BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN DUY HÙNG
HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU DO GIẢ TẠO VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO
KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN DUY HÙNG
HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU DO GIẢ TẠO VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO
GVHD: ThS. ĐẶNG THÁI BÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 NĂM 2022
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả với đề tài khóa luận tốt nghiệp “Hợp đồng giả tạo và hậu quả
pháp lý của hợp đồng giả tạo” xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy Đặng
Thái Bình – Thạc sĩ khoa Luật Dân sự trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong thời gian vừa qua.
Suốt quá trình bốn năm học tập, nghiên cứu những kiến thức từ các giảng viên
chuyên môn, dày dặn kinh nghiệm của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc biệt là Thạc sĩ Đặng Thái Bình, người đã đồng hành cùng tơi trong thời gian nghiên
cứu khóa luận tốt nghiệp, tôi cảm nhận sâu sắc được sự tận tâm từ các thầy cơ. Thầy
Bình là người đã cẩn thận hướng dẫn, chỉnh sửa, cung cấp kiến thức chuyên mơn và động
viên tác giả để có thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp một cách trọn vẹn nhất.
Những kiến thức mà tác giả đã tích lũy được đang và sẽ là những hành trang tốt
nhất để hoàn thiện bản thân khơng chỉ trong khóa luận này mà cịn cho con đường sự
nghiệp cho cuộc sống sau này. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến Trung tâm
Thông tin – Thư viện trường đã tạo một môi trường và điều kiện thuận tiện cho việc
nghiên cứu của tác giả bằng nguồn tài liệu vơ cùng hữu ích.
Cuối cùng, tác giả xin trao những lời cảm ơn yêu thương đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã là những điểm tựa vững vàng cho chính tơi, động viên và cổ vũ tơi trong những
năm tháng qua để tơi có thể hoàn thành chặng đường cuối cùng của con đường tốt nghiệp
đại học.
Dù đơi lúc có những khó khăn, trở ngại về điều kiện hay thiếu sót về kiến thức
nhưng bằng tất cả sự chân thành của mọi người, tác giả đã thật sự nỗ lực hồn thành
cơng trình nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của bản thân mình. Rất mong được sự đón
nhận và góp ý từ các thầy cơ chun mơn để cho tác giả có cơ hội được lắng nghe, tiếp
thu để hoàn thiện hơn những kĩ năng và kiến thức của mình.
Kính chúc Q thầy cơ và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh sẽ luôn
thành công và ngày càng phát triển hơn nữa. Thân ái!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp: “HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO
VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO” là cơng trình nghiên cứu
độc lập của bản thân dưới sự hướng dẫn của thầy Đặng Thái Bình. Những phần sử dụng
tài liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Trong quá trình viết bài có
sự tham khảo một số tài liệu trong và ngồi nước có trích dẫn nguồn và chú thích rõ ràng.
Tơi xin chịu trách nhiệm với lời cam đoan này.
Sinh viên thực hiện
Trần Duy Hùng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM...........................................................................................................................................6
1.1.
Khái niệm hợp đồng giả tạo ............................................................................... 6
1.2.
Đặc điểm của hợp đồng giả tạo ........................................................................ 13
1.2.1.
Hợp đồng giả tạo là trường hợp vô hiệu tuyệt đối ........................................... 14
1.2.2. Hợp đồng giả tạo khơng có sự thống nhất giữa ý chí nội tâm và bày tỏ ý
chí ra bên ngồi ......................................................................................................................... 15
1.2.3.
1.3.
Thường tồn tại ít nhất hai hợp đồng..................................................................... 17
Các trường hợp hợp đồng giả tạo điển hình ..................................................... 19
1.3.1.
Hợp đồng giả tạo về chủ thể .................................................................................. 19
1.3.2.
Hợp đồng giả tạo về nội dung hợp đồng............................................................. 23
1.3.3.
Hợp đồng giả tạo về bản chất hợp đồng ............................................................. 26
1.3.4.
Hợp đồng giả tạo đơn lẻ .......................................................................................... 29
1.4.
