Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.27 KB, 17 trang )

NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
I/ NGUỒN GỐC CỦA PHÁP LUẬT
1. Theo quan điểm duy tâm, tôn giáo
Theo quan điểm tôn giáo: pháp luật là sản phẩm có ý chí của đấng tối cao. Ở các quốc
gia Hồi giáo, nguồn gốc của pháp luật là do Thượng đế quyền năng đã thần khải cho
Mohamed thành kinh Koral, quan điểm của kinh Koral cao hơn Hiến pháp-pháp luật của nhà
nước. Ở các quốc gia phật giáo, quan niệm nhà nước là do trời định nên vua được coi là
Thiên tử và pháp luật có nguồn gốc từ ý trời thể hiện ở các sắc lệnh có ghi: “phụng thiên
thừa vận Hoàng đế chiếu viết”.
Theo thuyết pháp luật tự nhiên: pháp luật là hiện thân của các quyền tự nhiên mà tạo
hoá trao cho hết thảy mọi người, không phân biệt địa vị xã hội. Pháp luật tự nhiên này quy
định bản chất của pháp luật thực định, pháp luật do nhà nước ban hành chẳng qua là biểu
hiện của pháp luật tự nhiên. Học thuyết này đòi hỏi pháp luật của nhà nước phải phù hợp với
pháp luật tự nhiên.
2. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định pháp luật là một hiện tượng lịch sử xã hội, chỉ ra
đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định đó là khi xuất hiện chế độ
tư hữu cho đến khi hình thành các giai cấp đối kháng và sự thống trị giai cấp bằng nhà nước.
Về mặt khách quan, nguyên nhân dẫn tới sự ra đời nhà nước cũng là nguyên nhân dẫn
đến sự ra đời của pháp luật: khi trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và
có sự phân chia thành những giai cấp có lợi ích đối kháng không thể điều hòa được. Trong
xã hội cộng sản nguyên thuỷ, những tập quán và tín điều tôn giáo được sử dụng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội một cách rất hiệu quả vì nó thể hiện ý chí chung của mọi người
trong xã hội. Nhưng khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội có sự phân chia giai cấp thì những
tập quán đó không còn phù hợp vì thế cần phải có một loại quy phạm mới để thiết lập cho xã
hội một “trật tự” mới, loại quy phạm này phải thể hiện ý chí của giai cấp thống trị chứ không
phải ý chí chung của cộng đồng, đó là quy phạm pháp luật.
Về mặt chủ quan, hệ thống pháp luật được hình thành qua nhiều bước phụ thuộc vào
điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước. Nhưng nói chung, hệ thống pháp luật có thể được
hình thành bằng con đường ban hành hoặc thừa nhận của nhà nước.
II/ BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT


1. Bản chất của pháp luật
Học thuyết Mác - Lênin đã giải thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp
luật. Theo đó, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, không
có pháp luật “tự nhiên” hay pháp luật không có tính giai cấp. Bản chất của pháp luật thể
hiện trước hết ở tính giai cấp.
• Tính giai cấp
- Pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Nắm trong tay quyền lực nhà nước,
giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập
trung, thống nhất và hợp pháp hoá ý chí của giai cấp thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
1
cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Pháp luật do nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện nên có tính bất buộc đối với mọi người.
- Mục đích của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội nhằm hướng các quan hệ này phát triển theo một “trật tự” phù hợp với ý chí của giai
cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị vì thế pháp luật được xem là
công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Tính giai cấp là bản chất của mọi kiểu pháp luật tuy nhiên bản chất này biểu hiện ở mỗi
kiểu pháp luật là khác nhau.
Pháp luật chiếm hữu nô lệ ra đời trên cơ sở các quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ mà
trong đó tư liệu sản xuất và cả người sản xuất đều thuộc sở hữu của giai cấp chủ nô. Pháp
luật chiếm hữu nô lệ lại do nhà nước nằm của giai cấp chủ nô ban hành nên ý chí nhà nước
mà nó thể hiện chủ yếu là ý chí của giai cấp chủ nô, bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô. Pháp
luật chiếm hữu nô lệ ghi nhận và bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa nhận chủ nô là công
dân và có đầy đủ quyền hành, được hưởng mọi lợi ích còn nô lệ không được coi là công dân,
họ chỉ được coi là “những công cụ lao động biết nói”, không có quyền cũng không được
hưởng bất kỳ lợi ích gì.
Pháp luật phong kiến ra đời trên cơ sở quan hệ sản xuất phong kiến với sự chiếm hữu
của địa chủ phong kiến đối với đất đai và các tư liệu sản xuất khác nên pháp luật phong kiến
chủ yếu thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến, quy định, củng cố sự thống trị của

địa chủ phong kiến đối với nông dân.
Pháp luật tư sản tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và
chịu sự chi phối có tính chất quyết định của các quan hệ đó. Pháp luật tư sản thể hiện ý chí
của giai cấp tư sản là bằng mọi giá phải duy trì và củng cố chế độ tư hữu và sự chi phối
không hạn chế của nó đối với các yếu tố xã hội, kinh tế, chính trị.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên cơ sở quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa với nền tảng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất do đó pháp luật xã hội chủ nghĩa
thể hiện và bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân, là công cụ để quản lý xã hội
và thực hiện tiến bộ xã hội.
• Tính xã hội
Pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự
trước hết bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị nhưng nhà nước cũng là đại diện chính thức
của toàn xã hội nên pháp luật còn có tính xã hội. Để đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển
thì pháp luật cần phải đáp ứng những nhu cầu và lợi ích chung của xã hội như: trật tự công
cộng, an sinh xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục, bảo vệ môi trường….Cụ thể:
- Pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng ở
mức độ ít hay nhiều và ở một chừng mực nhất định pháp luật cũng thể hiện ý chí và bảo vệ
lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội;
- Pháp luật có khả năng hạn chế, loại bỏ các quan hệ xã hội tiêu cực, thúc đẩy các quan
hệ xã hội tích cực;
Như vậy, pháp luật vừa có tính giai cấp vừa có tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tính xã hội của pháp luật không mâu thuẫn với tính giai cấp mà
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
2
hỗ trợ, bổ sung cho tính giai cấp vì tính xã hội đảm bảo cho sự ổn định của xã hội, đây là
yếu tố mà bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng quan tâm. Vì thế, không có pháp luật chỉ có
tính giai cấp, cũng không có pháp luật chỉ có tính xã hội.
Định nghĩa : Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố để điều
chỉnh các quan hệ xã hội.

