Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Các biện pháp phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh – thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 81 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
------------***------------

LÊ HỒNG PHƢƠNG TRANG
MSSV: 1853801014186

CÁC BIỆN PHÁP PHỊNG NGỪA HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC PHỊNG CHỐNG DỊCH BỆNH –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022

Người hướng dẫn:
ThS. TRẦN THỊ THU HÀ

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp “Biện pháp phịng ngừa hành chính
trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” là
cơng trình nghiên cứu của riêng tơi và được sự hướng dẫn khoa học của ThS. Trần
Thị Thu Hà. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và
chưa cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những nhận xét, đánh giá cũng như số liệu được sử dụng trong Luận văn của
các tác giả và cơ quan, tổ chức khác đều được ghi chú, dẫn nguồn đầy đủ theo quy
định.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm
về nội dung Luận văn của mình.


Tác giả

LÊ HOÀNG PHƢƠNG TRANG


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ CÁC
BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC PHỊNG
CHỐNG DỊCH BỆNH ............................................................................................11
1.1. Lý luận chung về các biện pháp phòng ngừa hành chính ........................11
1.1.1. Khái niệm “biện pháp phịng ngừa hành chính” ....................................11
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp phòng ngừa hành chính ............................12
1.1.3. Phân loại các biện pháp phịng ngừa hành chính ...................................15
1.2. Các biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng chống dịch
bệnh .......................................................................................................................18
1.2.1. Dịch bệnh và vai trị của các biện pháp phịng ngừa hành chính trong
lĩnh vực phòng chống dịch bệnh ........................................................................18
1.2.2. Các biện pháp phòng ngừa hành chính chủ yếu trong lĩnh vực phịng
chống dịch bệnh theo pháp luật hiện hành ........................................................22
1.2.3. Thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp phòng ngừa hành chính
trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ..............................................................31
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về biện pháp phòng ngừa hành chính
trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ..............................................................44
1.3.1. Biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh
theo pháp luật Campuchia .................................................................................44
1.3.2. Biện pháp phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh
theo pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và thực tiễn ứng phó với dịch
bệnh COVID-19 .................................................................................................46
1.3.3. Thực tiễn thực hiện các biện pháp phòng chống COVID-19 tại một số

quốc gia..............................................................................................................48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................52
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
PHỊNG CHỐNG DỊCH BỆNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP CƠ BẢN .......................................................................................................53
2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp phòng ngừa hành chính trong
lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ........................................................................53
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về các biện pháp phòng ngừa hành chính
trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ..............................................................60


2.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập liên quan đến thực trạng pháp luật và
áp dụng pháp luật về các biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực
phịng chống dịch bệnh .......................................................................................67
2.4. Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng
chống dịch bệnh ở Việt Nam hiện nay ...............................................................70
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
“Quyền con người” là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có, khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. Mục tiêu quan trọng bậc nhất của Nhà nước khi thành lập là hướng
đến bảo vệ cũng như bảo đảm các quyền này được thực hiện. Thời đại hội nhập và

tồn cầu hóa, quyền con người, quyền cơng dân ngày càng được đề cao và chú
trọng, đây không chỉ là thước đo của sự văn minh, tiến bộ mà còn là động lực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ lý do quốc phịng - an ninh
quốc gia, trật tự - an tồn, đạo đức xã hội cũng như sức khỏe cộng đồng, bằng pháp
luật, Nhà nước có thể xác định giới hạn “phạm vi quyền” thông qua nhiều cách thức
khác nhau và một trong số đó có thể kể đến là các biện pháp phịng ngừa hành
chính.
Biện pháp phịng ngừa hành chính là biện pháp được sử dụng phổ biến trong
hoạt động quản lý hành chính Nhà nước nhằm ngăn ngừa những vi phạm pháp luật
cũng như để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tránh những thiệt hại về
tính mạng, tài sản có thể xảy ra trong trường hợp khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh…
ngay cả khi khơng có vi phạm pháp luật xảy ra. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, các quan hệ xã hội không
ngừng phát triển và trở nên đa dạng, phức tạp, do đó, tùy thuộc vào nhu cầu điều
chỉnh của từng lĩnh vực chuyên biệt, pháp luật về nội dung, trình tự thủ tục, thẩm
quyền liên quan đến phịng ngừa hành chính này cũng có sự khác nhau, được quy
định tại nhiều văn bản pháp lý nhằm tạo nên sự tách bạch và đảm bảo mục tiêu
phòng ngừa. Chỉ riêng đối với lĩnh vực phòng chống dịch bệnh, xuyên suốt thời
gian Pháp lệnh về Tình trạng khẩn cấp năm 2000, Luật Phòng, chống bệnh truyền
nhiễm năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019) có hiệu lực thi hành, các quy
định pháp luật về biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng chống
dịch bệnh được hệ thống, căn chỉnh lại thông qua việc sửa đổi luật và ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành. Chính động thái này của Nhà nước đã thúc đẩy các
quy phạm pháp luật theo hướng hồn thiện khóa, tạo điều kiện nâng cao chất lượng
và đổi mới nền hành pháp quốc gia. Tuy nhiên, qua đó cũng xuất hiện những bất
cập, hạn chế về thủ tục áp dụng; sự chồng chéo, bất khả thi của quy định pháp luật;
hiện tượng các quy định nằm tản mạn, chưa có sự thống nhất về cấu trúc...
Mặt khác, hoạt động áp dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính khi xuất
hiện dịch diễn ra thường xuyên nhưng dường như nhận thức về bản chất, tầm quan
trọng và vai trò của các biện pháp này vẫn chưa đầy đủ, toàn diện. Minh chứng là



6

q trình áp dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính ln chứa đựng nguy cơ
cao xâm phạm quyền con người, quyền cơng dân từ phía chủ thể có thẩm quyền hay
đối tượng quản lý xem nhẹ các biện pháp phịng ngừa khiến pháp luật khơng được
thực thi nghiêm chỉnh. Điều này vơ hình trung dẫn đến nguy cơ Nhà nước với công
cụ pháp luật trong tay nhưng vẫn không thực hiện tốt vai trị của mình trong quản
lý. Việc áp dụng biện pháp phịng ngừa hành chính như thế nào để cân bằng giữa
vấn đề đảm bảo trạng thái hoạt động bình thường của xã hội khi xuất hiện dịch bệnh
với vấn đề quyền con người, quyền công dân và ý thức thượng tôn pháp luật hướng
đến xây dựng Nhà nước pháp quyền vẫn còn là thách thức cần được giải quyết triệt
để.
Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về các biện
pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh là một vấn đề
cấp thiết đối với việc giữ gìn, ổn định trật tự và an tồn xã hội, phát triển đất nước.
Tác giả quyết định chọn đề tài “Biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực
phịng chống dịch bệnh – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để nghiên cứu, qua
đó đóng góp ý kiến cho quá trình hồn thiện pháp luật hiện hành về các biện pháp
phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả áp dụng các
biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ở Việt
Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận – pháp lý cơ bản về các biện
pháp phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh.
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật về các biện pháp phòng ngừa hành
chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về các biện pháp phịng ngừa
hành chính trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những điểm hạn chế, bất cập và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập đó
Thứ tư, nghiên cứu và chắt lọc kinh nghiệm từ thực tiễn pháp luật và áp dụng
pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới về các biện pháp phòng ngừa hành chính
trong phịng chống dịch bệnh.
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả áp dụng pháp luật về các biện pháp phịng ngừa hành
chính trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh ở Việt Nam hiện nay.
3. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài


7

Đề tài mà tác giả đang chọn trên đây là một vấn đề mang tính thời sự, được
nhiều nhà quản lý, nhà khoa học cũng như báo chí quan tâm. Qua quá trình nghiên
cứu, tác giả nhận thấy số lượng đề tài nghiên cứu liên quan đến biện pháp phòng
ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh cịn rất hạn chế.
Về luận văn, luận án, tài liệu hội thảo tiêu biểu như: Kỷ yếu Hội thảo khoa
học về “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực
tiễn” do Trường Đại học Trà Vinh tổ chức; Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia về
“Hồn thiện khung pháp lý trong phịng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam” do
Trường Đại học Văn Lang tổ chức… Thơng qua tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu kể
trên, tác giả có thể phần nào nhận biết những vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh
hiện tượng bùng phát dịch COVID-19 ở nước ta, nhận biết được những tồn đọng
của pháp luật khi áp dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính trong tình trạng
khẩn cấp về dịch, làm tiền đề cho việc hoàn thiện nội dung về đánh giá thực trạng
cũng như định hướng đề xuất kiến nghị.
Về các giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo tiêu biểu như: sách
chuyên khảo Đại cương bệnh truyền nhiễm của Học viện Quân Y; giáo trình Giáo

trình Luật Hành chính Việt Nam của tác giả Nguyễn Cửu Việt; sách Biện pháp
phịng ngừa hành chính – Lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc;
giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của tác giả Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu
… Đây là những tài liệu góp phần định hướng cũng như cung cấp kiến thức về các
vấn đề lý luận liên quan đến biện pháp phịng ngừa hành chính nói chung, làm nền
tảng giúp tác giả đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận về biện pháp phịng ngừa hành
chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh nói riêng.
Về báo và tạp chí chun ngành có thể kể đến các bài viết như: “Cơng văn
và những nhầm lẫn với quyết định quản lý Nhà nước” của tác giả Cao Vũ Minh
đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật; “Hoàn thiện quy định về việc ban hành
quyết định của Thủ tướng Chính phủ” của tác giả Cao Vũ Minh Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp; “Vai trị của kiểm tra hành chính trong hoạt động kiểm sốt hành chính
Nhà nước” của tác giả Hồng Thu Nga, Trần Hồng Việt đăng trên Tạp chí Quản lý
Nhà nước số 233; “Một số vấn đề về tùy nghi hành chính” của tác giả Nguyễn
Hồng Anh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15; “Bảo vệ quyền lợi của
người bị nhiễm Covid-19 theo quy định của pháp luật Việt Nam” của tác giả Trần
Linh Huân đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7… Hiện nay, hầu như khơng
có bài viết đăng trên báo và tạp chí chuyên ngành liên quan trực tiếp đến biện pháp
phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh. Có chăng những tài
liệu được tác giả liệt kê chủ yếu nghiên cứu về các vấn đề xoay quanh công tác ban


8

hành, áp dụng pháp luật trong tình trạng khẩn cấp, quyền con người, quyền công
dân trong đại dịch COVID-19, là nền tảng giúp tác giả đi sâu tìm hiểu về những bất
cập liên quan đến thi hành, áp dụng biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh
vực phịng chống dịch bệnh cả ở mặt lý luận và trên thực tế.
Về tài liệu nước ngồi có thể kể đến: Administrative Measures for
Preventing the Spread of COVID-19 and other Severe and Dangerous Contagious

Diseases [dịch: Luật về các biện pháp hành chính để ngăn chặn sự lây lan của
COVID-19 và các bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng và nguy hiểm khác]; Law of the
People's Republic of China on Prevention and Treatment of Infectious Diseases
[dịch: Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2013 của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa] cùng nhiều bài viết trên các website như www.medlatec.vn;
www.ncbi.nlm.nih.gov … Hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới ngày
càng hoàn thiện theo xu hướng hài hịa hóa, nhất thể hóa pháp luật; việc học tập
pháp luật các quốc gia có nền hành pháp phát triển để từ đó vận dụng, xây dựng,
sửa đổi pháp luật Việt Nam liên quan đến biện pháp phòng ngừa hành chính trong
lĩnh vực phịng chống dịch bệnh là vấn đề tất yếu. Các tài liệu nước ngoài kể trên
khơng chỉ cho thấy những điểm tiến bộ để hồn thiện pháp luật Việt Nam cả trong
công tác ban hành và thực tiễn áp dụng mà còn cho thấy những sai lầm của các
nước bạn liên quan đến hoạt động phịng chống bệnh truyền nhiễm, từ đó giúp nước
ta tránh khỏi những sai lầm, tiết kiệm thời gian và chi phí.
Thơng qua q trình khảo cứu tài liệu có liên quan đến nội dung của đề tài,
tác giả nhận thấy các cơng trình khoa học trên tuy đã đem lại những giá trị khoa học
quý giá ở góc độ lý luận, là tài liệu tham khảo hữu ích nhưng thực tế chưa có cơng
trình nào nghiên cứu trực tiếp biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực
phịng chống dịch bệnh, thậm chí các cơng trình nghiên cứu về biện pháp phịng
ngừa hành chính cũng rất hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả đã quyết định chọn đề tài
“Biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh – Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện” để làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau:
Một là, về phương pháp luận, đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Hai là, về các phương pháp cụ thể, Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu. Trong đó:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích các vấn đề lý
luận cũng như quy định của pháp luật về biện pháp phịng ngừa hành chính trong



9

lĩnh vực phòng chống dịch bệnh; tổng hợp các vấn đề pháp lý có liên quan từ thực
tiễn thi hành, áp dụng pháp luật;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để đánh giá sự thay đổi của
các văn bản pháp luật quy định trực tiếp về biện pháp phịng ngừa hành chính trong
lĩnh vực phịng chống dịch bệnh đồng thời chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt
giữa các biện pháp phịng ngừa hành chính và các biện pháp khác có thể được áp
dụng nhằm phịng chống dịch bệnh trong các văn bản pháp luật có liên quan, sàng
lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có giá trị tham khảo cho q trình
phịng chống dịch bệnh ở Việt Nam.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu:
- Các biện pháp phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch
bệnh theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về các biện pháp phòng ngừa hành chính trong
lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ở Việt Nam hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
các biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh ở Việt
Nam hiện nay.
- Phạm vi không gian: Cả nước
- Phạm vi thời gian: Luận văn chủ yếu khai thác nguồn tư liệu thực tiễn gắn
liền với hoạt động phòng chống COVID-19 ở Việt Nam từ 2019 đến nay.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp phòng ngừa
hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh là cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng trong bối cảnh dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp, gây ra những hệ luỵ

đáng tiếc cho sức khỏe nhân dân và sự phát triển bình thường của xã hội. Luận văn
đóng góp một phần nhỏ vào việc nhận diện và đánh giá các biện pháp phịng ngừa
hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh, góp phần khiêm tốn vào việc làm
phong phú các tri thức lý luận về các biện pháp phịng ngừa hành chính nói chung,
có thể là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc học tập, nghiên cứu mơn Luật Hành
chính trong nhà trường cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính
trong thực tiễn quản lý Nhà nước.
8. Kết cấu cơng trình nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, cơng trình nghiên
cứu bao gồm:


10

Chương 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý cơ bản về các biện pháp phịng
ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh;
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về các biện pháp
phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh ở Việt Nam hiện nay
và một số giải pháp cơ bản.