Ý nghĩa của quy định về hợp đồng giả tạo ....................................................... 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................................. 34
CHƯƠNG 2. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM ...................................................................................................... 35
2.1. Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ các bên ................ 36
2.2. Khôi phục tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận ................... 38
2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ........................................................................ 42
2.4. Hoàn trả hoa lợi và lợi tức ................................................................................... 47
2.5. Quyền của bên thứ ba ngay tình ......................................................................... 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................................. 53
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
Từ viết tắt
BLDS
GCN
TAND
HĐGT
Từ viết đầy đủ
Bộ luật dân sự
Giấy chứng nhận
Tòa án nhân dân
Hợp đồng giả tạo
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bộ luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng,
tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Trong đó, chế định hợp đồng dân
sự là một hành lang pháp lý quan trọng giúp các chủ thể trong xã hội có thể tự do trao
đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu bản thân. Với tư cách là công cụ cho các bên xác lập,
thực hiện quyền và nghĩa vụ, hợp đồng là “luật chung” điều chỉnh hành vi, ứng xử theo
chuẩn mực mà hai bên đã đặt ra cho đối phương để đảm bảo tính đúng đắn, lợi ích của
giao dịch. Một hợp đồng được xây dựng trên những quy định pháp luật khơng rõ ràng,
thiếu tính đồng bộ, bất cập sẽ khơng phát huy được vai trị của mình và có thể dẫn đến
các tranh chấp gây thiệt hại cho các cá nhân, pháp nhân tham gia giao dịch. Vì vậy, việc
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hướng tới hoàn thiện chế định hợp đồng dân sự nói riêng
hay Bộ luật Dân sự nói chung có thể tạo mơi trường thuận lợi để kinh tế có điều kiện
phát triển, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, góp phần thúc đẩy nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền
của Đảng, Nhà nước và là ý chí của nhân dân.
Với tầm quan trọng như trên, chế định hợp đồng luôn được các học giả tập trung
nghiên cứu theo hướng hoàn thiện hơn. Song những nghiên cứu về chế định hợp đồng
vẫn chưa bao giờ là đủ và xã hội khơng ngừng địi hỏi các quy định pháp luật phải theo
kịp để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới hoặc chưa được giải quyết một cách thỏa đáng.
Trong đó, hợp đồng vơ hiệu do giả tạo và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu do giả tạo
không phải là vấn đề mới xuất hiện nhưng đang có xu hướng lan rộng và được xã hội
quan tâm trong thời gian gần đây đặc biệt trong vấn đề giả tạo để trốn thuế. Lý giải cho
việc này đó là mặc dù chúng ta đã có quy định, cơ chế để điều chỉnh cho vấn đề này
nhưng chưa giải quyết triệt để, cịn khó khăn trong việc xác định các trường hợp giả tạo,
xử lý hậu quả pháp lý của giả tạo…
Ngày nay, khi Việt Nam đang từng bước hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa của
thế giới trên nhiều mặt đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Việc hợp tác với các quốc gia
khác nhất là các quốc gia không cùng chung truyền thống pháp luật sẽ dẫn đến những
điểm bất đồng trong áp dụng pháp luật. Trong các hợp đồng kinh doanh, thương mại với
2
cá nhân, pháp nhân nước ngoài việc viện dẫn để tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo
một cách tùy tiện, bất hợp lý sẽ làm mất niềm tin đối với nhà đầu tư nước ngồi. Nhưng
khơng vì thế mà có tâm lý e ngại, dè dặt tun vơ hiệu đối với các hợp đồng có các dấu
hiệu giả tạo mà phải nghiên cứu tìm ra đúng bản chất giả tạo của hợp đồng. Để chế định
hợp đồng phát huy được hết vai trị của mình, chỉ dừng lại việc bảo đảm quyền dân sự,
quyền tự do thỏa thuận, bảo vệ lợi ích cơng cộng là chưa đủ mà cịn phải phù hợp với
tập qn, thơng lệ quốc tế. Vì vậy, việc tiếp thu, học hỏi các hệ thống pháp luật khác là
xu hướng tất yếu. Trong cơng trình, bên cạnh nghiên cứu các quy định pháp luật Việt
Nam tác giả sẽ tập trung làm rõ định hướng, đường lối giải quyết của Tòa án trong các
tranh chấp liên quan đến HĐGT, thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xử lý HĐGT. Từ
đó, tìm ra được đặc điểm, bản chất, các yếu tố xác định được hợp đồng giả tạo.