2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật
2.1 Tính quyền lực (tính nhà nước, tính cưỡng chế)
Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nên pháp luật chứa đựng sức
mạnh quyền lực của nhà nước và có thể tác động tới tất cả mọi người, tính cưỡng chế cũng
là thuộc tính cơ bản của pháp luật nói chung. Nhờ có tính cưỡng chế mà pháp luật có sức
mạnh thi hành. Tính quyền lực (cưỡng chế) chỉ có ở pháp luật mà các loại quy tắc xử sự
khác không có.
Nhà nước bảo đảm thi hành pháp luật bằng các biện pháp sau:
- Bằng thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật;
- Bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Các biện pháp này được quy định trong
các quy phạm pháp luật tương ứng với hành vi vi phạm pháp luật của chủ thể.
2.2 Tính quy phạm phổ biến
- Tính quy phạm chỉ ra cách xử sự mà người ta phải tuân theo trong những trường hợp
nhất định. Tính quy phạm của pháp luật chính là việc thể chế hoá những quy định mang tính
điển hình hướng dẫn mọi người noi theo.
+ Pháp luật đưa ra các quy tắc xử sự, mang tính khuôn mẫu, áp dụng chung cho những
hành vi của con người trong những trường hợp cụ thể. Sở dĩ cần phải có khuôn mẫu xử sự
nhất định là vì trong từng trường hợp, tuỳ thuộc vào những điều kiện hoàn cảnh nhất định,
do sự chi phối của những lí do khách quan và chủ quan nên có thể nảy sinh nhiều khả năng
xử sự khác nhau, những xử sự này có thể làm rối loạn trật tự xã hội vì thế nhà nước cần đề ra
những khuôn mẫu xử sự chung để bảo vệ trật tự xã hội.
+ Pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để các chủ thể có thể xử sự
một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Nếu vượt quá giới hạn đó là vi phạm pháp luật.
- Pháp luật mang tính phổ biến. Pháp luật là loại quy tắc xử sự phổ biến nhất trong xã
hội. Mọi tổ chức, cá nhân nằm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia thậm chí bên ngoài lãnh thổ
quốc gia đều có thể chịu sự tác động của pháp luật. Trong mọi trường hợp nếu rơi vào những
điều kiện, hoàn cảnh mà pháp luật đã dự liệu trước thì pháp luật đều điều chỉnh.
2.3 Tính chặt chẽ về mặt hình thức
Pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, hình
thức, nội dung chặt chẽ được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Những đặc trưng nói trên chỉ là những đặc trưng cơ bản, bên cạnh đó quy phạm pháp
luật còn có những đặc trưng khác như tính khái quát và cụ thể, tính hà khắc và nhân đạo,
thành văn và không thành văn….việc nghiên cứu những đặc trưng này tuỳ thuộc vào kiểu
pháp luật và hệ thống pháp luật khác nhau.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
3
III/ HÌNH THỨC PHÁP LUẬT
P. Ăngghen cho rằng: “Pháp luật là ý chí giai cấp đề lên thành luật” nên theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị
sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật.
Theo các nhà luật học Âu Mỹ thì hình thức pháp luật là những dạng tồn tại thực tế của
pháp luật được các quan toà áp dụng khi xét xử.
Trong lịch sử hình thành pháp luật ở các nước trên thế giới, các nhà cầm quyền công
nhận và sử dụng ba hình thức pháp luật: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp
luật.
1. Tập quán pháp
Tập quán pháp là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong
xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử sự
chung được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Tập quán pháp hình thành dựa trên hai yếu tố: yếu tố chủ quan (yếu tố vật chất) và yếu
tố khách quan (yếu tố tâm lý). Yếu tố vật chất là các xử sự, thái độ, hành vi đã thành thói
quen một cách tự nhiên. Ví dụ: người phụ nữ phương Tây khi lấy chồng thường mang họ
chồng; còn yếu tố tâm lý là chủ thể pháp luật cho rằng thói quen, cách xử sự đó mang tính
chất bắt buộc và họ chấp nhận đó là “luật”. Ví dụ: Người phương Đông khi chết thì con phải
thắt khăn xô trắng.
Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và phổ biến nhất trong các nhà nước chủ
nô và nhà nước phong kiến. Trong các nhà nước tư sản hình thức tập quán pháp được sử
dụng nhiều nhất ở các nước có chế độ quân chủ. Nhìn chung, tập quán pháp là hình thức
pháp luật rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh Mỹ và Châu âu lục địa. Còn trong các
nước xã hội chủ nghĩa, một số tập quán tiến bộ vẫn được thừa nhận tuy nhiên ở mức độ hạn

