ ngắn gọn, có tính logic, chính xác, hệ thống, hạn
chế sự bay bổng về mặt hình tượng trực quan.
Sinh viên hiện nay, nổi bật lên khả năng tự ý thức cá nhân và ít chịu ảnh hưởng
bởi dư luận như trước, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo cá nhân, chủ động và
nhanh chóng tiếp cận với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ, chịu
khó học hỏi kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và công việc. Làm được điều đó một
cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, khơng ai khác ngồi sinh viên – đối tượng trẻ có tri
thức, lớn lên trong môi trường mới, đi đầu tiếp thu cái mới, chấp nhận những giá trị
mới trong một môi trường năng động và thay đổi liên tục.
Bên cạnh đặc điểm cơ bản là dễ dàng tiếp thu cái mới, sinh viên hơm nay cịn
được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại
và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế,… điều này mở ra được một
dịng chảy mới trong q trình hội nhập, là thước đo của tính đúng đắn và bền vững.

Các quan niệm đạo đức của mỗi cộng đồng, bên cạnh cái riêng của mình, đang xuất
hiện những cái chung hịa nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội giao lưu, học hỏi.
Có thể dự đốn về xu hướng đạo đức được quốc tế hóa, vừa trên cơ sở thống nhất
những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Những quan niệm về tốt, xấu, cơng bằng, bình đẳng,… cũng đang có sự dịch
chuyển nhất định. Những dịch chuyển này tạo ra một sự giải phóng về mặt tư tưởng
quan niệm, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho những hành động có tính hiệu quả
sau này. Những quy tắc ứng xử vì thế cũng biến đổi, sự điều chỉnh hành động tuân
theo nguyên tắc thiết thực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại công


nghiệp. Những rào cản đạo đức nào không phù hợp trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị
vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên.
Điều đáng chú ý là vẫn với những yếu tố tác động có tính tích cực trên, ở một
số bộ phận SV đã xuất hiện việc lệch chuẩn, nghiêng sang khía cạnh tiêu cực.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm
đạo đức và hành vi ứng xử trong một bộ phận không nhỏ sinh viên hơm nay. Trào lưu
dân chủ hố, làn sóng cơng nghệ thơng tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá
nhân ngày càng rõ, đặc biệt là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn
thể hiện vai trò cá nhân. Cái cá nhân nhiều khi đã lấn át cái cộng đồng, lợi ích cá nhân
quan trọng hơn tất cả. Dần dần, nó hình thành một thái độ bàng quan đối với những
người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được phát động khá
rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng. Sự hy
sinh và quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì thường được đánh giá dưới góc
độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ.
Tác động tiêu cực tiếp theo là cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm công
nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm không ít sinh viên xa rời các giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn luôn phù hợp với thời kỳ hiện đại. Hình thành
tư tưởng hưởng thụ ăn chơi đua đòi, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối

sống trong bối cảnh một nền kinh tế - xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo đức trong
một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt là ở quan niệm cho rằng đạo đức
và lợi ích cá nhân là hồn tồn đồng nhất mọi lúc mọi nơi.
Sự dối lừa được coi là một chuyện bình thường. Khi quan sát, có thể thấy một
biểu hiện đáng buồn là nhiều sinh viên không cho rằng việc sao chép tài liệu, ăn cắp ý
tưởng trong quá trình làm bài thi, viết tiểu luận và khoá luận là một hành vi phi đạo
đức. Hiện tượng mua bằng, bán điểm khơng cịn là chuyện hiếm thấy. Điều đáng lo
ngại là nhiều sinh viên bộc lộ thái độ cho rằng đó là chuyện bình thường, khơng liên
quan đến đạo đức. Trong khi đó, ở các nước phát triển, lừa dối là hành vi bị lên án rất
mạnh trong môi trường học đường.
Cũng vậy, với sự phát triển của thông tin, được sự hỗ trợ của công nghệ cao đã
làm Internet trở nên phổ biến, nhiều bạn trẻ đã lên mạng sử dụng tiện ích chat như một
thú tiêu khiển hơn là phương tiện liên lạc. Sự dối lừa trên mạng được coi là một trị
chơi. Nếu như nó chỉ dừng lại ở đó thì khơng có gì nghiêm trọng, nhưng đáng lưu tâm
ở chỗ là từ trò chơi - một lĩnh vực cụ thể, nó dần dần sẽ ảnh hưởng sang quan niệm về
đạo đức nói chung, ở cả các lĩnh vực khác.
Nguyên nhân là do đâu??
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có được những bước phát triển
đáng kể, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Nhưng cùng với đó thì
những mặt trái xã hội cũng ngày càng nhiều và nó đang ảnh hưởng không nhỏ tới các
em học sinh. Mặt trái Internet là một ví dụ. Bên cạnh những tiện ích như cung cấp
thơng tin nhanh chóng, kịp thời, rút ngắn khoảng cách giữa mọi người thì Internet
cũng đang là một nguyên nhân dẫn tới sự suy giảm đạo đức ở học sinh.
Những trang web cấm và nhất là game online đang kéo nhiều học sinh rời xa
trường học. Tình trạng học sinh trốn học chơi game ngày càng nhiều. Những trò chơi


bạo lực và cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống bằng đao, kiếm đã dần ngấm
vào các em từ thế giới ảo đã trở thành thế giới thực.
Nhưng đó chưa phải là ngun nhân chính dẫn tới tình trạng suy giảm đạo đức

học sinh như hiện nay. Vậy nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ đâu?
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và cơ chế mở cửa và do nhiều nguyên
nhân khác, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên có xu hướng ngày càng tăng.
Những phẩm chất xấu ấy là kết quả sự giáo dục khơng đồng bộ giữa gia đình, nhà
trường và xã hội. Việc giáo dục đạo đức trong nhà trường thường chú trọng tới nề nếp
kỷ cương với nội quy, những bài học giáo huấn, không chú ý đến hành vi ứng xử thực
tế.
Trong những năm vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đẩy mạnh chương
trình “giáo dục tồn diện”. “Giáo dục tồn diện” khơng chỉ đơn thuần là cung cấp cho
học sinh một cách đầy đủ tri thức mọi mặt trong cuộc sống mà quan trọng hơn là phải
giáo dục nhân cách cho các em. Có lẽ trong những năm vừa qua chúng ta chỉ chú
trọng vào giáo dục kiến thức cho các em mà coi nhẹ giáo dục đạo đức.
2.2. Vận dụng tư tưởng HCM vào xây dựng đạo đức, lối sống của SV
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, trước những ảnh hưởng ngày càng to lớn
của nền kinh tế thị trường và xu hướng khu vực hố, quốc tế hố, bên cạnh những tác
động tích cực thì cũng có khơng ít những tác động tiêu cực đến một bộ phận không
nhỏ thanh niên như đã nêu ở trên. Vì vậy, hiện nay những tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ngày càng trở
nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết
Từ lý luận và thực tiễn cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
chúng ta thấy rằng khơng ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như
trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái,
của anh chị đối với những người em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thấy cơ
đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những
người phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm
gương của người này đối với người khác, những gương “người tốt việc tốt” mà Hồ
Chí Minh đã phát hiện để mọi người học tập noi theo. Một trăm bài diễn văn hay
không bằng tấm gương sống - điều mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc
xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó
cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt

vời của một cuộc đời trọn vẹn.
Hiện nay, công tác phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong việc ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên đã đạt được những kết quả nhất
định, phát huy được sức mạnh tổng hợp và huy động được các nguồn lực trong xã hội
tham gia ngày càng tích cực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác phối hợp còn nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng kịp với nhu cầu về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng một số trẻ em chưa được hưởng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt


nhất; vẫn tồn tại một bộ phận học sinh, sinh viên có biểu hiện vi phạm về đạo đức, có
lối sống hưởng thụ, vướng vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật

Phân tích việc xây dựng đạo đức ở trong gia đình mỗi sinh viên
Gia đình là nơi con người sinh ra và lớn lên, là tế bào của xã hội. Trước đây,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là
gia đình” Gia đình khơng những là mơi trường đầu tiên mà cịn là mơi trường quan
trọng trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho mỗi con người. Nói
cách khác, gia đình là môi trường không thể thiếu và cũng không thể thay thế được
đối với sự phát triển của mỗi con người. Bởi, “gia đình là trường học đầu tiên” trước
khi con người đến với trường đời.
Ai cũng biết, ngay từ đầu, sự phát triển của mỗi chúng ta đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc của giáo dục đạo đức gia đình, của “nếp nhà”, của “gia phong”. Cho nên, gia
đình là mơi trường quan trọng bậc nhất trong giáo dục đạo đức. Bởi giáo dục gia đình
là nền tảng có tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển của cá nhân và cả cộng đồng.
Điều đó đã lý giải vì sao Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc xây dựng gia đình văn
hóa mới là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển đất nước,
phát triển con người. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định:

“Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự
là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế thị trường cùng với quá trình tồn cầu
hóa đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định và bền vững của gia đình. Để tồn tại và
phát triển, địi hỏi mỗi gia đình phải tìm cách thích ứng, điều chỉnh các quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình và ngồi xã hội. Trên thực tế, nhiều gia đình khơng
những vẫn giữ gìn được nền nếp gia phong, làm tốt chức năng giáo dục con cái mà
cịn biết phát huy tính chủ động của các thành viên trong việc phát triển kinh tế, góp
phần vào sự phồn vinh của xã hội. Những gia đình như vậy thực sự là những tổ ấm
mang lại giá trị hạnh phúc cho con người.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đang có những biểu hiện của sự sút kém, đặc biệt là
“sự sút kém vai trò và hiệu quả của giáo dục gia đình, là một trong những lý do chủ
yếu dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội mà gia đình khơng ngăn chặn được
ngay từ đầu”. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng gia đình văn hóa ln
gắn liền với tăng cường trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức theo
những chuẩn mực tốt đẹp của dân tộc, để mỗi con người được lớn lên trong tình cảm,
trong sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Làm được như vậy, gia đình trở thành nơi có
đủ sức mạnh đề kháng, chống lại mọi sự ơ nhiễm từ bên ngồi, ngăn chặn mọi tiêu
cực từ phía xã hội, giúp con người có khả năng phát triển tốt hơn. Đây không chỉ là
biện pháp quan trọng để củng cố và phát triển gia đình, để gia đình thực sự trở thành
“hạt nhân của xã hội” mà đây còn là yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước.


Phân tích việc xây dựng đạo đức ở trong trường học ( có thể xuyên suốt từ
gốc rễ cơ bản – mẫu giáo, cấp 1 – nơi hình thành nên tư tưởng, đạo đức đầu đời
cho mỗi con người ) đến cấp bậc đại học
Bên cạnh xây dựng đạo đức trong gia đình, giáo dục đạo đức trong nhà
trường khơng chỉ là sự tiếp tục của giáo dục gia đình mà cịn là mơi trường đào tạo
cho con người có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị vững