11

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ CÁC
BIỆN PHÁP PHỊNG NGỪA HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC PHÒNG
CHỐNG DỊCH BỆNH
1.1. Lý luận chung về các biện pháp phịng ngừa hành chính
1.1.1. Khái niệm “biện pháp phịng ngừa hành chính”
Cưỡng chế hành chính là tổng hợp các biện pháp do Luật Hành chính quy
định để tác động một cách trực tiếp hay gián tiếp lên tâm lý, tư tưởng, hành vi của

cá nhân hoặc tổ chức, buộc các chủ thể đó phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý
nhằm mục đích phịng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý hành vi trái pháp luật, bảo đảm
trật tự và kỷ luật trong hoạt động hành chính1. Đây là một phần không thể thiếu
trong quản lý Nhà nước. Chúng thể hiện sức mạnh của quyền lực Nhà nước, là công
cụ cần thiết để đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà
nước. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính thường tiềm ẩn
nguy cơ lạm quyền, xâm hại tự do, quyền con người, quyền cơng dân. Chính vì vậy,
chúng cần phải được pháp luật quy định rõ ràng và được kiểm sốt chặt chẽ trong
q trình tổ chức thực hiện.
Dựa vào dấu hiệu mục đích, có thể phân loại các biện pháp cưỡng chế hành
chính thành 4 nhóm chủ yếu: các biện pháp phịng ngừa hành chính, các biện pháp
ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính, các biện pháp trách nhiệm hành
chính và các biện pháp xử lý hành chính. Trong đó, các biện pháp phịng ngừa hành
chính, với mục đích “phịng ngừa” là dấu hiệu nhận diện nổi bật, thể hiện sự chủ
động của hoạt động quản lý Nhà nước trong việc ngăn ngừa các vi phạm pháp luật
cũng như ứng phó với các hiểm hoạ thiên tai, dịch bệnh và các sự cố bất thường
trong đời sống xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “biện pháp” là “cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể”2; “phịng ngừa” là “phịng khơng để cho cái xấu, cái khơng hay nào
đó xảy ra”3 và “hành chính” là “thuộc phạm vi chỉ đạo, quản lý việc chấp hành
luật, chính sách của Nhà nước”4. Ghép nghĩa các từ, vơ hình trung tạo ra định
nghĩa “biện pháp phịng ngừa hành chính là cách làm, cách thức giải quyết một vấn
đề cụ thể nhằm mục đích phịng khơng để cho điều xấu, điều không hay xảy ra ảnh
1

Trần Linh Chi, “Khái niệm cưỡng chế hành chính”, [ />
che-hanh-chinh/] (truy cập ngày 25/5/2022).
2

Hoàng Phê và các tác giả khác (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng – Trung tâm từ Điển học, Hà

Nội – Đà Nẵng, tr.64
3
4

Hoàng Phê và các tác giả khác, tlđd 2, tr.783.
Hoàng Phê và các tác giả khác, tlđd 2, tr.422.


12

hưởng đến các hoạt động thuộc phạm vi chỉ đạo, quản lý việc chấp hành luật, chính
sách của Nhà nước”. Việc luận giải bằng cách chiết tự mặc dù đã xác định được
mục đích của biện pháp phịng ngừa hành chính nhưng chưa thể hiện đầy đủ nội
hàm, làm rõ bản chất cũng như sự khác biệt giữa phòng ngừa hành chính và các
hình thức phịng ngừa khác trong hệ thống pháp luật. Từ đó dẫn đến cách hiểu mơ
hồ cho người đọc.
Trong khoa học pháp lý, biện pháp phòng ngừa hành chính được hiểu là biện
pháp “được áp dụng nhằm ngăn ngừa những vi phạm pháp luật cũng như để đảm
bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tránh những thiệt hại về tính mạng, tài sản
có thể xảy ra trong trường hợp khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh mà không liên quan
đến các vi phạm pháp luật”5; hay “được áp dụng nhằm phòng ngừa những vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, cũng như đảm bảo trật tự an toàn xã
hội trong các trường hợp khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh, … có mục đích là phịng
ngừa vi phạm pháp luật hoặc phịng ngừa những hiểm họa có thể xảy ra”6. Khác
với định nghĩa được nêu trên, cả hai quan điểm này đều mang tính chất đặc tả, trong
chừng mực nhất định đã tiếp cận được với bản chất và hoàn cảnh thực tế áp dụng
các biện pháp phịng ngừa hành chính; đồng thời thể hiện đây là biện pháp đặc biệt,
có thể áp dụng ngay cả khi khơng có bất kỳ vi phạm pháp luật nào hiện hữu nhằm
hướng đến bảo vệ lợi ích chung của cá nhân, tổ chức.
Mỗi quan điểm đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, góp phần tạo nên

cách hiểu toàn diện và đầy đủ nhất về khái niệm “biện pháp phịng ngừa hành
chính” hiện nay. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả: “Biện pháp phịng ngừa
hành chính là các biện pháp cưỡng chế được áp dụng trong quản lý Nhà nước, bởi
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cá nhân, tổ chức được trao quyền, theo thủ
tục hành chính nhằm ngăn ngừa các vi phạm pháp luật cũng như để đảm bảo an
ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tránh những thiệt hại về tính mạng, tài sản có thể
xảy ra trong trường hợp khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh…”.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp phịng ngừa hành chính
Thứ nhất, các biện pháp phịng ngừa hành chính được áp dụng trong quản lý
Nhà nước nhằm mục đích phịng ngừa các vi phạm pháp luật cũng như bảo đảm an
toàn xã hội trong trường hợp khẩn cấp như thiên tai, thảm hoạ, dịch bệnh…

5

Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Luật Hành chính Việt Nam, NXB. Giao thơng vận tải, Hà Nội,
tr.264.
6

Nguyễn Cửu Việt (2010), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
tr.527.


13

Đây là dấu hiệu quan trọng đầu tiên nhận diện các biện pháp phịng ngừa
hành chính, giúp chúng ta khơng bị nhầm lẫn với các biện pháp cưỡng chế nhằm
mục đích ngăn chặn, đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính (như tạm giữ người
theo thủ tục hành chính, khám người, khám tang vật, phương tiện được sử dụng để
vi phạm hành chính…) hay các biện pháp nhằm mục đích xử lý các vi phạm hành
chính (như các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả).

Chính mục đích phịng ngừa là yếu tố quyết định thời điểm thực hiện áp
dụng các biện pháp này. Nếu như các biện pháp ngăn chặn được thực hiện khi các
vi phạm đang diễn ra, các biện pháp trách nhiệm hành chính được áp dụng khi các
vi phạm đã xảy ra thì các biện pháp phịng ngừa hành chính được tiến hành trong
các trường hợp: (1) khi chưa xảy ra vi phạm pháp luật hay không liên quan đến vi
phạm pháp luật; (2) khi đã xảy ra vi phạm pháp luật nhưng nhằm mục đích phịng
ngừa tiếp theo, phịng ngừa chung; (3) khi thiên tai, thảm họa, dịch bệnh… có nguy
cơ xảy ra.
Thứ hai, các biện pháp phịng ngừa hành chính được áp dụng trên cơ sở
quyền lực Nhà nước, bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng có liên quan, có thể
gây ra những bất lợi nhất định về quyền và tài sản cho các cá nhân, tổ chức nhưng
khơng mang tính trừng phạt.
Đây là đặc trưng thể hiện tính chất “phịng ngừa” hết sức rõ nét. Khác với
nhóm các biện pháp cưỡng chế hành chính khác – sự chủ động từ phía cơ quan Nhà
nước, đưa ra yêu cầu buộc đối tượng quản lý phải thực hiện hoặc không thực hiện
hành vi nhất định xuất phát từ vi phạm hành chính trước đó của chủ thể này, biện
pháp phịng ngừa hành chính cũng bằng các quy phạm pháp luật, sử dụng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước để tác động, hạn chế các quyền con người nhưng lại khơng
mang tính chất trừng phạt bởi việc áp dụng biện pháp phịng ngừa hành chính
khơng liên quan đến sự xuất hiện và tồn tại của các hành vi vi phạm pháp luật mà
có chăng chỉ hướng đến loại bỏ những điều kiện, tiền đề dẫn đến hành vi vi phạm
pháp luật hoặc duy trì trật tự quản lý hành chính thường nhật từ phía chủ thể quản lý
thơng qua các quyết định mang tính bắt buộc.
Điển hình, các biện pháp kiểm tra hành chính (như kiểm tra văn bằng, chứng
chỉ, kiểm tra phương tiện tham gia giao thông, biện pháp kiểm dịch để đảm bảo an
tồn thực phẩm…) có tính cưỡng chế rõ ràng song không phải là sự áp dụng chế tài
hành chính, khơng bắt nguồn từ vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức. Các biện
pháp phòng ngừa hành chính chủ yếu kích thích các hành vi hợp pháp nhằm đáp
ứng các yêu cầu cấp bách trong các tình huống bất thường của đời sống xã hội,
ngăn ngừa các vi phạm, đảm bảo sự an toàn của cộng đồng…