chế vì tập quán pháp hình thành một tính tự phát ở các khu vực, vùng miền nên mang tính
cục bộ không phù hợp với bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chỉ lựa chọn
những phong tục tập quán phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và nâng chúng lên thành
những quy tắc xử sự chung cho mọi người, hợp pháp hoá chúng thành pháp luật.
Khi Nhà nước cần điều chỉnh một quan hệ xã hội, thông thường Nhà nước sẽ ban hành
các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan hệ xã hội mà Nhà nước
cần điều chỉnh lại đang được điều chỉnh bởi các quy phạm tập quán. Vì thế, nếu những tập
quán này phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội của Nhà nước, nhiều Nhà
nước sẽ sử dụng phương pháp thừa nhận, làm cho tập quán đó trở thành quy tắc xử sự có
tính bắt buộc chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Như vậy, để được coi là tập quán
pháp thì bản thân quy phạm tập quán đó bắt buộc phải được Nhà nước thừa nhận bằng một
trong hai cách: hoặc thông qua một quy định mang tính nguyên tắc cho mọi trường hợp,
hoặc thông qua một quy định chi tiết cho từng trường hợp cụ thể.
Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005, Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật:
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp
dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập
quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định
trong Bộ luật này”.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
4
Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác
định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai
dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân
tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ”.
2. Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính
hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự.
Tiền lệ pháp được hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất
phát từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp nên có đặc điểm không ổn định, dễ tạo
ra sự tuỳ tiện. Tuy nhiên tiền lệ pháp cũng tạo điều kiện cho quan toà dễ dàng vận dụng, lấp

được các “khoảng trống” của pháp luật.
Theo các nhà làm luật Anh thì tiền lệ pháp có rất nhiều ưu điể m
Thứ nhất, các đối tượng liên quan trong vụ án có thể biết trước các hậu quả pháp lý
của vụ việc vì họ biết các quyết định này không phải là các quyết định tùy tiện của các thẩm
phán mà các thẩm phán đã dựa vào các quyết định của các vụ việc trước đó.
Thứ hai, tiền lệ được đưa ra từ thực tiễn, trong khi các đạo luật lại ít nhiều căn cứ vào
lý thuyết và suy luận mang tính lô gích; tiền lệ hình thành từ các hoàn cảnh khác nhau trong
đời sống do đó nó điều chỉnh được hầu hết các quan hệ xã hội phát sinh.
Thứ ba, tiền lệ tạo điều kiện cho thẩm phán đưa ra nhiều tư tưởng mới trong lĩnh vực
áp dụng pháp luật tùy theo điều kiện, hoàn cảnh xã hội phát sinh ra các quan hệ pháp luật.
Thứ tư, đó là tính linh hoạt của tiền lệ pháp, thuộc tính này phụ hợp với sự thay đổi
nhanh chóng của xã hội. Trong khi sự thay đổi các văn bản quy phạm pháp luật cần phải
một thời gian nhất định thì tiền lệ pháp lại đáp ứng ngay những đòi hỏi của thực tiễn.
Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức tiền lệ pháp gặp phải những bất cập nhất định
Thứ nhất, do các quyết định và bản án quá nhiều và liên tục tăng theo thời gian nên
gây rất nhiều khó khăn trong quá trình vận dụng.
Thứ hai, bên cạnh tính linh hoạt thì nó cũng chứa đựng sự cứng nhắc vì thẩm phán
buộc phải tuân thủ theo những tiền lệ mà họ cho rằng không đầy đủ hoặc không mang giá
trị pháp lý cao.
Thứ ba, thẩm phán sẽ khó khăn khi nhận định trong những điều kiện hoàn cảnh như
nhau nhưng tình tiết vụ việc lại hoàn toàn khác nhau; trong trường hợp này, thẩm phán phải
so sánh và hình thành nên một tiền lệ mới, và như vậy sẽ làm phức tạp thêm khi áp dụng
luật.
Thứ tư, nó không mang tính hệ thống và tính khái quát vì án lệ được hình thành theo
những tình tiết của mỗi vụ việc.
Có thể nói tiền lệ pháp khởi nguồn ở nước Anh. Trước khi cuộc chinh phục của người
Norman diễn ra vào năm 1066, công lý và pháp luật được ban hành chủ yếu bởi tòa án hạt
(the county court) và được chủ trì bởi các giám mục và các hạt trưởng và được áp dụng
trong cả quyền hạn của giáo hội lẫn dân sự. Nhưng sau khi cuộc chinh phục của người
Norman thành công vào năm 1066, một hệ thống pháp mới được hình thành. Tuy vậy không

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
5
thể nói rằng common law đã hình thành năm 1066, lý do là vì William - thủ lĩnh cuộc chinh
phục - đã không huỷ bỏ các tập quán và hệ thống toà án địa phương, các toà án này vẫn
tiếp tục áp dụng thông lệ từ trước của họ và chưa có bộ luật nào chung cho toàn vương
quốc. Tuy nhiên nhà vua có thành lập một số toà án hoàng gia tại thủ đô Westminster. Thẩm
quyền các toà án này lúc đầu rất hạn chế nhưng về sau được mở rộng đến mức các toà án
địa phương mất tác dụng. Quyết định của các toà án hoàng gia dần dần trở thành luật
chung cho cả vương quốc và được gọi là luật thông lệ.
Tiền lệ pháp bắt nguồn từ quyết định của các tòa án. Do đó, xuất xứ truyền thống của
tiền lệ pháp là các án lệ chứ không phải luật do cơ quan lập pháp ban hành. Truyền thống
dựa lên án lệ lâu đời đến nỗi, khi tiền lệ pháp biến thành một tập hợp các quy định tố tụng
cứng nhắc và máy móc, nhà vua đã không chấn chỉnh bằng cách ban hành luật mới mà lại
thành lập một loại tòa án mới. Nếu một thần dân cho rằng một quyết định theo tiền lệ pháp
không công bằng thì có thể thỉnh cầu lên nhà vua. Do có quá nhiều thỉnh cầu như vậy, nhà
vua phải cho thành lập Tòa Đại pháp (The Court of Chancery - tòa án tối cao); dựa trên
các nguyên tắc công bình (in equity - công bằng và bình đẳng), tòa án này được phép tự
quyết định cách điều chỉnh sự phán xử theo luật thông lệ trước đó. Quyết định của tòa án
này đã sản sinh ra một loại luật được gọi là luật công bình, cũng dựa trên quyết định các
tòa án từ trước. Cả hai loại, tiền lệ pháp và luật công bình, đều là thành phần của truyền
thống tiền lệ pháp nói chung.
Đế quốc Anh đã mang tiền lệ pháp sang tất cả các lục địa. Tiền lệ pháp đã được tiếp
nhận ở nhiều nước, nhưng thành công nhất là ở các quốc gia nơi người định cư Châu Âu
chiếm số đông và áp đặt luật lệ của họ lên người bản địa. Đó là thực tế xảy ra ở Úc,
Canađa, New Zealand và Hoa Kỳ (Louisiana đã có luật thành văn trước khi trở thành một
tiểu bang của Hoa Kỳ). Luật thông lệ cũng được áp đặt ở nhiều thuộc địa khác nhưng
thường được điều chỉnh để thích ứng với tập tục địa phương. Trong một vài trường hợp,
Hoa Kỳ đã áp đặt nhiều phần của tiền lệ pháp đối với các lãnh thổ uỷ trị mới (như tại
Philippines). Tại châu Phi và châu Á, luật thông lệ vẫn được áp dụng ở các thuộc địa cũ của
Anh Quốc. Ngày nay, Ấn Độ là nước theo tiền lệ pháp đông dân nhất.

3. Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
trong đó quy định những quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội.
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ nhất chủ yếu nhất được thừa
nhận và áp dụng trong mọi nhà nước. Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa văn bản quy
phạm pháp luật được xem là hình thức pháp luật duy nhất được dùng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Còn đối với các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ và hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa, đây cũng là hình thức chủ yếu vì các tính chất của loại văn bản quy phạm
pháp luật.
Thực tế, không có nhà nước nào chỉ áp dụng một hình thức pháp luật, mỗi hình thức
pháp luật có những ưu và nhược điểm riêng nên việc áp dụng hình thức pháp luật nào tuỳ
thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh riêng của mỗi nhà nước.
Ngoài ra còn có các hình thức pháp luật khác. Như các học thuyết pháp lý: các công
trình nghiên cứu của các học giả, các ý kiến, các bài viết liên quan đến luật. Trước khi có các
văn bản pháp luật thì các học thuyết ra đời từ các trường đại học được xem là nguồn quan
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
6
trọng nhất trong hệ thống pháp luật. Các điều ước quốc tế: cam kết kí giữa các quốc gia với
nhau, có thể là điều ước song phương hoặc đa phương.
IV/ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI KHÁC
Mối quan hệ giữa pháp luật và các hiện tượng xã hội khác giúp giải thích rõ hơn bản
chất của pháp luật.
1. Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước
Nhà nước và pháp luật là hai yếu tố của kiến trúc thượng tầng có cùng nguồn gốc phát
sinh, cùng quá trình tồn tại và phát triển vì thế hai yếu tố này có quan hệ khăng khít, không
thể tách rời nhau.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị nhưng quyền lực đó chỉ có thể
được phát huy trên cơ sở pháp luật. Còn pháp luật lại do nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện, phản ánh quan điểm, đường lối chính trị của nhà nước.
Nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực của mình nếu thiếu pháp luật và

pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà
nước.
Như vậy, một mặt nhà nước dùng pháp luật làm công cụ để quản lý xã hội. Mặt khác,
quyền lực nhà nước lại phải dựa trên pháp luật, thực hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế
bởi chính pháp luật. Thể hiện ở những khía cạnh sau:
* Sự tác động của nhà nước đối với pháp luật
Nhà nước ban hành pháp luật, khi pháp luật không còn phù hợp thì nhà nước sửa đổi,
bổ sung hoặc huỷ bỏ để ban hành pháp luật mới.
Nhà nước đảm bảo cho pháp luật được thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất trong đời sống
xã hội.
* Sự tác động của pháp luật đối với nhà nước
Pháp luật giúp cho quyền lực nhà nước được triển khai một cách rộng rãi nhất.
Pháp luật khi được công bố thì trở thành một hiện tượng công khai, bắt buộc với mọi
chủ thể trong đó có cả nhà nước. Nhà nước cũng như các cơ quan của nhà nước đều phải tôn
trọng và tuân thủ pháp luật.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế
Pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng còn kinh tế là yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng.
Pháp luật được sinh ra trên cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định. Trong quan hệ với
kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương đối, một mặt pháp luật phụ thuộc vào kinh tế mặt
khác pháp luật có tác động trở lại đối với kinh tế.
* Sự tác động của kinh tế đối với pháp luật
- Nội dung của pháp luật do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, chế độ kinh tế là
cơ sở của pháp luật.
- Pháp luật phản ánh trình độ phát triển của kinh tế, nó không thể thấp hoặc cao hơn
trình độ phát triển của kinh tế.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
7
- Sự thay đổi của chế độ kinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của
pháp luật.
* Sự tác động trở lại của pháp luật đối với kinh tế

