Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

(TIỂU LUẬN) thảo luận nhóm TMU PHÂN TÍCH cơ sở lý LUẬN HÌNH THÀNH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH CHỈ RA TIỀN đề lý LUẬN GIỮ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TTHCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.26 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TIẾNG ANH
֍֍֍

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 5
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH. CHỈ RA TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN GIỮ VAI TRỊ QUYẾT ĐỊNH
TRONG VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TTHCM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGÔ THỊ MINH NGUYỆT


Danh sách thành viên nhóm 5
STT
37

Mã sinh viên
19D170295

Họ và tên
Nhiệm vụ
Đánh giá
Nguyễn Thị Nhóm trưởng, lên outline,
Huệ

38
39
40
41


phân chia nhiệm vụ, tổng

19D170160

hợp word, phần I và III
Phạm Thanh Giá trị truyền thống tốt

19D170300

đẹp của dân tộc Việt Nam
Hương
Nguyễn Thị Tinh hoa văn hóa phương

19D170087

Đơng
Hường
Đào Thanh Tinh hoa văn hóa phương

19D170226

Huyền
Hồng

Tây
Thị Làm powerpoint

Thanh
42


19D170297

Huyền
Phạm

Thị Thuyết trình

Thương
43
44

19D170091

Huyền
Nguyễn Thị Chủ nghĩa Mác Lê-nin

19D170231

Ngọc Lan
Ngọc
Thị Chỉ ra tiền đề giữ vai trị
Thúy Lân

quyết định trong việc
hình thành, phát triển

45

19D170161


Đinh

TTHCM
Thị Thuyết trình

Lành

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thiện bài thảo luận này, nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến


Ban giám hiệu trường Đại học Thương Mại vì đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ
thông thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm, nghiên
cứu thơng tin
Xin cảm ơn giảng viên bộ môn – Cô Ngô Thị Minh Nguyệt đã giảng dạy tận tình, chi
tiết để chúng em có đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài thảo luận này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng như những hạn chế về kiến thức, trong
bài thảo luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự nhận
xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cơ để bài thảo luận được hồn thiện hơn.
Lời cuối cùng, chúng em ln chúc cô thật nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.

Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2021
Nhóm Trưởng
Huệ
Nguyễn Thị Huệ

MỤC LỤC
I.

MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1


II. NỘI DUNG.........................................................................................................................................1


1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.........................................................................1
1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.......................................................................................................1
1.2. Tinh thần đồn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hịa hiếu với các dân tộc lân
bang........................................................................................................................................................ 3
1.3. Tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan...........................................................................5
1.4. Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngơn ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị tốt
đẹp khác của dân tộc.............................................................................................................................7
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại...............................................................................................................8
2.1. Tinh hoa văn hóa phương Đơng.....................................................................................................8
2.1.1. Nho giáo........................................................................................................................................8
2.1.2. Phật giáo.....................................................................................................................................11
2.1.3. Lão giáo......................................................................................................................................12
2.1.4. Tư tưởng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử; những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận
hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn...13
2.2. Tinh hoa văn hóa phương Tây....................................................................................................14
2.2.1. Q trình ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với Hồ Chí Minh...................................15
2.2.2. Vai trị của tinh hoa văn hóa phương Tây được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh.......17
3. Chủ nghĩa Mác-Lênin......................................................................................................................19
3.1 Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh.....................................................................................................19
3.2 Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ
lớn.........................................................................................................................................................19
3.3. Hồ Chí Minh khơng những vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú
chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới...........................................................................................22
4. Tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành, phát triển TTHCM.....................25
III. KẾT LUẬN........................................................................................................................................27



I. MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, mặc
dù tình hình trong nước và thế giới có những thay đổi nhanh chóng và sâu sắc, nhưng
tính đúng đắn, sức sống, sự sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam và
xu thế thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn cịn ngun giá trị. Để làm rõ vấn đề trên,
nhóm 5 đã chọn đề tài: “Phân tích cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ ra
tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh”.
II. NỘI DUNG
1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
TTHCM có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi tơn
vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức
UNESCO đã ghi nhận: Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của
dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dụng nước và giữ
nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá
trị truyền thống tốt đẹp và cao quý.
1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại, vượt qua mọi
khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Được hình thành trong quá trình
dựng nước, trong đấu tranh và bảo vệ nền độc lập, thốt khỏi sự đơ hộ của ngoại bang,
chủ nghĩa yêu nước sáng ngời với những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa

anh hùng cách mạng: từ Hai Bà Trưng lãnh đạo nhân dân chống hàng vạn quân Nam
Hán, tới bà Triệu khi chống quân Ngô đã tuyên bố “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
1


luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đơng, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi
ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”; Trần Bình Trọng khi bị rơi
vào tay quân Nguyên - Mông đã khảng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ
không thèm làm vương đất Bắc” hay Nguyễn Huệ “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen
răng/Đánh cho nó chích ln bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri
Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”… Có thể thấy, chủ nghĩa u nước, ý chí độc lập và tự
cường dân tộc đã trở thành “dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam”, là nền tảng tinh thần
to lớn, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong thang bậc các giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc Việt Nam, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là
nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù.
Sinh ra trên mảnh đất xứ Nghệ, cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh) đã được ni dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu tranh bất
khuất của gia đình, của q hương sơng Lam núi Hồng “địa linh, nhân kiệt”. Người được
thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh
hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà Hoàng
Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời
sống nhân dân lầm than, cơ cực dưới sự thống trị hà khắc và tàn bạo của thực dân Pháp.
Trong bối cảnh đó, các cuộc đấu tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo liên tiếp
nổ ra: phong trào kháng Pháp của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Tôn Thất Thuyết...
Từ đó, Người đã cảm nhận được độ “nóng” của các phong trào đấu tranh chống Pháp;
Người đã thấu hiểu được thế nào là tình u q hương - nơi chơn nhau cắt rốn. Đó cũng
là những điều kiện rất tốt sớm ni dưỡng, hun đúc tình cảm và tư tưởng u nước,
thương nịi của Người…
Nhìn lại lịch sử và từ những trải nghiêm thực tế, Bác Hồ đã đúc kết lại: “Dân ta có
một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,

mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước, chính sức mạnh truyền thống ấy
là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy người thanh niên Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành
động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đặt cho mình cái tên
Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn yêu nước để luôn nhắc nhở, cỗ vũ bản thân và cỗ vũ quốc dân
2


đồng bào. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng,
bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn
lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Khơng
có gì q hơn độc lập tự do - chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh khẳng định,
đồng thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2. Tinh thần đồn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân
tộc lân bang
Nước ta hình thành sớm trong điều kiện khắc nghiệt: Vừa phải đoàn kết đấu tranh
chống lại các âm mưu thơn tính, xâm lược, đồng hóa của các thế lực xâm lược hùng
mạnh, vừa phải đoàn kết trong sản xuất để khắc phục những thiên tai thường xuyên đe
dọa nền nơng nghiệp lúa nước. Do đó, tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết là một đặc
trưng gốc rễ của làng xã Việt Nam, mỗi khi có khó khăn hoạn nạn nhân dân cả nước ta
cùng tương trợ, đùm bọc giúp đỡ nhau vượt qua, nó được hình thành từ rất sớm qua thực
tế đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm, là nét văn hóa đặc trưng
của người Việt được bảo tồn từ đời này sang đời khác đã được ông cha ta lưu truyền để

dạy bảo con cháu qua ca dao, tục ngữ hay các câu chuyện ngụ ngôn như câu chuyện “Bó
đũa”. Cùng với đó, tư tưởng khoan dung, hịa bình, hòa hiếu là truyền thống nhân văn
được hun đúc từ ngàn năm lịch sử của nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó xuyên suốt
từ truyền thống tới hiện đại, là hịa bình, hịa hiếu và chính nghĩa. Trong Binh thư yếu
lược, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã viết: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị
nước hành binh. Hịa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hịa ở ngồi biên thì khơng sợ
báo động”. Phan Huy Chú đã đúc kết từ trong lịch sử: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với
láng giềng là việc lớn”. Đối với nhân dân: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc.
Đó là thượng sách giữ nước" (Trần Hưng Đạo). Đối với kẻ thù đã quy hàng: "Lấy khoan
hồng để bụng hiếu sinh", (Nguyễn Trãi).
3


Thấm nhuần đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định đối
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Người nhiều lần nhấn mạnh: “Đồn kết là một lực
lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi”, “Đồn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công”. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” - quyển sách
được xem là cẩm nang của người làm cách mạng, từ đầu cho đến cuối tác phẩm, Hồ Chí
Minh ln khẳng định đồn kết là nhân tố quan trọng. Người viết: “Tục ngữ An Nam có
những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó" và "Một cây làm chẳng nên non,
nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao"... Nếu chúng ta đứng riêng ra, thì sức nhỏ, mà làm
khơng nên việc. Thí dụ mỗi người mang một cái cột, một tấm tranh ở riêng mỗi người
một nơi, thì lều chẳng ra lều, nhà chẳng ra nhà. Nhóm những cột ấy, tranh ấy, sức ấy, làm
ra một cái nhà rộng rãi bề thế rồi anh em ở chung với nhau”. Nhận thức sâu sắc vai trị
quan trọng của vấn đề đồn kết trong thực tiễn phong trào yêu nước của nhân dân đầu thế
kỷ 20: “Vì dân đồn kết chưa sâu. Cho nên thất bại trước sau mấy lần” cho nên khi tìm
thấy con đường cách mạng vô sản là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh đã xác định: “trở về nước đi vào dân chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. Người kêu gọi nhân
dân: “Hỡi ai con cháu Rồng Tiên/Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau/…Dân ta xin

nhớ chữ đồng/Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh”. Xác định “Tư cách người
cách mệnh” có 23 tiêu chuẩn, trong đó Hồ Chí Minh đã khẳng định tiêu chuẩn quan trọng
hàng đầu trong mối quan hệ đối với người là: “Với người thì khoan thứ”. Thật sâu sắc,
Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống đạo đức nhân ái, khoan dung của dân tộc Việt Nam
“Đánh kẻ chạy đi, không đánh người trở lại” để xây dựng và mở rộng khối đồn kết.
Tinh thần nhân ái, khoan dung, hịa hiếu với các nước lân bang của Người được thể
hiện trong chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln giáo dục nhân dân ta biết phân biệt
bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân Pháp. Ngay trong hàng ngũ bọn đi xâm lược,
Người cũng có sự phân biệt giữa bọn thực dân phản động Pháp với những người cịn có
lương tri trong hàng ngũ của họ nhằm chĩa mũi nhọn vào bọn đầu sỏ hiếu chiến nhất.
Người đã làm hết sức mình để tránh khơng gây ra mối hận thù đối với dân tộc Pháp, một
dân tộc mà Người luôn ln u mến và kính trọng. Với Hồ Chí Minh, dụng binh là việc
nhân nghĩa, nên Người đã tìm mọi cách để hạn chế đến mức thấp nhất những thương
vong trên chiến trường, cho quân ta và cho cả quân địch. Người nói một cách xúc động:
"Trước lịng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay người Việt
4