14

Ngồi ra cịn có biện pháp phịng ngừa (như trưng dụng tài sản) dù không
phải là sự trừng phạt nhằm mục đích răn đe từ phía Nhà nước nhưng khi áp dụng lại
có thể tạo những bất lợi liên quan đến quyền tài sản, tương đối khó thực hiện cũng
như khó nhận được sự đồng thuận từ đối tượng quản lý. Vấn đề yêu cầu các cá
nhân, tổ chức “hy sinh” một số quyền cơ bản vì lợi ích Nhà nước và cộng đồng
thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn với sự ghi nhận ngày càng rộng mở liên quan đến
quyền con người, quyền công dân nhưng thực chất lại là cách thức để từng cá thể có
thể thực hiện quyền của mình. Vì tự do của người này đơi khi lại hạn chế, xâm
phạm đến tự do của người khác, gây nên rối loạn, mất trật tự xã hội. Mỗi người phải
chấp nhận từ bỏ một số quyền nhất định, không làm những điều pháp luật cấm hay
thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền thơng qua các quyết
định áp dụng biện pháp phịng ngừa hành chính để đảm bảo lợi ích chung của cộng
đồng.
Thứ ba, các biện pháp phịng ngừa hành chính khá đa dạng, phong phú, được
quy định tản mạn trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Các biện pháp phòng ngừa hành chính được điều chỉnh tản mạn, rải rác bởi
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, trong đó chủ yếu là các Luật chuyên
ngành như: Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản; Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam; Luật An ninh quốc gia; Luật Hộ tịch, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm...
Điều này một mặt cho thấy nhu cầu phịng ngừa hành chính trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội khá lớn. Mặt khác, với tính chất “phịng ngừa” là chủ đạo,
mức độ cưỡng chế của nhóm biện pháp này khơng mạnh mẽ, nghiêm khắc như các
nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính cịn lại. Đây chính là cơ sở để lý giải tại sao
các biện pháp phịng ngừa hành chính khơng chỉ được quy định bởi các văn bản
Luật mà cịn có thể hiện diện trong các quy phạm tiên phát của Chính phủ, trong khi
các biện pháp cưỡng chế hành chính khác chủ yếu được quy định khá tập trung tại

Luật Xử lý vi phạm hành chính7 và chỉ được quy định bởi Quốc hội (ngoại trừ các
biện pháp khắc phục hậu quả).
Thứ tư, các biện pháp phịng ngừa hành chính được áp dụng bởi nhiều chủ
thể có thẩm quyền.
Các biện pháp phịng ngừa hành chính khơng chỉ nhiều về số lượng mà còn
đa dạng trên các lĩnh vực, gắn liền với đặc thù của từng ngành, từng lĩnh vực. Sự tác
động của chúng đến quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong

7

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định 09 biện pháp ngăn chặn và
đảm bảo xử lý vi phạm hành chính, 06 hình thức xử phạt, 04 biện pháp xử lý hành chính.


15

xã hội được phân hoá theo nhiều cấp độ, mức độ khác nhau. Điều này dẫn đến sự đa
dạng về các chủ thể có thẩm quyền áp dụng chúng. Có những biện pháp phịng ngừa
hành chính chỉ được áp dụng bởi những chủ thể có thẩm quyền nhất định. Đơn cử,
biện pháp trưng mua, trưng dụng tài sản8. Có những biện pháp nhiều chủ thể cùng
có thẩm quyền áp dụng, chẳng hạn như biện pháp kiểm tra giấy tờ. Thậm chí khơng
ít các biện pháp phịng ngừa hành chính được tiến hành bởi các cá nhân, tổ chức
được trao quyền như biện pháp bắt buộc khai báo y tế hoặc kiểm tra thân nhiệt
trong thời kỳ dịch bệnh. Trong khi đó, xuất phát từ đặc thù về tính chất và mục
đích, thẩm quyền thực thi các nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính khác thường
được quy định cụ thể, chặt chẽ, với số lượng các chức danh khá hạn chế.
Thứ năm, các biện pháp phịng ngừa hành chính được áp dụng theo thủ tục
hành chính.
Đây là loại thủ tục diễn ra ngồi trình tự xét xử của Tịa án, gắn liền với hoạt
động chấp hành – điều hành Nhà nước, phù hợp với đặc tính của nhóm biện pháp

mang tính chất phịng ngừa và u cầu nhanh chóng, kịp thời của hoạt động quản lý
Nhà nước. Nếu so sánh với quy trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính
khác, có thể thấy thủ tục áp dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính tương đối
đơn giản. Trong khi đó, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc
xử lý vi phạm hành chính hay các biện pháp trách nhiệm hành chính đều chặt chẽ
và phức tạp hơn. Đặc biệt, các biện pháp xử lý hành chính dành cho các cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự an toàn xã hội mà chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự cịn được áp dụng theo thủ tục “hành chính bán tư pháp”,
tức loại thủ tục có sự pha trộn giữa hành chính và tư pháp, với thẩm quyền quyết
định cuối cùng thuộc về Toà án nhân dân cấp huyện, thông qua một phiên họp.
1.1.3. Phân loại các biện pháp phịng ngừa hành chính
Biện pháp phịng ngừa hành chính khá đa dạng, phong phú nhưng dựa vào
các tiêu chí khác nhau có thể phân loại chúng thành những nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất, có thể phân chia biện pháp phịng ngừa hành
chính thành các biện pháp có tính chất hạn chế quyền và các biện pháp có tính bắt
buộc trực tiếp.

8

Theo Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008, Thủ tướng Chính phủ quyết định trưng mua tài sản là

nhà và những tài sản gắn liền với đất. Những tài sản là đối tượng trưng mua, trưng dụng còn lại thuộc thẩm
quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ Quốc phịng, Cơng an, Bộ Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Y tế, Bộ Công Thương và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 14, Điều 24).