Sự tác động của pháp luật đối với kinh tế có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Nếu pháp luật
phù hợp với kinh tế: thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội,
phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến bộ và có tác dụng
tích cực.
Nếu pháp luật không phù hợp với kinh tế: pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
đã lỗi thời thì pháp luật mang nội dung lạc hậu và có tác dụng tiêu cực, kìm hãm sự phát
triển của kinh tế và xã hội.
3. Mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị
Pháp luật là biện pháp, phương tiện phục vụ các mục tiêu chính trị, là hình thức biểu
hiện cụ thể của chính trị. Chính trị được thể hiện trong các đường lối, chính sách của giai
cấp, cầm quyền, pháp luật có nhiệm vụ thể chế hoá các đường lối, chính sách đó.
Mặt khác, chính trị có sự tác động trở lại đối với pháp luật, đường lối chính sách của
giai cấp thống trị luôn luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với pháp luật.
4. Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
Đạo đức là những quan điểm, quan niệm của con người về cái thiện, cái ác, về sự công
bằng, nghĩa vụ, danh dự và những phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội.
Hệ thống các quy tắc xử sự được hình thành trên các quan điểm, quan niệm về đạo đức.
Khi đạo đức trở thành niềm tin thì chúng sẽ trở thành cơ sở cho hành vi của con người, chỉ
đạo hoạt động của con người. Pháp luật phản ánh đạo đức của giai cấp thống trị trong xã hội,
tuy nhiên pháp luật cũng phản ánh các quan điểm, quan niệm của các lực lượng khác nhau
trong xã hội. Pháp luật chịu sự tác động của quy phạm đạo đức và các loại quy phạm xã hội
khác nhưng pháp luật có tác động rất mạnh mẽ tới các quy phạm.
B/ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I/ CÁC KIỂU PHÁP LUẬT
1. Khái niệm
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của pháp luật thể hiện bản
chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh
tế xã hội nhất định.
Cơ sở để phân định kiểu pháp luật là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đặc điểm của mỗi kiểu pháp luật sẽ do đặc điểm của hình thái kinh tế -

xã hội trong xã hội đó quyết định.
Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội là bốn kiểu pháp luật: Pháp luật chủ nô,
pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản, pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2. Các kiểu pháp luật
a, Pháp luật chủ nô
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
8
Pháp luật chủ nô được hình thành dựa trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân tuyệt
đối về tư liệu sản xuất của giai cấp chủ nô. Pháp luật chủ nô thể hiện bản chất bóc lột của
giai cấp chủ nô, công khai bảo vệ quyền tư hữu của giai cấp chủ nô, nô lệ chỉ được xem là
“công cụ lao động biết nói”.
b, Pháp luật phong kiến
Pháp luật phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân của giai cấp địa chủ
phong kiến đối với tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai và bóc lột địa tô, bảo vệ quyền lợi của
giai cấp chủ nô. Pháp luật phong kiến mang nặng tính chất tôn giáo và đạo đức phong kiến.
c, Pháp luật tư sản
Pháp luật tư sản ra đời dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất của giai cấp tư
sản và bóc lột người lao động làm thuê. Pháp luật tư sản ghi nhận và bảo vệ sự thống trị của
giai cấp tư sản cả về mặt chính trị và tư tưởng.
d, Pháp luật xã hội chủ nghĩa
Pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mục đích của pháp
luật xã hội chủ nghĩa là thủ tiêu mọi hình thức áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới
trong đó mọi người đều bình đẳng và tự do làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là một quy luật
tất yếu. Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của quy luật kinh tế. Sự thay thế
kiểu pháp luật gắn liền với sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội tương ứng và cách
mạng là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Theo trình tự, pháp luật phong kiến thay thế
pháp luật chủ nô, pháp luật tư sản thay thế pháp luật phong kiến và pháp luật xã hội chủ
nghĩa thay thế pháp luật tư sản, pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật tiến bộ nhất.

Trong tương lai pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong và không còn một kiểu pháp luật
nào thay thế nữa.
II/ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2. Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Nói chung, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng như các kiểu pháp luật khác đều có bản
chất vừa thể hiện tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội. Tuy nhiên, do đặc thù về những điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, hệ tư tưởng nên pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng có
những nét đặc thù riêng. Pháp luật xã hội chủ nghĩa có bản chất khác bản chất của các kiểu
pháp luật trước đó, thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Thứ nhất: Tính giai cấp công nhân của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật xã hội
chủ nghĩa thể hiện lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, đó chính là lập trường của
Đảng cộng sản của giai cấp công nhân. Thông qua Đảng cộng sản giai cấp công nhân đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và pháp luật xã hội chủ nghĩa có
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
9
nhiệm vụ thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành những quy tắc xử sự chung để
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Thứ hai: Pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân sâu sắc
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng
cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước thể chế hoá ý chí của nhân dân lao động thành pháp luật, ý chí nhà nước thể
hiện trong pháp luật là ý chí của gia cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động khác.
- Thứ ba: Pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính dân tộc sâu sắc
Pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa phản ánh ý chí và nguyên vọng, lợi ích của cả
dân tộc, là phương tiện để thể chế hoá chính sách dân tộc của giai cấp công nhân.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là nền tảng pháp lý để thực hiện chính sách đại đoàn kết và

bình đẳng dân tộc, bảo đảm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tất cả các dân tộc; là công
cụ đấu tranh với những biểu hiện phân biệt, kỳ thị dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
3. Đặc trưng cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa
- Thứ nhất : Pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các quy tắc xử sự có tính thống
nhất nội tại cao không phải là tổng số của các quy tắc rời rạc.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính thống nhất cao hơn bất kỳ một kiểu pháp luật nào
khác vì nó được xây dựng trên cơ sở quan hệ pháp luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong thời
kỳ quá độ, mặc dù nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần nhưng dưới sự quản lý và điều tiết
của nhà nước thì nền kinh tế vẫn phát triển theo xu hướng thống nhất ngày càng cao, điều đó
quyết định tính thống nhất và xu hướng phát triển của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tính hệ thống của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói lên sự đa dạng của các loại quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên các loại quy phạm này đều thống nhất với nhau vì
chúng có chung một bản chất.
- Thứ hai : Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Đây là nét khác biệt căn bản giữa pháp luật xã hội chủ nghĩa và các kiểu pháp
luật khác.
- Thứ ba: Pháp luật xã hội chủ nghĩa do nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước dân chủ,
thể hiện quyền lực của đông đảo nhân dân lao động ban hành và bảo đảm thực hiện.
Pháp luật là những quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung, dựa vào sức mạnh cưỡng
chế của quyền lực nhà nước. Điều này nói lên tính đặc thù của pháp luật là thể hiện ý chí của
nhà nước, hình thành bằng con đường nhà nước. Mọi quy tắc xử sự không do nhà nước ban
hành thì không phải là pháp luật, trong xã hội có nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau
nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa được nhà nước bảo đảm thực hiện nên tuỳ thuộc vào mức độ
của hành vi vi phạm nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho
pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh. Tuy nhiên, pháp luật chủ nghĩa xã hội thể
hiện ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động nên dễ được mọi người tôn trọng
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
10