đều là người". Để chiến thắng địch, ta phải từng bước tiêu diệt, làm hao mòn sinh lực
địch, nhưng mục tiêu của ta là đánh bại, đánh sập ý chí xâm lược của địch, đánh cho Mỹ
cút, đánh cho nguỵ nhào", chứ khơng coi việc đánh tiêu diệt hồn tồn quân địch trên
chiến trường là biện pháp duy nhất để kết thúc chiến tranh. Ta hiểu vì sao Người khơng
tán thành gọi một trận đánh chết nhiều người là một trận đánh "đẹp". Người từng nói:
“Đánh mà thắng là giỏi, nhưng không đánh mà thắng lại giỏi hơn". Theo tư tưởng binh
pháp của cha ông, Người chủ trương "đánh vào lịng là hơn hết, đánh vào thành trì là thứ
hai". Vì vậy, Người rất coi trọng binh vận và địch vận, "khéo nguỵ vận thì đó cũng là một
cách tiêu diệt sinh lực địch". Đối với những tù binh và thường dân Pháp bị ta bắt trong
chiến tranh, Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ ta phải nêu cao lý tưởng chính nghĩa,
nhân đạo, phải đối xử khoan hồng đối với họ để "cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc
văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước".

Như vậy, trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí
Minh hết sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ, nhân ái,
khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng;
dân là gốc của nước; nước lấy dân làm gốc; gốc có vững cây mới bền; xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến
lược quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1.3. Tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan.
Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được phát triển lên một trình
độ cao và mới. Trong đó, độc lập dân tộc gắn liền với lý tưởng vì dân chủ, tự do, công
bằng, hạnh phúc của nhân dân; gắn liền với tinh thần quốc tế chân chính của giai cấp
cơng nhân. Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chú trọng
khơi dậy và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong
hoạch định đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam. Đó là tinh thần cần cù, sáng
tạo trong lao động, sản xuất và truyền thống dũng cảm, lạc quan trong chiến đấu.
Cần cù là một trong những phẩm chất đáng quý của người Việt Nam, bởi nó chính
là yếu tố quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân.
Đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp, trước đây chủ yếu là nghề nông trồng lúa
5


nước, một cơng việc vất vả và có tính thời vụ cao, vì vậy để có được hạt gạo người Việt
phải cần cù, phải một nắng hai sương, phải “Siêng nhặt chặt bị”. Không những thế, Việt
Nam là quốc gia có khí hậu khá khắc nghiệt, khơng chỉ nắng lắm mưa nhiều mà còn phải
hứng chịu rất nhiều thiên tai như hạn hán, bão lụt, vì vậy để chống chọi với thiên nhiên,
để duy trì và ổn định cuộc sống chúng ta phải cần cù. Thêm vào đó, trong lịch sử dân tộc
Việt Nam chúng ta đã dành tới hơn nửa thời gian để tiến hành chiến tranh vệ quốc, mặc
dù kết quả cuối cùng chúng ta giành thắng lợi nhưng hậu quả sau mỗi cuộc chiến là sự
hoang tàn đổ nát vì vậy để khắc phục hậu quả, ổn định đời sống con người Việt Nam đã

rèn cho mình đức tính cần cù. Bác Hồ - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã kế thừa
những đức tính này của con người Việt Nam, được thể hiện cụ thể qua cả học tập, lao
động. Trong học tập, Người ln cố gắng tự học, tự tìm hiểu để làm phong phú vốn kiến
thức và trí tuệ của mình. Trong lao động, Người luôn chăm chỉ và cần mẫn để có tiền
sống, tiền học tập và tham gia hoạt động cách mạng khi cịn hoạt động ở nước ngồi; khi
về nước dù ở đâu Bác cũng luôn cùng bộ đội, chiến sĩ tham gia sản xuất để cải thiện đời
sống. Với tinh thần ham học hỏi, với tư duy thơng minh, độc lập, sáng tạo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm tìm con đường đi cho cho
riêng mình. Người rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của những
chí sĩ u nước trước đó, nhưng Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội
Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực
hiện các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Người không
theo con đường của các bậc tiền bối đã đi, mà có suy nghĩ khác, cách thức khác. Trả lời
một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ơng cụ thân sinh ra tơi, lúc
này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người
này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau
khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tơi”. Như vậy là, chí hướng tìm
đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh hồn tồn khác với các bậc tiền bối. Rõ ràng,
Người đã sớm nhận thức được “cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của
cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách
mạng và phương pháp cách mạng.
Tinh thần dũng cảm, lạc quan, dù khó khăn, gian khổ, dù phải hy sinh nhưng vẫn
quyết giữ vững lòng trung thành với Tổ quốc, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, đã tạo
nên sức mạnh to lớn giúp nhân dân Việt Nam chiến thắng kẻ thù. Trong muôn nguy, ngàn
6


khó, nhân dân Việt Nam vẫn động viên nhau "Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo". Tinh
thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất
thắng của chân lý, chính nghĩa dù trước mắt cịn đầy gian trn, khổ ải phải chịu đựng,