16

Các biện pháp có tính chất hạn chế quyền tác động đến khả năng xử sự được
phép của cá nhân, tổ chức một cách bất lợi, theo đó, sự tự do của cá nhân, tổ chức

trong việc thực hiện một số quyền cơ bản bị giới hạn so với hoàn cảnh bình thường.
Có thể kể tên một số biện pháp như: ngăn cấm người vào khu vực đang có dịch
bệnh; cấm hoặc hạn chế các phương tiện đi lại trên tuyến đường nhất định khi xuất
hiện nguy cơ mất an tồn giao thơng trong các trường hợp bão lụt, cây đổ, nguy cơ
nhà đổ; trưng dụng, trưng mua tài sản của công dân để ngăn ngừa, hạn chế hậu quả
thiên tai, bão lụt, chiến tranh, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc các tình huống bất thường
khác…
Các biện pháp có tính bắt buộc trực tiếp tác động thẳng đến hành vi của cá
nhân, hoạt động của tổ chức, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định dưới
sự giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cá nhân, tổ chức được trao
quyền. Những nghĩa vụ này không làm hạn chế quyền cơ bản của đối tượng quản lý
nhưng lại được quy định dưới dạng bắt buộc thực hiện hoặc khơng được thực hiện
những hành vi cụ thể. Đó là các biện pháp như: kiểm tra y tế đối với phương tiện
vận tải khi xuất phát hoặc đi qua vùng có dịch hoặc bị nghi ngờ mang tác nhân gây
bệnh truyền nhiễm; kiểm tra bắt buộc sức khỏe của những người làm cơng việc dịch
vụ có liên quan đến thực phẩm, y tế dễ gây ra dịch bệnh cho người tiêu dùng hoặc
bệnh nhân; kiểm tra hành lý và người ở cửa khẩu; kiểm tra hộ tịch, hộ khẩu của
công dân khi có nghi ngờ về chế độ đăng ký tạm trú…
Thứ hai, căn cứ vào mục đích phịng ngừa, có thể phân chia các biện pháp
phịng ngừa hành chính thành các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và các
biện pháp phòng ngừa thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, sự kiện bất thường…
Các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật nhằm đẩy lùi, loại bỏ các điều
kiện làm phát sinh các hành vi trái pháp luật, chủ động ngăn ngừa sự hình thành các
vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm hành chính nói riêng và vi phạm pháp luật nói
chung. Có thể kể tên một số biện pháp sau: kiểm tra bằng lái xe, nhãn hiệu hàng
hóa; kiểm tra hộ tịch, hộ khẩu của cơng dân khi có nghi ngờ vi phạm chế độ đăng
ký tạm trú; kiểm tra hàng hóa, hành lý và người do các cơ quan hải quan và công an
cửa khẩu thực hiện ngăn chặn các vụ buôn lậu qua biên giới, trốn thuế hàng hóa
nhập khẩu, xuất khẩu hoặc để đảm bảo an toàn cho chuyến bay, phát hiện các chất
dễ cháy, dễ nổ, những đối tượng tình nghi là tội phạm lẩn trốn… Sự tồn tại của các

biện pháp kiểm tra hành chính kể trên chính là sự nhắc nhở thường xun, nếu
khơng tn thủ đúng quy định thì có thể bị phát hiện bất kỳ lúc nào, từ đó dẫn đến
việc sử dụng cơ chế cưỡng chế hành chính để thực hiện trừng phạt đối với cá nhân,
tổ chức khơng chấp hành quyết định hành chính trước đó.


17

Các biện pháp phòng ngừa thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hướng đến việc
bảo vệ an toàn xã hội trước những tình huống bất thường, khẩn cấp của đất nước,
của địa phương, nhằm giảm thiểu những hậu quả đáng tiếc nhất có thể xảy ra trên
mọi phương diện. Chẳng hạn, biện pháp kiểm tra bắt buộc sức khỏe của những
người làm cơng việc dịch vụ có liên quan đến thực phẩm, y tế, dễ gây ra dịch bệnh
cho người tiêu dùng, bệnh nhân; kiểm dịch y tế đối với phương tiện vận tải khi xuất
phát hoặc đi qua vùng có dịch hoặc bị nghi ngờ mang tác nhân gây bệnh truyền
nhiễm; ngăn cấm hoặc hạn chế các phương tiện đi lại trên tuyến đường nào đó khi
xuất hiện nguy cơ mất an tồn giao thơng trong các trường hợp bão lụt, cây đổ,
nguy cơ nhà đổ… Trường hợp này, các biện pháp phịng ngừa được áp dụng đương
nhiên khơng xuất phát từ vi phạm pháp luật, vấn đề hạn chế quyền, yêu cầu thực
hiện các nghĩa vụ bắt buộc được thực thi bằng cách các cá nhân, tổ chức tuân thủ
quyết định hành chính do chủ thể có thẩm quyền ban hành để bảo vệ quyền và lợi
ích của chính họ và lợi ích của tồn thể cộng đồng.
Thứ ba, căn cứ vào cách thức tác động, có thể phân chia các biện pháp phịng
ngừa hành chính thành các biện pháp kích thích hành vi hợp pháp trong quản lý
Nhà nước và các biện pháp ngăn chặn, hạn chế khả năng gây tổn hại đến lợi ích
Nhà nước, xã hội, cá nhân, tổ chức trong các tình huống bất thường, khẩn cấp.
Các biện pháp kích thích hành vi hợp pháp trong quản lý Nhà nước thường
là những biện pháp có mức độ cưỡng chế khá nhẹ nhàng. Điều này được kiểm
chứng ở các biện pháp kiểm tra hành chính như: kiểm tra bằng lái xe ô tô, xe máy,
nhãn hiệu hàng hoá, chứng minh thư nhân dân, bằng tốt nghiệp phổ thông, đại

học...; kiểm tra hộ tịch, hộ khẩu trong nhà ở của cơng dân khi có nghi ngờ về vi
phạm chế độ đăng ký tạm trú; kiểm tra hàng hóa, hành lý và cá nhân do các cơ quan
hải quan thực hiện nhằm ngăn ngừa các vụ buôn lậu qua biên giới, trốn thuế hàng
hóa nhập, xuất hoặc để bảo đảm an toàn cho các chuyến bay, phát hiện các chất dễ
cháy, dễ nổ; kiểm tra bắt buộc sức khỏe của những người làm cơng việc dịch vụ có
liên quan đến thực phẩm, y tế, dễ gây ra dịch bệnh cho người tiêu dùng, bệnh
nhân… Đây chính là nhóm biện pháp có tính chất phịng ngừa vi phạm pháp luật,
tức chủ thể có thẩm quyền áp dụng nhóm biện pháp này xuất phát từ mục đích
khiến các đối tượng quản lý phải luôn trong trạng thái “cảnh giác”, “dè chừng” bởi
nếu khơng tn thủ đúng quy định, họ có thể bị phát hiện bất kỳ lúc nào thông qua
hoạt động áp dụng pháp luật từ phía cơ quan Nhà nước, qua đó kích thích ý thức
chấp hành pháp luật, thúc đẩy việc xác lập, thực hiện các hành vi hợp pháp của các
cá nhân, tổ chức. Cuối cùng, Nhà nước đã đạt được mục đích khơng để vi phạm
pháp luật (nhiều nhất là vi phạm pháp luật hành chính) xảy ra, bảo đảm trật tự quản


18

lý Nhà nước9. Ngồi ra, nhiều biện pháp thuộc nhóm biện pháp kích thích hành vi
hợp pháp trong quản lý hành chính Nhà nước cịn có khả năng phịng ngừa hậu quả
bất lợi xảy ra. Điển hình như biện pháp kiểm tra bắt buộc sức khỏe của những người
làm công việc dịch vụ có liên quan đến thực phẩm, y tế, dễ gây ra dịch bệnh cho
người tiêu dùng, bệnh nhân… là biện pháp yêu cầu đối tượng quản lý phải cung cấp
giấy tờ để chủ thể có thẩm quyền kiểm tra hành chính, buộc các cá nhân, tổ chức
phải thực thi nghiêm chỉnh, là yêu cầu hợp tác từ phía Nhà nước để loại bỏ khả
năng xuất hiện hậu quả bất lợi, ảnh hưởng đến sức khỏe của khách thể quản lý mà
không phải là một sự trừng phạt có tính chất răn đe, giáo dục.
Các biện pháp ngăn chặn, hạn chế khả năng gây tổn hại đến lợi ích nhà
nước, xã hội, cá nhân, tổ chức trong các tình huống bất thường, khẩn cấp chính là
nhóm biện pháp phòng ngừa thiên tai, thảm hoạ, dịch bệnh…, chúng thường tác