vàng, nhằm phát triển tồn diện con người. Giáo dục đạo đức trong nhà trường nhà
trường là giáo dục có bài bản, có hệ thống và kết hợp với nhiều loại hình giáo dục
khác. Cho nên, xây dựng đạo đức trong nhà trường có một ý nghĩa quan trọng trong
việc hình thành ý thức và nhân cách đạo đức.
Để đảm bảo hiệu quả cho công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường, đòi hỏi
cần phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống, những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, nâng cao ý thức trách nhiệm của học sinh, sinh viên với bản thân, gia đình, trách
nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước. Phải coi đạo đức học là một ngành
khoa học thực sự và khơng thể thiếu trong chương trình giáo dục và đào tạo. Trước
đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng mong muốn: “Đạo đức học cần phải
trở nên một ngành khoa học xã hội mà những người có trách nhiệm phải đi sâu nghiên
cứu chuyên cần hơn nữa. Nó cũng phải trở thành một mơn khoa học không thể thiếu
được trong các trường đại học và giáo dục phổ thông”
Cuộc vận động học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang diễn ra trong các
trường học là một bộ phận của phong trào thi đua Hai Tốt nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện. Cuộc vận động này đã lấy những điều đạo đức mà Hồ Chủ tịch đã
căn dặn làm nội dung, đồng thời cũng lấy những lời dạy của Người về công tác giáo
dục đạo đức làm phương châm. Tinh thần của phương châm giáo dục đạo đức là: tôn
trọng nhân cách học sinh thông qua thuyết phục và hoạt động, thống nhất các tác động
giáo dục nhằm tạo ra mội trường thuận lợi cho sự phát triển đạo đức mới. Đó cũng là
những điểm mà chúng ta thấy rất rõ qua những lời khuyên của Hồ Chủ tịch về việc
dạy dỗ con em. Hơn nữa, Người còn quan tâm đến các hình thức hoạt động thích hợp
với lứa tuổi. Đối với việc giáo dục thiếu niên nhi đồng, Người căn dặn chúng ta phải
giữ tồn vẹn tính vui tươi, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng. Đối với
thanh niên cũng vậy, Người dạy: Thanh niên phải chuyên tâm đi học và cơng tác,
nhưng cũng cần có vui chơi; Cần đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các tầng lớp
thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết các vấn đề một cách thiết thực.
Trong những lực lượng xã hội có trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ, Hồ Chủ tịch
nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo viên và của cán bộ phụ trách Đoàn Đội. Gương
mẫu của họ về đạo đức có ảnh hưởng quyết định đối với đạo đức thanh thiếu niên.

Người nói: Trẻ em hay bắt chước cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách phải gương mẫu
từ lời nói đến việc làm. Quan hệ thầy trò là một bộ phận trong quan hệ giữa người với
người ở chế độ mới, nó phải biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của đạo đức
mới. Trong bức thư cuối cùng gửi ngành giáo dục, Hồ Chủ tịch đã căn dặn: 'Cần phải
phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật
chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với Nhau'. Hiện nay, khơng ít
trường học chưa có mối quan hệ đẹp đẽ và trong sáng như vậy; chính đó là một trong


những nguyên nhân gây nên sự rạn nứt trong mối quan hệ thầy trò, làm cho trò phủ
nhận sự giáo dục của thầy, thậm chí mất lịng tin vào nhà trường.
Trong trường học, vấn đề tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng giáo dục
đang là vấn đề cấp bách. Giáo dục phổ thông phải tạo đều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ
hình thành phương pháp, phong cách tự giáo dục, tự rèn luyện suốt đời trở thành con
người chân chính trong thời đại phát triển khoa học công nghệ như hiện nay. Chưa lúc
nào như lúc này, việc học tập và vận dụng những lời dạy của Hồ Chủ Tịch về cơng tác
giáo dục nói chung và việc giáo dục đạo đức nói riêng lại có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng như bây giờ.
Phân tích việc xây dựng đạo đức ở mơi trường xã hội
Cùng với giáo dục đạo đức trong gia đình và nhà trường, xây dựng đạo đức ở
môi trường xã hội là sự tiếp tục quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện ý thức
đạo đức và năng lực thực hiện hành vi đạo đức cho con người. Giáo dục đạo đức xã
hội là mơi trường góp phần làm phong phú thêm cho những điều con người học được
trong gia đình và trong nhà trường. Có thể nói rằng, cả ba môi trường này là sự kết
hợp liên tục, kế tiếp nhau của quá trình giáo dục đạo đức. Bởi vì, “khơng phải chỉ ở tại
nhà trường, có lên lớp, mới học tập tu dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo được. Trong mọi
hoạt động cách mạng, chúng ta đều có thể và đều phải học tập”. Mơi trường xã hội
còn là nơi diễn ra mọi hoạt động đa dạng của con người, đồng thời cũng là nơi thử
thách ý chí, bản lĩnh và năng lực thực hành đạo đức của từng cá nhân. Cho nên, trong
sự nghiệp giáo dục đạo đức, nếu lơ là hay buông lỏng một môi trường nào thì chắc