vượt qua. Điều này ảnh hưởng quan trọng đến tư tưởng HCM, Bác luôn tin vào sức mạnh
của dân tộc, sự thắng lợi của cách mạng VN cho dù con đường này cịn nhiều chơng gai.
Khi Người sang Trung Quốc, bị quân Tưởng bắt giam đày qua hàng chục nhà tù, chịu bao
gian nan, vất vả, nhưng Người vẫn thể hiện tinh thần lạc quan: “Ngâm thơ ta vốn khơng
ham/ Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây/ Ngày dài ngâm ngợi cho khuây/ Vừa ngâm
vừa đợi đến ngày tự do” (Khai quyển – Nhật ký trong tù), hay: “ ‘Ngoại cảm’ trời Hoa
cơn nóng lạnh/ “Nội thương” đất Việt cảnh lầm than/ Ở tù mắc bệnh càng cay đắng/ Đáng
khóc mà ta cứ hát tràn!” (Ốm nặng – Nhật ký trong tù) … Suốt thời gian bị giam, Bác vẫn
giữ phong cách ung dung của một chiến sĩ cách mạng là luôn tin tưởng ngày trở về với
đồng chí, đồng bào. Về nước, Người phải sống trong hang Cốc Bó, thiếu thốn gian khổ
đủ bề, nhưng Bác vẫn lạc quan cách mạng: “Sáng ra bờ suối tối vào hang/ Cháo bẹ rau
măng vẫn sẵn sàng/ Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng/ Cuộc đời cách mạng thật là
sang!” (Tức cảnh Pắc Bó).
1.4. Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngơn ngữ, phong tục, tập quán và
những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc.
Nhân dân Việt Nam đã phải đấu tranh với kẻ thống trị để giữ vững bản sắc văn hóa,
để giữ gìn tiếng nói, phong tục tập qn của mình, đồng thời tranh thủ tiếp thu những yếu
tố tiến bộ, hợp lý của các nền văn hóa bên ngồi nhằm hồn thiện và nâng cao nền văn
hóa, văn minh của người Việt, củng cố tinh thần tự lực tự cường, tăng thêm ý chí đấu
tranh giành độc lập tự chủ. Chính vì thế, lịng tự hào về lịch sử dân tộc thấm sâu trong
nhân dân như mạch nước ngầm trong lịng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi
làng xóm, lặng lẽ đổ vào biển cả tạo thành truyền thống của cả cộng đồng người Việt.
Truyền thống đó lại được ni dưỡng bởi nền văn hóa, văn minh của người Việt qua quá
trình định hình và phát triển của đất nước. Do đó, trong truyền thống dân tộc Việt Nam
thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập
qn và những truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành
tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với quan điểm văn hóa là
mục tiêu, động lực của cách mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hố mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí
7



Minh là một biểu tượng đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đơng và phương
Tây. Trong khi dành cả đời mình chiến đấu chống lại ách thống trị thực dân và đế quốc,
Người vẫn là một nhà nhân văn chân chính trong tư tưởng và hành động. Trong cuộc đấu
tranh đó, Hồ Chí Minh khơng chỉ "làm khởi sắc và tăng cường truyền thống văn hoá Việt
Nam", gắn nó với các nền văn hố khác trên thế giới mà cịn thành cơng trong việc liên
kết nhiều sắc thái văn hoá vào một nền văn hoá Việt Nam duy nhất. Người không chỉ
chịu ảnh hưởng và mang theo mình những giá trị truyền thống của dân tộc mà cịn đóng
góp quan trọng vào việc sáng tạo nên một nền văn hoá Việt Nam hiện đại; và Người "đã
làm được việc này nhờ sự hiểu biết sâu sắc và tơn trọng những đặc điểm văn hố khác
nhau. Người đã hoàn thành được nhiệm vụ này, và trong việc làm và lời nói của Người, ta
có thể nhìn thấy rõ hình ảnh, tư tưởng của nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ sĩ dân ca, những
người đem lại nguồn cảm xúc cho nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam".
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
2.1. Tinh hoa văn hóa phương Đơng
2.1.1. Nho giáo
 Khái quát nho giáo
Nho giáo còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo
do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các
nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và sớm du nhập vào Việt Nam. Cốt lõi
của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức
xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết
phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận
phải "hành đạo”. Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ
bình ". Tức là phải hồn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt
đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Khổng Tử đặt ra một loạt tam
cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và
an sinh xã hội. Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng

và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ
được tam cương, ngũ thường, tam tịng, tứ đức thì xã hội được an bình.
8


Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng
xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đặc biệt Nho giáo đề cao
văn hố, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn
hẳn so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có tư
tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân,
trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của Nho
giáo rất nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
 Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh
Nho giáo đã từng bén duyên với Nguyễn Ái Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi Hồ
Chí Minh cho tới trọn đời. Vì thế, khơng khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo lí này
đến việc hình thành nên tư tưởng của Người . Thân là con một vị đại Nho: cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra và lớn lên tại một vùng văn hố mặc dù đã có cảnh Hán học
suy tàn: “Cơ hàng bán sách lim dim ngủ/ Thầy khố tư lương nhấp nhổm ngồi” (Tú
Xương). Trước sự tấn công của văn hố phương Tây trong tình trạng “Á - Âu xáo lộn”,
trong tình trạng “mưa Âu gió Mĩ” xem ra đang một ngày một dồn dập, nhưng với riêng
vùng đất văn hố này (tức vùng Nghệ - Tĩnh) thì ảnh hưởng của Nho giáo vẫn đang được
cố thủ, chưa hẳn đã lép vế so với Tây học. Bác còn lớn lên ở cái xứ Huế, kinh đô của
triều Nguyễn, dù Tây học đã tràn đến trong chiều thắng thế dần, nhưng Nho học đâu đã
chịu quy hàng hoàn toàn. Chế độ Nam triều cịn đó với hệ thống quan lại hầu hết xuất
thân khoa bảng, ít nhiều đóng vai trò căn cứ địa của Nho giáo. Những điều kiện khách
quan trên đây cho phép nói đến ảnh hưởng Nho giáo đối với Hồ Chí Minh như là một
điều tất yếu đầu tiên. Chính lúc thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán trong đó có
Nho giáo. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài
viết của Người tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính được là hơn 100
trường hợp, trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử chiếm nhiều nhất. Như vậy là thái độ của