động trực tiếp đến hành vi và một số quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức, với mức độ
cưỡng chế mạnh mẽ hơn. Đó là các biện pháp như: ngăn cấm hoặc hạn chế xe cộ đi
lại trên một tuyến đường khi xuất hiện nguy cơ mất an toàn giao thông trong các
trường hợp sửa lại đường sá, xây cầu cống, bão lụt, cây đổ, nhà có nguy cơ đổ; ngăn
cấm người vào khu vực đang có dịch bệnh, đóng cửa biên giới; trưng mua, trưng
dụng tài sản cơng dân để ngăn ngừa hậu quả do thiên tai, bão lụt…
1.2. Các biện pháp phịng ngừa hành chính trong lĩnh vực phòng chống
dịch bệnh
1.2.1. Dịch bệnh và vai trò của các biện pháp phịng ngừa hành chính trong
lĩnh vực phịng chống dịch bệnh
Theo Từ điển Tiếng Việt, “dịch” là “tình trạng bệnh lây lan, truyền rộng
trong một thời gian”10. Dịch thường gắn liền với các bệnh truyền nhiễm, tức các
bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác
nhân gây bệnh truyền nhiễm. Khác với các bệnh thông thường, bệnh truyền nhiễm
đáng quan ngại ở khả năng và mức độ lây nhiễm. Từ góc độ chun mơn, căn cứ
vào cách thức lây lan, bệnh truyền nhiễm được chia thành 5 nhóm, bao gồm: bệnh
lây truyền theo đường tiêu hoá; bệnh lây truyền theo đường hô hấp; bệnh lây theo
đường máu; bệnh lây truyền theo đường da và niêm mạc; bệnh truyền nhiễm có thể
lây thơng qua nhiều đường (hỗn hợp)11. Cịn trên phương diện pháp lý, dựa vào tính
9

Nguyễn Thị Bích Ngọc (2019), Biện pháp phịng ngừa hành chính – Lý luận và thực tiễn, NXB. Chính trị

Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.36.
10
Hoàng Phê và các tác giả khác, tlđd 2, tr.255.
11

Học viện Quân Y (2015), Đại cương bệnh truyền nhiễm, NXB. Học viện Quân Y, [ />(truy cập ngày 10/5/2022).



19

chất và mức độ lây lan, bệnh truyền nhiễm được chia thành 03 nhóm bệnh như
sau12:
Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây
truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh;
Nhóm B gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền
nhanh và có thể gây tử vong;
Nhóm C gồm các bệnh truyền nhiễm ít nguy hiểm, khả năng lây truyền
khơng nhanh.
Bệnh truyền nhiễm không mặc nhiên được hiểu là dịch. Theo Luật Phòng,
chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019), “dịch là sự
xuất hiện bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự
tính bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một khu vực nhất định”
(khoản 13 Điều 2). Nghĩa là, bệnh truyền nhiễm chỉ trở thành dịch bệnh khi có sự
lây lan nhanh chóng, vượt quá dự tính ban đầu của chính quyền, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng của con người. Dịch bệnh, nói cách khác,
là một khái niệm phái sinh, tồn tại song song với khái niệm bệnh truyền nhiễm
trong một số trường hợp nhất định.
Tuy nhiên, đối với ngành y tế, khái niệm dịch bệnh nêu trên được hiểu với
những bệnh đã từng xảy ra trước đó (điển hình là cúm và sốt xuất huyết). Trường
hợp hội chứng viêm đường hô hấp cấp nặng (SARS) xuất hiện năm 2002 hay hội
chứng hô hấp Trung Đông (MERS) xuất hiện năm 2012 và dịch COVID-19 (SARSCoV-2)13 là những bệnh mới, lần đầu tiên xuất hiện thì các cơ quan y tế sẽ căn cứ
vào khả năng lây lan, mức độ gây tử vong, đã có thuốc đặc trị và vắc xin chưa để
cân nhắc xác định dịch14.
Phòng chống dịch bệnh là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi
quốc gia. Bởi dịch bệnh trước hết là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khoẻ và
12


Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019).

13

Trần Linh Huân (2020), “Bảo vệ quyền lợi của người bị nhiễm Covid-19 theo quy định của pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, tr.45.
Đây là đại dịch bệnh truyền nhiễm được gây ra bởi virus SARS-CoV-2, chủng mới của virus Corona gây
viêm đường hơ hấp cấp ở người và có khả năng lây lan từ người sang người. COVID-19 bắt đầu bùng phát từ
tháng 11/2019 tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Ca nhiễm bệnh đầu tiên của Việt Nam được
phát hiện vào ngày 23/1/2020 tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Ngày 31/01/2020, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công
bố dịch bệnh COVID-19 là sự kiện y tế công cộng khẩn cấp, gây quan ngại toàn cầu và đến tối ngày
11/3/2020 chính thức cơng bố căn bệnh COVID-19 do chủng mới của virus Corona gây ra là đại dịch toàn
cầu.
14

Cục Quân Y,”100 câu hỏi – đáp về dịch bệnh COVID-19”, [ (truy cập ngày 10/5/2022).


20

tính mạng của nhân dân, trong khi sức khỏe người dân là yếu tố quyết định sự phát
triển toàn diện của đất nước. Sức khỏe không chỉ thể hiện con người không bệnh
tật, không ốm đau, tinh thần thỏa mái mà còn là tiền đề của con người năng động,
hăng hái, có ý chí, nghị lực để hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận định: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây
đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi người dân yếu
ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”15.
Bên cạnh đó, dịch bệnh còn gia tăng áp lực cho hệ thống y tế, thậm chí có thể tạo ra
sự khủng hoảng về y tế, nhất là ở những quốc gia kém phát triển. Trong cuộc chiến
chống dịch, bác sỹ, y tá và nhân viên y tế là những chiến sỹ tuyến đầu; hơn bất kỳ

ai, họ phải trực tiếp đối mặt hàng ngày, hàng giờ với những rủi ro lớn về sức khỏe,
mất mát, đau thương và vấn đề tâm lý hậu đại dịch. Dịch bệnh càng bùng phát nặng
nề, áp lực đối với ngành y tế càng lớn. Ngoài ra, sự lây lan dịch bệnh còn gây hoang
mang, bất ổn trong xã hội, tiêu tốn nguồn lực quốc gia đồng thời làm suy giảm sức
mạnh của nền kinh tế. Vì sự xuất hiện của dịch bệnh khiến các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, du lịch, dịch vụ…. trở nên trì trệ, nguồn vốn đầu tư giảm sút, các chuỗi
sản xuất, cung ứng trong và ngoài nước bị đứt đoạn trong khi chi phí phịng chống
dịch từ ngân sách Nhà nước khơng ngừng gia tăng. Những hậu quả nặng nề của đại
dịch COVID-19 trên phạm vi toàn cầu là lời cảnh tỉnh cho mọi quốc gia về tác hại
của việc không kiểm sốt tốt dịch bệnh.
Để phịng ngừa dịch bệnh và sự lây lan của dịch bệnh, cần rất nhiều các biện
pháp khác nhau, từ các biện pháp chuyên môn (do ngành y tế chịu trách nhiệm
chính) đến các biện pháp mang tính xã hội (như vận động, tuyên truyền, thuyết
phục) và các biện pháp hành chính (bao gồm các biện pháp mang tính tổ chức –
điều hành, các hình thức cưỡng chế hành chính)… Trong khn khổ của Luận văn
này, tác giả khơng đề cập đến các biện pháp mang tính chun mơn và các biện
pháp mang tính xã hội mà chỉ tập trung bàn về các biện pháp phòng ngừa hành
chính do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức được Nhà
nước trao quyền thực hiện.
Vai trò quan trọng của các biện pháp phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực
phịng chống dịch bệnh được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau đây:
15

Nguyễn Thị Kim Ngân, “Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động cần nâng cao ý thức rèn luyện sức

khỏe để thực hiện tốt công việc”, Tỉnh Ủy Thái Nguyên – Trường Chính trị,
[ />(truy cập ngày 25/5/2022).