và tự giác thực hiện vì thế, các biện pháp cưỡng chế thường được áp dụng kết hợp với các
biện pháp giáo dục, thuyết phục.
- Thứ tư: Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với chế độ kinh tế xã hội.
Pháp luật quy định về chế độ kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia
hoạt động kinh tế xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội.
Trong mối quan hệ này kinh tế giữ vai trò quyết định đối với pháp luật, pháp luật phản
ánh trình độ của chế độ kinh tế xã hội. Mọi sự thay đổi của chế độ kinh tế sẽ dẫn tới sự thay
đổi tương ứng của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng có sự tác động trở lại đối với chế độ
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Về nguyên tắc, pháp luật không thể thấp hơn hoặc cao hơn trình độ
phát triển của chế độ kinh tế - xã hội nên nếu pháp luật phản ánh đúng trình độ phát triển của
kinh tế - xã hội thì nó sẽ có vai trò tích cực và ngược lại. Vì thế, trong quá trình xây dựng và
tổ chức thực hiện pháp luật phải gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn sao cho phù
hợp.
- Thứ năm: Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng cộng sản.
Trong mối quan hệ này, đường lối, chính sách của Đảng giữ vai trò chủ đạo. Đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng chỉ đạo phương hướng xây dựng pháp luật; chỉ đạo nội
dung của pháp luật; chỉ đạo việc thực hiện và áp dụng pháp luật.
Pháp luật phản ánh đường lối, chính sách của Đảng, là sự thể chế hoá đường lối, quan
điểm của Đảng thành những quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội.
Cần phải tránh khuynh hướng pháp luật thuần tuý, khi xây dựng và thực hiện pháp luật
không dựa trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng. Đồng thời cũng phải tránh khuynh
hướng muốn dung đường lối chính sách của Đảng thay thế pháp luật, hạ thấp vai trò của
pháp luật.
- Thứ sáu: Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội
khác trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật tác động tới các quy phạm xã hội khác theo hai hướng khuyến khích hoặc hạn chế.
4. Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa
4.1 Pháp luật là phương thức thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng cộng sản
thành các quy tắc chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội

Đường lối, chính sách của Đảng quyết định tính chất và nội dung của pháp luật;
Pháp luật phải kịp thời thể chế hoá quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
thành các quy tắc xử sự để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực.
4.2 Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
Bộ máy nhà nước là thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận. Pháp luật quy định về
cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước để bảo đảm cho các cơ quan này
hoạt động một cách có trật tự và hiệu quả thông qua việc pháp luật quy định về trình tự, thủ
tục xây dựng các cơ quan nhà nước; pháp luật quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng loại cơ quan. Đồng thời quy định mối quan hệ phân công, phối hợp giữa những
cơ quan trong bộ máy nhà nước.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
11
4.3 Pháp luật là phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ
chức và quản lý kinh tế, văn hoá - xã hội
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, văn hoá – xã hội là chức năng có phạm vi rộng
và phức tạp, nhà nước không thể trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, xây dựng cụ thể mà chỉ
thực hiện việc quản lý hành chính - kinh tế.
Pháp luật tạo nên hành lang pháp lý cho những hoạt động kinh tế, văn hoá – xã hội
được diễn ra thuận lợi, bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể tham gia các hoạt động đó. Đồng
thời, tạo ra cơ chế quản lý đối với các lĩnh vực phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
4.4 Pháp luật là công cụ bảo đảm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền lực nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội
Dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa nên pháp luật xã hội chủ nghĩa
cũng mang bản chất dân chủ.
- Pháp luật quy định vè quyền và tự do pháp lý của công dân, là cơ sở để bảo đảm dân
chủ, đặc biệt là các quyền về chính trị: tham gia quản lý nhà nước, bầu cử, khiếu nại, tố
cáo…
- Pháp luật quy định về nghĩa vụ của nhà nước, của cơ quan nhà nước và nhân viên
nhà nước đối với công dân.
- Pháp luật quy định cơ chế bảo đảm thực hiện quyền công dân, bảo đảm mọi hành vi

xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân đều bị xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, dân chủ phải có kỉ cương và phù hợp với chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện trong việc xác lập và điều chỉnh
mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Những quyền tự do, dân chủ của công dân được
quy định cụ thể trong pháp luật, nhà nước bảo đảm cho công dân được thực hiện các quyền
của mình trong khuôn khổ quy định của pháp luật, đồng thời, pháp luật cũng quy định những
nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội.
4.5 Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm
và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững kỷ cương và trật tự quản lý nhà nước
Pháp luật xác định các yêu cầu, nhiệm vụ của nhà nước và xã hội đối với việc thực
hiện các chức ngăng có tính bạo lực của nhà nước, quy định các hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và những biện pháp trách nhiệm cần thiết .
4.6 Pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động nên
tự nó đã có tác dụng giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân, nâng cao tính tự giác
khi thực hiện pháp luật. Bên cạnh các biện pháp chế tài nhằm áp dụng cho những chủ thể có
hành vi vi phạm mang tính răn đe trừng phạt trì pháp luật còn quy định những hình thức và
mức độ khen thưởng, khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với những thành viên có
nhiều cống hiến cho nhà nước và xã hội. Vì thế, pháp luật có ý nghĩa giáo dục to lớn, nó có
tác động tới nhận thức và tư tưởng của mỗi thành viên trong xã hội, giáo dục cho họ ý thức
tôn trọng các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
12
4.7 Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới, là công cụ để thực hiện đường
lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị và hợp tác
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có khả năng đi trước, định hướng cho sự phát triển của các
quan hệ xã hội vì vậy nó có vai trò rất lớn trong việc tạo dựng các quan hệ xã hội mới.
Sự hợp tác và phát triển chỉ có thể diễn ra trong môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
ổn định và có độ tin cậy. Pháp luật là phương tiện có ý nghĩa quan trọng để tạo ra môi
trường ổn định đó. Pháp luật tạo nên cơ sở để thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác quốc