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với Khổng Tử và Nho giáo có sự phát triển qua các
chặng thời gian nhưng rõ ràng nhất quán một quan điểm lịch sử đúng đắn, khẳng định
đúng mức với lịng tơn kính những giá trị chân chính mà người xưa đã đạt được. Đương
nhiên là trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã
triệt để phê phán bác bỏ ý thức Nho giáo phong kiến phản tiến hố. Trong xây dựng nhà
nước, Hồ Chí Minh luôn nghĩ: Thức nhất, xây dựng đất nước "thực túc, binh cường, dân
tín" (Khổng Tử) tức là lương thảo nhiều, binh mạnh và lòng dân. Hoặc "dân vi bang bản"
9


- lấy dân là gốc nước. Hay tư tưởng quan hệ giữa triều đình với dân như "thuyền với
nước" (nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền) của Tuân Tử. Từ đó Người
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và "độc lập - tự do - hạnh phúc". Thứ hai,
người cầm quân phải thực hiện dưỡng dân, giáo dân: tức là nuôi dưỡng nhân dân như có
chính sách hợp lịng dân (chính sách ruộng đất, chính sách thuế, xóa đói giảm nghèo ).
Hồ Chí Minh nói "khơng sợ thiếu chỉ sợ khơng cơng bằng, khơng sợ nghèo chỉ sợ lịng
dân khơng n". Giáo dân tức là nâng cao dân trí, cải cách giáo dục, người cán bộ phải
làm gương cho dân, phải dùng đức trị trong tư tưởng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ" của Nho giáo. Về đạo đức: Hồ Chí Minh sử dụng phạm trù đạo đức của Nho giáo,
loại bỏ những yếu tố khơng cịn phù hợp và bổ sung những yếu tố tích cực cho phù hợp
với thời đại mới: - "Trung - hiếu": Nho giáo cho rằng Trung với vua và hiếu với cha mẹ.
Hồ Chí Minh bổ sung là "Trung với nước hiếu với dân" để dạy cán bộ, "cần, kiệm, liêm,
chính" & "chí cơng vơ tư" để giáo dục cán bộ và người dân. Hồ Chí Minh đã khai thác
Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Ví dụ: Hồ Chí Minh vận dựng tư tưởng nho học của Nguyễn Trãi: Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân để hình thành nên tư tưởng "LẤY DÂN LÀM GỐC"; hoặc trong đường lối
ngoại giao của Nhà nước ta lúc mới hình thành đó là "DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN
BIẾN"... Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hịa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một
nền văn hóa của tương lai. Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí
Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và

đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất
cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản
động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực
nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó
và khun chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn
hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học
thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa
chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời
của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu
biết quý báu của các đời trước để lại” Một lần nữa, ta thấy được rằng Hồ Chí Minh ln
biết cách tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, cụ thể ở đây là những tư tưởng
10


tích cực trong Nho giáo: "Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn cơng danh phú q chút nào.
Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng
rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, khơng dính líu gì tới
vịng danh lợi".
2.1.2. Phật giáo
 Khái quát về Phật giáo
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được một nhân vật lịch sử là
Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Cơ sở tư tưởng của
Phật pháp là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế), là cốt lõi giáo pháp của đạo
Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Phật giáo Người Việt gọi đơn
giản là ơng Bụt, có nghĩa là "người tỉnh thức" mà “Đức Phật Tổ” có được sau khi tỉnh
thức, giác ngộ được Phật pháp. Ở một số ngơn ngữ, từ này có nghĩa như "ngun lí của
vạn vật".
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể
thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện;

đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp
chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt
Nam, chủ trương khơng xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào
cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã
đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
 Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư tưởng Hồ Chí Minh
Cũng như Nho giáo, ở Hồ Chí Minh là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo
- một nguồn gốc tư tưởng, triết lý, văn hóa phương Đơng du nhập vào Việt Nam rất sớm.
Những điểm tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy
hành động, cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích
cực của Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị,
thanh liêm; đề cao tinh thần bình đẳng; khơng xa rời đời sống mà ln gắn bó với dân

11


tộc, đất nước. Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lịng
nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim
mng, cây cỏ. Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều
thiện. Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp. Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất
nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười
biếng. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh
bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt
Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với
đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân

tộc. Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã thành còn
chúng sinh là Phật sẽ thành”. Từ năm 1957, Hồ Chí Minh đã được các vị cao tăng của Ấn
Độ phong tặng danh hiệu “vị Phật sống”. Bản thân Người, trong các thư gửi đến Giáo hội
Phật giáo Việt Nam và Phật tín đồ Việt Nam, Người luôn coi Đức Phật là tấm gương “đại
từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Sự anh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo ở Hồ Chí
Minh là rất tự nhiên. Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi
vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà
nho nghèo, gần gũi với nơng dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.3. Lão giáo
 Khái quát về Lão giáo
Lão giáo hay còn gọi là Đạo giáo. Đạo giáo là một tôn giáo lớn xuất phát từ Trung
Quốc và có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Do thiếu các kiến thức về Đạo
giáo hoặc chỉ nhìn nhận Đạo giáo một chiều nên chúng ta thường lầm tưởng rằng Đạo
giáo khơng có ảnh hưởng lớn bằng Nho giáo và Phật giáo, nhưng trên thực tế, tơn giáo
này có nền tảng lâu đời và cách phát triển phức tạp, đặc biệt là khi được truyền tới Việt
Nam.
 Ảnh hưởng của Lão giáo đối với tư tưởng Hồ Chí Minh
12


Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kế thừa những mặt tích cực của Đạo giáo. Đạo giáo
khuyên con người nên gắn bó với thiên nhiên, hịa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải
biết bảo vệ môi trường sống , tư tưởng thốt mọi sự ràng buộc của vịng danh lợi. Người
khuyên cán bộ, đảng viên sống cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, hành động theo đúng
quy luật tự nhiên.
2.1.4. Tư tưởng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử; những trào lưu tư tưởng tiến
bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa tam
dân của Tôn Trung Sơn
 Khái quát Tôn Trung Sơn

Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên) (1866-1925) là nhà chính trị cách mạng tiên phong
của phong trào cách mạng dân chủ Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Dựa trên sự tiếp thu
những tư tưởng mới của thời đại để giải quyết những vấn đề cấp thiết của Trung Quốc
thời kỳ cận đại, ông đã sáng tạo ra một hệ thống lý luận chính trị cách mạng sâu sắc - chủ
nghĩa Tam dân, làm tôn chỉ cách mạng dẫn đường cho Cách mạng Tân Hợi năm 1911
thành công, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hơn hai ngàn năm và thiết lập nên
nhà nước cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
 Ảnh hưởng của học thuyết Tam dân đến tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước hết phải kể đến lịng tơn kính, sự khâm phục, trân trọng của Hồ Chí Minh đối
với Tơn Trung Sơn. Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Tôn Dật Tiên, “người cha của cách mạng
Trung Quốc”, người đứng đầu Chính phủ Quảng Châu, thì ln ln trung thành với
những ngun lý của mình, ngay cả trong những lúc khó khăn nhất. Cương lĩnh của đảng
ông - Quốc dân đảng - là một cương lĩnh cải cách. Cương lĩnh đó gồm những điều khoản
chống đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ rệt. Đảng đó lớn tiếng tun bố đồn kết
với các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa và với giai cấp vơ sản quốc tế. Đảng đó
đồng tình với Cách mạng Nga” (Trong bài Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc
đăng trên Tạp chí Thư tín quốc tế số 57 (năm 1924). Nhận định này của Hồ Chí Minh
hồn tồn phù hợp với quan điểm của Quốc tế cộng sản về Tôn Trung Sơn trong Lời kêu
gọi gửi công nhân, nông dân và nhân dân lao động Trung Quốc khi ông qua đời (tháng 3
năm 1925).

13


Khác với các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khi nghiên cứu
chủ nghĩa Tam dân đã nhìn thấy những hạn chế hết sức cơ bản của học thuyết này. Về cơ
bản, tư tưởng của chủ nghĩa Tam dân vẫn chỉ là tư tưởng dân chủ tư sản, nằm trong hệ
thống tư tưởng tư sản. Tuy nhiên, Người cũng nhìn thấy ở chủ nghĩa Tam dân và chính
sách “thân Nga, liên cộng, ủng hộ cơng nơng” của Tơn Trung Sơn có những điểm tiến bộ,
tích cực và có thể vận dụng thích hợp vào điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam.

Năm 1925, sau khi thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Hồ Chí Minh đã trực
tiếp huấn luyện, đào tạo cán bộ đưa về nước tuyên truyền vận động quần chúng, chuẩn bị
tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cộng sản. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo
Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương
pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách thích
hợp với điều kiện nước ta. Một trong những nội dung học tập tại các khóa huấn luyện của
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu là: “Lịch sử các cuộc cách mạng,
ba quốc tế, các phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, lịch sử Cách mạng tháng
Mười Nga, Cách mạng Tân Hợi, cách mạng đang diễn ra ở Trung Quốc với Tam dân chủ
nghĩa và Tam đại chính sách”, “chúng tôi học các thứ chủ nghĩa như chủ nghĩa Găng đi,
chủ nghĩa Tam dân một cách có phê phán và chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với lịch sử
Cách mạng tháng Mười”. Người không tiếp thu nguyên si, máy móc mà đã vượt hẳn lên
trên những nhà yêu nước Việt Nam khác. Người đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng
tạo những mặt tiến bộ của chủ nghĩa Tam dân và áp dụng thành công chúng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, coi trọng vấn đề độc lập dân tộc, nhưng tùy theo từng hoàn
cảnh cụ thể mà nhấn mạnh và đặt nó lên vị trí hàng đầu. Độc lập dân tộc gắn liền với tự
do hạnh phúc của nhân dân. Đó là điểm sáng tạo vĩ đại của Hồ Chí Minh. Như vậy: Sự
tiếp thu truyền thống tư tưởng Trung Quốc đã được các bậc tiền bối Việt Nam thực hiện.
Song, sự kết hợp truyền thống tư tưởng đó với tư tưởng tiên tiến Phương Tây thì chỉ đến
Hồ Chí Minh mới có. Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tìm
hiểu ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với cách mạng Việt Nam, đặc biệt đối với Hồ Chí
Minh, chúng ta trân trọng ghi nhận những đóng góp to lớn của Tơn Trung Sơn về lý luận
và thực tiễn cho cách mạng Việt Nam, làm phong phú thêm những trang sử đấu tranh giải
phóng dân tộc của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
14