21


Trước hết, việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa hành chính là phương
thức cần thiết để ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe của cá nhân
và cộng đồng.
Mục tiêu hàng đầu của việc phòng chống dịch bệnh là ngăn ngừa sự lây lan
của dịch bệnh, sao cho chúng được khống chế, kiểm soát càng sớm càng tốt. Để đạt
được điều này, cần sự đồng lịng, chung sức của tồn xã hội song nhìn chung Nhà
nước vẫn đóng vai trị chủ đạo. Bởi Nhà nước có trong tay pháp luật, bộ máy, lực
lượng, phương tiện và ngân sách để có thể điều hành cơng cuộc phòng chống dịch
bệnh một cách tập trung, quy củ, hiệu quả. Trong đó, các biện pháp phịng ngừa
hành là cơng cụ quan trọng để Nhà nước thể hiện sự ứng phó nhanh chóng, chủ
động trước khi dịch bệnh xảy ra hoặc trong khi dịch bệnh đang diễn tiến, buộc các
cá nhân, tổ chức phải chấp hành nghiêm túc các mệnh lệnh, quyết định từ phía
chính quyền, phải hợp tác tích cực với các lực lượng phịng chống dịch. Nếu khơng
sử dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính (như buộc khai báo y tế, cách ly y tế,
hạn chế tập trung đông người…) mà chỉ trông cậy vào sự tự giác của các thành viên
trong xã hội thì sự lan tràn của dịch bệnh là điều không tránh khỏi. Bởi không phải
cá nhân nào cũng nhận thức sâu sắc về sự nguy hiểm của dịch bệnh, không phải ai
cũng sẵn sàng hy sinh các thói quen, sở thích hay những lợi ích nhất định của mình
để bảo vệ bản thân và cộng đồng trước nguy cơ dịch bệnh, nhất là trong điều kiện ý
thức về trách nhiệm xã hội của một bộ phận nhân dân còn hạn chế.
Thứ hai, việc áp dụng các biện pháp phịng ngừa hành chính giúp Nhà nước
sớm khơi phục tình trạng bình thường của xã hội trước sự hoành hành của dịch
bệnh.
Khi bệnh truyền nhiễm bùng phát thành dịch bệnh, xã hội rơi vào trạng thái
bất ổn. Nếu sự bất ổn đó khơng sớm được khắc phục, sẽ đem đến hàng loạt những
hệ luỵ đáng tiếc. Thậm chí, những hậu quả của dịch bệnh khơng chỉ ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của con người trong hiện tại mà còn có thể
kéo dài đến tương lai theo chiều hướng tiêu cực với phạm vi tác động rộng lớn –
một khu vực, một quốc gia hay toàn thế giới. Trong bối cảnh đó, việc các chủ thể có

thẩm quyền khẩn trương áp dụng các biện pháp phịng ngừa mang tính hành chính
dựa trên sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, buộc các cá nhân, tổ chức phải chấp
hành vô điều kiện các yêu cầu, mệnh lệnh đơn phương từ phía chính quyền là hoàn
toàn cần thiết. Những biện pháp này rõ ràng mang đến sự bất tiện nhưng giúp ngăn
ngừa sự lây lan của dịch bệnh, góp phần đưa xã hội sớm thốt khỏi tình trạng bất
ổn, hướng đến việc khơi phục trật tự thường nhật của hoạt động quản lý Nhà nước.


22

Thứ ba, việc áp dụng có hiệu quả các biện pháp phịng ngừa hành chính giúp
tiết kiệm nguồn lực quốc gia.
Nguồn lực quốc gia bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực. Việc áp dụng kịp
thời, đúng đối tượng, đúng hồn cảnh các biện pháp phịng ngừa hành chính sẽ ngăn
ngừa sự lây lan của dịch bệnh và các hậu quả của dịch bệnh trên diện rộng, tạo điều
kiện cần thiết cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và lực lượng chun mơn
khống chế, kiểm sốt dịch một cách hiệu quả, qua đó tiết kiệm đáng kể sự tiêu hao
các nguồn lực quốc gia. Chi phí phịng chống dịch bệnh (bao gồm chi phí cho trang
thiết bị y tế, vắc xin, thuốc men, chế độ chi trả cho lực lượng trực tiếp tham gia
phòng chống dịch…) mà đa phần trong đó được trang trải từ ngân sách Nhà nước
thường rất lớn, đặc biệt là với các dịch bệnh mới, diễn biến khó lường, chưa từng có
tiền lệ như COVID-19. Nếu so sánh việc ngăn ngừa để dịch bệnh không phát triển
mạnh mẽ với việc khắc phục hậu quả của dịch bệnh sẽ thấy rõ ràng “phòng bệnh”
tiết kiệm hơn “chữa bệnh”, “chữa bệnh” bao giờ cũng phức tạp, khó khăn và tốn
kém hơn nhiều so với “phịng bệnh”. Đây chính là lý do mà hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều coi trọng việc chủ động phịng ngừa dịch bệnh, trong đó đương
nhiên khơng thể thiếu các biện pháp phịng ngừa hành chính.
1.2.2. Các biện pháp phịng ngừa hành chính chủ yếu trong lĩnh vực phịng
chống dịch bệnh theo pháp luật hiện hành
Các biện pháp phòng ngừa hành chính trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh

khá phong phú, đa dạng. Nếu dựa vào dấu hiệu mục đích, có thể chia chúng thành
hai nhóm chính sau: (i) nhóm các biện pháp phịng ngừa hành chính có mục đích
phịng dịch như: kiểm sốt người, phương tiện vận tải và hành hóa tại biên giới;
cách ly y tế đối với người tiếp xúc và người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm;
tiêu hủy động vật, thực phẩm và các vật khác có nguy cơ làm lây lan bệnh dịch sang
người… và (ii) nhóm các biện pháp phịng ngừa hành chính có mục đích chống dịch
như: cách ly y tế đối với người mắc bệnh truyền nhiễm; trưng dụng các nguồn lực
cho hoạt động chống dịch; cấm người, phương tiện khơng có nhiệm vụ vào ổ dịch;
tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây
truyền bệnh dịch tại vùng có dịch…
Trong khn khổ hạn chế của một khóa luận tốt nghiệp, tác giả chỉ tập trung
phân tích một số biện pháp chủ yếu, tiêu biểu sau đây:
(1) Các biện pháp kiểm sốt người, phương tiện vận tải và hàng hóa tại biên
giới
Kiểm sốt hành chính là hoạt động của các chủ thể theo chức năng và các
chủ thể khác có liên quan nhằm bảo đảm cho hoạt động hành chính Nhà nước diễn