tế nhất là về kinh tế như thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, phát triển khoa học, giáo
dục.
III/ Ý THỨC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của ý thức pháp luật
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong một giai đoạn nhất định. Ý thức xã hội bao gồm nhiều hình thái khác nhau
như: ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức pháp luật…
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là kết quả tác động của thực tiễn đối
với nhận thức của con người. Ý thức pháp luật do tồn tại xã hội quyết định, thông qua ý thức
pháp luật có thể nhận biết được thái độ của con người đối với pháp luật.
a, Khái niệm
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm, tư tưởng thịnh
hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp
luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp
pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước và các tổ chức xã hội.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm khác nhau
về pháp luật. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì không thể có ý thức pháp luật thống
nhất vì ý thức pháp luật của các giai cấp đối kháng thì luôn luôn mâu thuẫn với nhau và chỉ
có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị nắm trong tay chính quyền mới được thể hiện đầy
đủ trong pháp luật.
Ở mỗi quốc gia, tại một giai đoạn phát triển thì ý thức pháp luật của các giai cấp khác
nhau trong xã hội có sự khác biệt do điều kiện về vật chất và đời sống tinh thần của những
giai cấp đó quyết định. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, ý thức pháp luật của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là ý thức pháp luật chính thống, nó được thể hiện đầy đủ nhất
trong hệ thống pháp luật.
b, Đặc trưng cơ bản của ý thức pháp luật
- Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội vì vậy nó luôn chịu sự quy định của
tồn tại xã hội, trước hết là phụ thuộc vào cơ sở kinh tế. Tuy nhiên, ý thức pháp luật có tính
độc lập tương đối thể hiện ở một số khía cạnh sau:

+ Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội nhất là bộ phận tâm lý
pháp luật tư sản, phong kiến do đó nó có thể kìm hãm sự phát triển của xã hội;
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
13
+ Trong một số trường hợp, ý thức pháp luật mà đặc biệt là ý thức pháp luật khoa học
có tính tiên phong tức là nó có thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội.
+ Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó song nó cũng kế
thừa những yếu tố nhất định của ý thức pháp luật thời đại trước. Yếu tố mà nó kế thừa có thể
là tiến bộ hoặc lạc hậu.
+ Ý thức pháp luật có sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, ý thức chính trị, đạo
đức và các yếu tố khác thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý như nhà nước và pháp luật. Tuỳ
thuộc vào tính chất của ý thức pháp luật, tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó là thúc
đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các hiện tượng trên.
- Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp
Các giai cấp khác nhau thì có ý thức pháp luật khác nhau, tức là có quan niệm khác
nhau về pháp luật và các hiện tượng pháp lý. Mỗi quốc gia có thể tồn tại nhiều hệ thống ý
thức pháp luật như: ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị
trị, ý thức pháp luật của các giai tầng trung gian…tuy nhiên, chỉ có ý thức pháp luật của giai
cấp thống trị mới được phản ánh đầy đủ vào trong pháp luật.
Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng thể quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm lý,
nhận thức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Ý thức pháp luật phát sinh và hình thành cùng với ý thức chính trị của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động từ trong lòng xã hội tư sản khi giai cấp công nhân chưa giành
được chính quyền. Ý thức pháp luật của giai cấp công nhân là ý thức pháp luật thống trị
trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, là hệ tư tưởng và những quan điểm pháp lý của giai cấp
tiến bộ nhất, nó có tính thống nhất cao vì lợi ích của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác là thống nhất.
2. Cấu trúc, phân loại ý thức pháp luật
a, Cấu trúc

Căn cứ vào nội dung, tính chất của các bộ phận hợp thành, ý thức pháp luật được cấu
thành từ hai bộ phận là hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật là bộ phận của ý thức pháp luật bao gồm toàn bộ những tư
tưởng, quan điểm và học thuyết phản ánh đời sống pháp luậ một cách sâu sắc. Hệ tư tưởng
pháp luật hình thành một cách tự giác, phản ánh bản chất của pháp luật nên hệ tư tưởng pháp
luật có tính hệ thống và tính khoa học.
Tâm lý pháp luật là bộ phận của ý thức pháp luật, là sự phản ánh những tâm trạng,
cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý cụ thể khác. Tâm lý
pháp luật hình thành một cách tự phát trực tiếp từ đời sống pháp luật nên thiếu tính hệ thống,
thiếu cơ sở khách quan, khoa học.
Hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau.
Trong đó, tâm lý pháp luật tuy không phản ánh đời sống pháp luật một cách sâu sắc, hệ
thông song tâm lý pháp luật đúng đắn sẽ góp phần hình thành nên hệ tư tưởng pháp luật
đúng đắn. Hệ tư tưởng pháp luật tác động mạnh mẽ tới tâm lý pháp luật, định hướng cho tâm
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
14
lý pháp luật, khắc phục hạn chế của tâm lý pháp luật; còn tâm lý phápluật là tiền đề cho sự
hình thành các tư tưởng, quan điểm pháp luật.
b, Phân loại ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí:
- Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp luật bao gồm: ý thức pháp
luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận.
+ Ý thức pháp luật thông thường chủ yếu là những tri thức, những quan niệm của con
người về pháp luật, được hình thành một cách trực tiếp từ những hoạt động thực tiễn hàng
ngày, trên cơ sở kinh nghiệm của chủ thể về pháp luật chỉ phản ánh được mối liên hệ bên
ngoài, có tính cục bộ của hiện tượng pháp luật, chưa phản ánh được bản chất của pháp luật
nên thiếu tính khái quát, hệ thống. Tuy nhiên, ý thức pháp luật thông thường phản ánh sinh
động, trực tiếp nhiều mặt của đời sống pháp luật nên ý thức pháp luật thông thường là tiền
đề quan trọng cho sự hình thành các lý luận, lý thuyết về pháp luật.
+ Ý thức pháp luật lý luận là hệ thống học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm về