2.2. Tinh hoa văn hóa phương Tây

Hồ Chí Minh tiếp cận với văn hóa phương Tây khá sớm và trên hành trình tìm
đường giải phóng dân tộc, Người đã tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ của văn minh
phương Tây. Trước tiên là chịu ảnh hưởng của văn hố Pháp và có lẽ nó cũng để lại
những dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng và phong cách văn hố của Người. Trong buổi đầu
đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã đi qua, dừng lại ở nhiều trung tâm của các
quốc gia thuộc châu Á, châu Phi, châu Âu và Bắc Mỹ. Nhưng có lẽ thời gian Người lưu
lại, sống và làm việc ở Châu Âu là nhiều hơn cả, đặc biệt là ở nước Pháp, Anh, Mỹ. Do
vậy, tư tưởng và văn hóa phương Tây - một bộ phận quan trọng của văn hóa nhân loại là
một trong các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu nặng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương
Tây.
2.2.1. Quá trình ảnh hưởng của Văn hóa phương Tây đối với Hồ Chí Minh
 Trước những năm 1911
Từ tháng 9/1905 đến tháng 6/1910, Hồ Chí Minh được cha xin cho theo học qua
trường Tiểu học Pháp - bản xứ (Vinh), Tiểu học Pháp - Việt (Thừa Thiên), Trường Quốc
học Huế, Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn. Qua các trường ấy, Người được tiếp xúc với
sách báo Pháp, thầy giáo người Pháp, Người đã có những hiểu biết ban đầu về văn hóa
phương Tây. Sau này, Hồ Chí Minh từng kể rằng: “Khi tơi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên
tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm
quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”.
 Thời kỳ tìm đường cứu nước trở thành người cộng sản (1911 – 1920)
5/6/1911 Hồ Chí Minh đặt chân lên con tàu Latouche-Tréville. Thời gian làm công
việc phụ bếp trên con tàu Pháp cho Người nhiều ấn tượng về văn hóa Tây phương. Người
nhận ra ngồi bọn thực dân tàn ác, coi mạng người xứ thuộc địa không đáng một xu, thì
cũng có những người Pháp tốt.
Hồ Chí Minh luôn tận dụng tất cả thời gian, sức trẻ và một số tiền ít ỏi để có cơ hội
đi tới những miền đất mới, những nền văn hóa và chính trị khác nhau. Ngồi vốn tiếng
Pháp, Người học thêm tiếng Anh, Đức, Ý, Nga, … để có thể hiểu được đời sống và xã
hội ở nhiều đất nước (thậm chí là cả các nước Châu Phi, Trung Đơng, …). Đi tới đâu
15



Người cũng tìm tịi, phân tích, đối chiếu đời sống nhân dân và chế độ chính trị của các
quốc gia. Q trình đó đã hình thành vốn kiến thức vừa bao quát, vừa uyên thâm về các
dân tộc trên thế giới, vừa tạo nên tấm lòng yêu thương, bác ái với nhân dân bị áp bức
khắp năm châu bốn bể.
Năm 1912, Hồ Chí Minh đặt chân đến Mỹ. Người đã có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh
giành độc lập của nhân dân Mỹ. Từ năm 1913, Người làm việc và hoạt động tại Anh. Tại
đây, Bác đã làm rất nhiều việc, từ cào tuyết cho tới rửa bát, phụ bắp để sinh sống. Mặt
khác, Bác rèn luyện trong phong trào công nhân, tiếp xúc với nhiều với tác phẩm tiến bộ
và tìm hiểu về bản chất của chủ nghĩa tư bản để từ đó tìm ra con đường giải phóng dân
tộc Việt Nam. Khoảng cuối năm 1917, từ nước Anh, Người tới Pháp, sống tại Pari đến
tháng 6/1923. Thời gian này, Người có những hoạt động tích cực, sơi nổi, tham dự các
cuộc diễn thuyết của những nhà chính trị và triết học để bổ sung thêm nhiều tri thức mới.
Cũng từ đây, Hồ Chí Minh đã dần đi đến một giai đoạn cao hơn trong việc tìm hiểu văn
hóa phương Tây. Tiếp cận với nhiều sách, báo, tài liệu và qua những hoạt động chính trị,
xã hội, Người đã có những hiểu biết sâu sắc về đời sống chính trị, xã hội, về sự phân chia
giai cấp, giàu nghèo, về những bất công trong xã hội Pháp và các nước, về bản chất bóc
lột của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, về cuộc đấu tranh của người lao động; văn hóa, triết
học Pháp có tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái; trong tinh hoa văn hóa phương Tây có tư
tưởng dân chủ, giá trị nhân đạo, có tư tưởng về quyền con người, quyền công dân. Anh
không theo hệ tư tưởng tư sản mà tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực, làm giàu thêm
trí tuệ của mình. Có thể thấy rằng, Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu vận dụng những hiểu
biết về phương Tây để tham gia vào con đường đấu tranh chính trị, hoạt động cách mạng
một cách vơ cùng tích cực.
 Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Hồ Chí Minh đã hang hái tham gia vào các tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản
Pháp, Quốc tế thứ ba, và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Rồi tiếp tục tìm
hiểu về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, về bản Luận cương của Lê-nin, Người cuối
cùng đã tìm thấy ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc sau bao nhiêu ngày tháng

gian nan tìm kiếm. Hoạt động của Hồ Chí Minh cả trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn ngày
càng tích cực, sơi nổi và hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giải phóng
các dân tộc thuộc địa; uy tín của Người ngày một nâng cao.
16


Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng
xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đặc biệt Nho giáo đề cao
văn hố, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn
hẳn so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có tư
tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân,
trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của Nho
giáo rất nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
 Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh
Nho giáo đã từng bén duyên với Nguyễn Ái Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi Hồ