23

ra đúng pháp luật, nói cách khác, đó là sự tổng hợp các phương tiện tổ chức pháp lý
được cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân thông qua các hình thức giám sát,
kiểm tra, thanh tra, kiểm sát tài phán nhằm thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, Nhà nước, xã hội16. Các biện pháp kiểm
soát biên giới liên quan đến phòng ngừa dịch bệnh (gọi tắt là các biện pháp kiểm
dịch y tế biên giới) được quy định tại Điều 9, Điều 10, Điều 16, Điều 17, Điều 24
và Điều 25 Nghị định số 89/2018/NĐ-CP ngày 25/6/2018 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về kiểm
dịch y tế biên giới (Nghị định số 89/2018/NĐ-CP), bao gồm: thực hiện khai báo y
tế, kiểm tra giấy tờ và kiểm tra thực tế đối với người, hàng hóa, phương tiện. Các

hoạt động này có vị trí thực hiện tương đối đặc thù – diễn ra tại cửa khẩu, sân bay
quốc tế, mang tính quyền lực Nhà nước, khơng có sự phân biệt đối xử giữa các cá
nhân, tổ chức nhằm phịng ngừa tình trạng lây lan, bùng phát mạnh mẽ của dịch
bệnh ở phạm vi quốc gia sang khu vực và quốc tế.
Chúng thường được áp dụng khi chưa có vi phạm pháp luật xảy ra nhưng cơ
quan Nhà nước nhận thấy thực tế tình hình dịch bệnh cũng như các yêu cầu về mặt
pháp lý khác đã đáp ứng các điều kiện luật định và đòi hỏi phải có sự kiểm sốt tại
biên giới để có những quyết định đúng đắn, kịp thời trong cơng tác phịng chống
dịch bệnh. Sự tồn tại của các biện pháp này cũng được xem là sự nhắc nhở thường
xuyên đối với các đối tượng kiểm tra về tình hình thực tế và nâng cao ý thức bảo vệ
sức khỏe của cá nhân và cộng đồng.
Một là, biện pháp khai báo y tế17
Biện pháp này được áp dụng khi và chỉ khi đã có “dịch”. Trong vịng 24 giờ,
kể từ khi phát hiện dịch, người mắc bệnh hoặc người phát hiện trường hợp mắc
bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh phải khai báo cho cơ quan y tế gần nhất. Ngay sau
đó, cơ quan y tế phải báo cáo cho Ủy ban nhân dân nơi xảy ra dịch và cơ sở y tế dự
phòng để khẩn trương tổ chức triển khai các biện pháp chống dịch.
Đây là biện pháp được lựa chọn áp dụng trước tiên khi dịch bệnh bùng phát,
nhằm tận dụng nguồn tin, ý thức cộng đồng của mỗi cá nhân để rà soát, truy vết
nhằm hạn chế tối đa khả năng tiếp xúc và lây lan mầm bệnh giữa người với người
qua các quốc gia khác nhau.
Hai là, biện pháp kiểm tra giấy tờ18

16

Hoàng Thu Nga, Trần Hồng Việt (2015), “Vai trị của kiểm tra hành chính trong hoạt động kiểm sốt hành

chính Nhà nước”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, Học viện Hành chính, số 233, tr.45.
17
Điều 47 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019).



24

Đối với người, việc kiểm tra giấy tờ được tiến hành trong những trường hợp
sau:
- Có quyết định cơng bố hoặc thông báo dịch bệnh truyền nhiễm của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền;
- Căn cứ tình hình dịch bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, các bệnh mới nổi,
các bệnh bùng phát hoặc cảnh báo nguy cơ xâm nhập dịch bệnh của cơ quan y tế có
thẩm quyền từ các quốc gia, quốc tế;
- Có sự xuất phát từ hoặc đi đến quốc gia, vùng lãnh thổ mà quốc gia, vùng
lãnh thổ đó quy định bắt buộc phải tiêm chủng hoặc áp dụng biện pháp dự phòng
trước khi xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
Đối với phương tiện vận tải, việc kiểm gia giấy tờ được thực hiện khi:
- Phương tiện vận tải đi qua quốc gia, vùng lãnh thổ có ghi nhận trường hợp
bệnh truyền nhiễm mà Bộ Y tế có yêu cầu phải giám sát;
- Phương tiện vận tải chở người bệnh hoặc người nghi ngờ mắc bệnh hoặc
mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm;
- Phương tiện vận tải chở hàng hóa mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm
hoặc nghi ngờ mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm;
- Phương tiện không thuộc một trong ba trường hợp trên nhưng được giám
sát trong thời gian chờ nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và nhận thấy phương tiện
vận tải có trung gian truyền bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh truyền nhiễm
hoặc không bảo đảm điều kiện vệ sinh chung (bao gồm phát hiện chất thải, chất tiết,
dấu vết của trung gian truyền bệnh; thực phẩm, rác thải sinh hoạt không được thu
gom, bảo quản, xử lý đúng quy định hoặc các khu vực ăn, ở, kho chứa, nhà vệ sinh
không được vệ sinh thường xuyên gây tình trạng nấm, mốc, mùi hơi thối).
Đối với hàng hóa, biện pháp kiểm tra giấy tờ được áp dụng trong trường hợp
hàng hóa có yếu tố nguy cơ hoặc hàng hóa khơng có yếu tố nguy cơ nhưng nghi

ngờ không đảm bảo các điều kiện vệ sinh chung thuộc đối tượng phải tiến hành thủ
tục kiểm tra giấy tờ, bao gồm:
- Hàng hóa vận chuyển qua quốc gia, vùng lãnh thổ có ghi nhận trường hợp
bệnh truyền nhiễm mà Bộ Y tế có yêu cầu phải giám sát;
- Hàng hóa mang hoặc có dấu hiệu mang mầm bệnh, trung gian truyền bệnh
truyền nhiễm;

18

Điều 9, Điều 16, Điều 24 Nghị định số 89/2018/NĐ-CP ngày 25/6/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về kiểm dịch y tế biên giới.


25

- Hàng hóa vận chuyển bằng phương tiện vận tải có yếu tố nguy cơ (phương
tiện vận tải đi qua quốc gia, vùng lãnh thổ có ghi nhận trường hợp bệnh truyền
nhiễm mà Bộ Y tế có yêu cầu phải giám sát; phương tiện vận tải chở người bệnh
hoặc người nghi ngờ mắc bệnh hoặc mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm; phương
tiện vận tải chở hàng hóa mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm hoặc nghi ngờ
mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm);
- Hàng hóa khơng thuộc một trong ba trường hợp trên nhưng được giám sát
trong thời gian chờ nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và phát hiện có trung gian
truyền bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh truyền nhiễm hoặc không bảo đảm
điều kiện vệ sinh chung (bao gồm phát hiện chất thải, chất tiết, dấu vết của trung
gian truyền bệnh; hàng hóa có tình trạng nấm, mốc, mùi hôi thối).
Ba là, biện pháp kiểm tra thực tế19
Việc kiểm tra thực tế được áp dụng với người trong các trường hợp sau:
- Thuộc đối tượng phải tiến hành kiểm tra giấy tờ khi có quyết định cơng bố
hoặc thông báo dịch bệnh truyền nhiễm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; hoặc

khi căn cứ vào tình hình dịch bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, các bệnh mới nổi,
các bệnh bùng phát hoặc cảnh báo nguy cơ xâm nhập dịch bệnh của cơ quan y tế có
thẩm quyền từ các quốc gia, quốc tế; đồng thời bị nghi ngờ mắc bệnh hoặc mang tác
nhân gây bệnh truyền nhiễm;
- Có biểu hiện bất thường liên quan đến sức khỏe hoặc tăng thân nhiệt trong
quá trình giám sát;
- Đi cùng, tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gần (ngồi sát bên cùng hàng ghế
hoặc trước, sau một hàng ghế trên cùng chuyến xe, toa tàu, máy bay, tàu thuyền)
với người có biểu hiện bất thường liên quan đến sức khỏe hoặc tăng thân nhiệt trong
quá trình giám sát.
Đối với phương tiện vận tải, biện pháp kiểm tra thực tế được áp dụng đồng
thời trong mọi trường hợp cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra giấy tờ. Ngoài ra,
các phương tiện vận tải xuất phát hoặc đi qua quốc gia, vùng lãnh thổ ghi nhận có
trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A mà chưa được xử lý y tế; phương
tiện vận tải chở người nghi ngờ, mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A; phương
tiện vận tải chở hàng hóa nghi ngờ mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, trung
gian truyền bệnh thuộc nhóm A; phương tiện vận tải khơng có giấy chứng nhận
miễn hoặc đã xử lý vệ sinh cũng được xác định phải thực hiện thủ tục này.

19

Điều 10, Điều 17, Điều 25 Nghị định số 89/2018/NĐ-CP ngày 25/6/2018 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về kiểm dịch y tế biên giới.


×