chắn sẽ dẫn đến sự thiếu hụt những giá trị nhân văn, sự trống rỗng, thậm chí xuống
cấp về đời sống đạo đức của xã hội. Vì vậy, “Sự xem nhẹ giáo dục đạo đức và lối
sống, việc xã hội xem nhẹ vấn đề đời sống gia đình, tình trạng suy thối của nền giáo
dục học đường cũng như xu hướng thương mại hóa các hoạt động văn hóa - xã hội
bao gồm cả giáo dục y tế… dẫn tới sự thiếu hụt chất lượng nhân văn… phải được coi
là những dấu hiệu nguy hiểm đe doạ sự phát triển bền vững của xã hội”
Ai cũng biết thế hệ trẻ chuẩn bị hành trang vào đời cần phải tích luỹ các kiến
thức khoa học, cơng nghệ, ngoại ngữ, tin học… nhưng nếu chỉ chừng đó thơi mà
khơng lưu tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, văn
hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì rất dễ dẫn đến sự phát triển lệch
lạc, phiến diện. Đó là con đường dẫn tới sự thiếu hụt những giá trị nhân văn trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của con người. Sự thiếu hụt đó là nguy cơ làm
suy thối, thậm chí biến dạng q trình phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đã đến
lúc chúng ta cần phải ý thức được rằng, giáo dục đạo đức, thực chất là giáo dục nhân
cách, hình thành và phát triển hài hịa, tồn diện nhân cách của con người nhằm đáp
ứng cho yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Giáo dục đạo đức là quá trình hình thành,
phát triển và hoàn thiện ý thức đạo đức cũng như năng lực thực hiện hành vi đạo đức
của mỗi cá nhân. Đây cũng là quá trình giúp cho cá nhân khơng chỉ hình thành mà cịn
góp phần củng cố những nhu cầu đạo đức, đặc biệt là hình thành và ni dưỡng những
tình cảm, niềm tin và lý tưởng đạo đức. Trên cơ sở đó, giúp cho mỗi cá nhân có thể
nhận diện được các mặt tích cực và tiêu cực trong hoạt động của con người và xã hội.
Từ đó con người sẽ có ý thức trách nhiệm hơn, dám vì mình, vì mọi người và vì


những giá trị đạo đức đích thực. Tất cả sẽ tạo thành động lực thúc đẩy cá nhân thực
hiện hành vi đạo đức, đồng thời sáng tạo ra những giá trị đạo đức mới, phù hợp với
giai đoạn lịch sử mới.
DANH MỤC THAM KHẢO
(1)- Hồ Chí Minh tồn tập - tập 5, Tr552 - NXB CTQG - HN- 1995
(2)- Hồ Chí Minh tồn tập - tập 12 Tr549 - NXB CTQG - HN- 1996

(3)- Hồ Chí Minh tồn tập - tập 12 Tr439 - NXB CTQG - HN- 1996
(4)- Hồ Chí Minh tồn tập - tập 9 Tr293 - NXB CTQG - HN- 1996
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành TƯ khố
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 29 - 30.
- Hồng Chí Bảo, Đổi mới ở Việt Nam, một số vấn đề triết học về con người và xã hội,
Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10/ 1998, tr. 29.
- Hồ Chí Minh, Tồn tập, t. 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 523.
- “Tồn cầu hóa với đạo đức sinh viên hiện nay” – Tạp chí thanh niên
- “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên: Không thể coi nhẹ”

( />


×