pháp luật được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết pháp lý. Ý thức pháp luật
phản ánh mối liên hệ bên trong, bản chất của pháp luật.
- Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được chia thành: ý thức
pháp luật xã hội, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
+ Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận tiên tiến đại diện cho xã hội, nó chứa
đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ bản nhất của pháp luật, phản
ánh được xu thế của xã hội.
+ Ý thức pháp luật nhóm chỉ phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tình cảm của một
nhóm chủ thể nhất định trong xã hội về pháp luật (cùng nghề nghiệp, cùng lợi ích…). Ý thức
pháp luật nhóm có phạm vi ảnh hưởng hẹp hơn so với ý thức pháp luật xã hội.
+ Ý thức pháp luật của cá nhân phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình
cảm, thái độ của mỗi người về pháp luật và đối với pháp luật. Trình độ của ý thức pháp luật
cá nhân thường thấp hơn ý thức pháp luật xã hội, nó có thể phù hợp hoặc trái với ý thức
pháp luật xã hội nên muốn phát triển ý thức xã hội thì phải không ngừng nâng cao ý thức
pháp luật cá nhân lên ngang tầm ý thức pháp luật xã hội.
3. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau nhưng có quan hệ
chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, biểu hiện ở một số khía cạnh sau:
- Thứ nhất: Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
Ý thức pháp luật phải đi trước, phản ánh được xu thế phát triển, thể hiện trong các
quan điểm chính thức của Đảng và nhà nước về mục tiêu, định hướng và nội dung của pháp
luật. Những thay đổi của đời sống xã hội trước hết được phản ánh trong ý thức xã hội sau đó
được thể hiện thành các quy phạm pháp luật tương ứng. Pháp luật được xây dựng trên nền
tảng ý thức pháp luật đó sẽ điều chỉnh tích cực các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí và lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì thế ý thức pháp luật được xem là tiền
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
15
đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với những điều kiện kinh
tế - xã hội.

- Thứ hai: Ý thức pháp luật là nhân tố đảm bảo việc thực hiện pháp luật trong đời
sống xã hội
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ của họ đối với các
quy định của pháp luật, cho nên ý thức pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng
pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật càng được bảo đảm. Vì vậy, giáo
dục ý thức pháp luật cho nhân dân, tuyên truyền, giải thích pháp luật là vô cùng quan trọng.
- Thứ ba: Ý thức pháp luật là cơ sở để bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy
phạm pháp luật.
Để áp dụng đúng đắn một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính xác
nội dung và yêu cầu của quy phạm đó, phải làm sáng tỏ được nội dung và yêu cầu của quy
phạm đó. Những điều nói trên chỉ có thể thực hiện được khi ý thức pháp luật của mọi người
đã phát triển đầy đủ.
Ý thức pháp luật không mâu thuẫn với pháp luật và luôn là điều kiện cần thiết để áp
dụng đúng đắn pháp luật. Khi quy phạm pháp luật hiện hành đã lạc hậu, không đáp ứng đầy
đủ những đòi hỏi của thực tế thì ý thức pháp luật thúc đẩy việc hình thành mới, tạo ra khả
năng giải quyết có hiệu quả, lấp đầy những khoảng trống của pháp luật hiện hành bằng cách
áp dụng nguyên tắc tương tự (bài áp dụng pháp luật).
- Thứ tư: Pháp luật là cơ sở để củng cố, phát triển, nâng cao ý thức pháp luật
Trong mối liên hệ tác động qua lại, ý thức pháp luật thúc đẩy sự hình thành phát triển
và hoàn thiện pháp luật, củng cố pháp chế. Mặt khác, pháp luật là cơ sở để nhận thức, phổ
biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, tình cảm và thái độ tôn trọng của họ
đối với pháp luật.
4. Vấn đề giáo dục nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa
Để nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, bên cạnh việc chú trọng xây dựng một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế, xã hội thì còn
phải tiến hành đồng thời nhiều biện pháp khác để tạo điều kiện cho việc hình thành và phát
triển toàn diện ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. Có nhiều biện pháp nhằm nâng cao ý thức
pháp luật như:
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật;
- Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường học;

- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thực hiện pháp luật;
- Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách đông
đảo vào hoạt động xây dựng pháp luật;
- Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, đạo đức, văn hoá, nâng cao
trình độ của nhân dân;
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
16
Giáo dục pháp luật là một trong những biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt để nâng
cao ý thức pháp luật của công dân.
Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường
xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp
lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu
cầu của pháp luật.
Giáo dục pháp luật nhằm ba mục đích:
Thứ nhất, mục đích nhận thức là làm cho mọi người hiểu về pháp luật, tránh tình
trạng hiểu không đúng về pháp luật.
Thứ hai, mục đích cảm xúc là nhằm hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp
luật.
Thứ ba , mục đích hành vi là hình thành thói quen, cách xử sự hợp pháp, tích cực cho
mỗi công dân.
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
17

×