Chí Minh cho tới trọn đời. Vì thế, khơng khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo lí này
đến việc hình thành nên tư tưởng của Người . Thân là con một vị đại Nho: cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra và lớn lên tại một vùng văn hố mặc dù đã có cảnh Hán học
suy tàn: “Cơ hàng bán sách lim dim ngủ/ Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi” (Tú
Xương). Trước sự tấn công của văn hố phương Tây trong tình trạng “Á - Âu xáo lộn”,
trong tình trạng “mưa Âu gió Mĩ” xem ra đang một ngày một dồn dập, nhưng với riêng
vùng đất văn hố này (tức vùng Nghệ - Tĩnh) thì ảnh hưởng của Nho giáo vẫn đang được
cố thủ, chưa hẳn đã lép vế so với Tây học. Bác còn lớn lên ở cái xứ Huế, kinh đô của
triều Nguyễn, dù Tây học đã tràn đến trong chiều thắng thế dần, nhưng Nho học đâu đã
chịu quy hàng hoàn toàn. Chế độ Nam triều cịn đó với hệ thống quan lại hầu hết xuất
thân khoa bảng, ít nhiều đóng vai trị căn cứ địa của Nho giáo. Những điều kiện khách
quan trên đây cho phép nói đến ảnh hưởng Nho giáo đối với Hồ Chí Minh như là một
điều tất yếu đầu tiên. Chính lúc thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán trong đó có

Nho giáo. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài
viết của Người tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính được là hơn 100
trường hợp, trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử chiếm nhiều nhất. Như vậy là thái độ của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với Khổng Tử và Nho giáo có sự phát triển qua các
chặng thời gian nhưng rõ ràng nhất quán một quan điểm lịch sử đúng đắn, khẳng định
đúng mức với lịng tơn kính những giá trị chân chính mà người xưa đã đạt được. Đương
nhiên là trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã
triệt để phê phán bác bỏ ý thức Nho giáo phong kiến phản tiến hố. Trong xây dựng nhà
nước, Hồ Chí Minh ln nghĩ: Thức nhất, xây dựng đất nước "thực túc, binh cường, dân
tín" (Khổng Tử) tức là lương thảo nhiều, binh mạnh và lòng dân. Hoặc "dân vi bang bản"
9


- lấy dân là gốc nước. Hay tư tưởng quan hệ giữa triều đình với dân như "thuyền với
nước" (nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền) của Tuân Tử. Từ đó Người
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và "độc lập - tự do - hạnh phúc". Thứ hai,
người cầm quân phải thực hiện dưỡng dân, giáo dân: tức là nuôi dưỡng nhân dân như có
chính sách hợp lịng dân (chính sách ruộng đất, chính sách thuế, xóa đói giảm nghèo ).
Hồ Chí Minh nói "khơng sợ thiếu chỉ sợ khơng cơng bằng, khơng sợ nghèo chỉ sợ lịng
dân khơng n". Giáo dân tức là nâng cao dân trí, cải cách giáo dục, người cán bộ phải
làm gương cho dân, phải dùng đức trị trong tư tưởng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ" của Nho giáo. Về đạo đức: Hồ Chí Minh sử dụng phạm trù đạo đức của Nho giáo,
loại bỏ những yếu tố khơng cịn phù hợp và bổ sung những yếu tố tích cực cho phù hợp
với thời đại mới: - "Trung - hiếu": Nho giáo cho rằng Trung với vua và hiếu với cha mẹ.
Hồ Chí Minh bổ sung là "Trung với nước hiếu với dân" để dạy cán bộ, "cần, kiệm, liêm,
chính" & "chí cơng vơ tư" để giáo dục cán bộ và người dân. Hồ Chí Minh đã khai thác
Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Ví dụ: Hồ Chí Minh vận dựng tư tưởng nho học của Nguyễn Trãi: Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân để hình thành nên tư tưởng "LẤY DÂN LÀM GỐC"; hoặc trong đường lối
ngoại giao của Nhà nước ta lúc mới hình thành đó là "DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN

BIẾN"... Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hịa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một
nền văn hóa của tương lai. Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí


Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và
đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất
cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản
động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực
nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó
và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn
hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học
thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa
chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời
của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu
biết quý báu của các đời trước để lại” Một lần nữa, ta thấy được rằng Hồ Chí Minh ln
biết cách tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, cụ thể ở đây là những tư tưởng
10


tích cực trong Nho giáo: "Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn cơng danh phú q chút nào.
Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng
rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, khơng dính líu gì tới
vịng danh lợi".
2.1.2. Phật giáo
 Khái quát về Phật giáo
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được một nhân vật lịch sử là
Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Cơ sở tư tưởng của
Phật pháp là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế), là cốt lõi giáo pháp của đạo
Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Phật giáo Người Việt gọi đơn

giản là ơng Bụt, có nghĩa là "người tỉnh thức" mà “Đức Phật Tổ” có được sau khi tỉnh
thức, giác ngộ được Phật pháp. Ở một số ngơn ngữ, từ này có nghĩa như "ngun lí của
vạn vật".
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể
thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện;
đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp
chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt
Nam, chủ trương khơng xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào
cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã
đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
 Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư tưởng Hồ Chí Minh
Cũng như Nho giáo, ở Hồ Chí Minh là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo
- một nguồn gốc tư tưởng, triết lý, văn hóa phương Đơng du nhập vào Việt Nam rất sớm.
Những điểm tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy
hành động, cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích
cực của Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị,


×