Từ những lý do trên tác giả chọn Hợp đồng vô hiệu do giả tạo và hậu quả pháp
lý của hợp đồng giả tạo để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài Hợp đồng giả tạo và hậu quả pháp của HĐGT được các học giả tương đối
quan tâm nghiên cứu trong các cơng trình khoa học của mình. Tuy nhiên, các cơng trình
này khơng giống nhau về đối tượng nghiên cứu chính cũng như phạm vi nghiên cứu đề
tài. Phần lớn các học giả tiếp cận đề tài là một chủ đề nhỏ trong cơng trình của mình.
Ngồi ra, một số các học giả cũng lựa chọn tiếp cận HĐGT với một loại hợp đồng cụ
thể, thường xuyên tranh chấp ví dụ như là hợp đồng vay tài sản giả tạo. Có thể đề cập
đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
Giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo:
- Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Những quy định
chung về luật Dân sự, NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. Đây là cuốn giáo trình
phục vụ nghiên cứu, giảng dạy của trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo
trình tiếp cận vấn đề nghiên cứu trong việc phân tích một cách khái quát các quy định
của BLDS về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo và hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự vơ hiệu nói chung trong đó có trường hợp về giả tạo. Tuy nhiên, mang bản chất là
giáo trình chung nên chưa đi sâu phân tích đặc điểm, dấu hiệu cụ thể của hợp đồng vô
hiệu do giả tạo.
3
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam 1, NXB.
Công an nhân dân. Giáo trình đã trình bày một cách khái quát các quy định pháp luật
liên quan đến giao dịch dân sự vơ hiệu do giả tạo nhưng vì là giáo trình chung nên chưa
đi sâu phân tích các dấu hiệu, đặc trưng của giao dịch dân sự vô hiệu giả tạo. Đồng thời,
tác giả cũng đề cập đến khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương
đối và đưa ra các trường hợp của nó.
- Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án, NXB.
Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. Trong cơng trình này, tác giả đã đưa ra khái niệm
giả tạo trong hợp đồng, phân tích các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng giả tạo.
Đồng thời tác giả cũng cung cấp cho người nghiên cứu các bản án thực tế và bình luận
tính thuyết phục hướng giải quyết của Tòa án nhằm cung cấp chiều sâu về thực tiễn xét
xử cho người đọc.
- Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng – Các vấn đề pháp lý cơ bản,
NXB. Dân Trí. Tác giả tiếp cận mới đối với đề tài khi coi không giả tạo là điều kiện của
hợp đồng chứ không phải xem nó là một trường hợp vơ hiệu của giao dịch dân sự. Tuy
nhiên, khơng dừng lại ở góc độ lý thuyết tác giả cũng liên hệ thực tiễn, đặc biệt với các
lĩnh vực đặc thù chịu sự điều chỉnh của các luật chuyên ngành tác giả đã chỉ ra được các
giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo trong quản lý doanh nghiệp, tài chính, ngân hàng.
- Lê Minh Hùng (2019), Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, NXB. Hồng Đức. Đây là cơng trình ngồi việc phân tích các quy
định pháp luật liên quan đến HĐGT, cơng trình đã tiến hành phân loại các loại giả tạo
trong hợp đồng. Tác giả cũng trình bày một cách khái quát về hậu quả của hợp đồng dân
sự vô hiệu mà chưa đi vào từng cái cụ thể từng hậu quả pháp lý đơn lẻ.
Luận văn, khóa luận:
- Nguyễn Hải Ngân (2014), Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn đã tập trung khai thác các quy định BLDS 2005
về hợp đồng dân sự giả tạo. Tác giả đã đề cập một cách tương đối đầy đủ các vấn đề
xoay quanh hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo như khái niệm, đặc điểm, trường hợp vô
hiệu do giả tạo. Ngoài ra hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo cũng
4
đưa tác đưa vào cơng trình với một cách khái qt nhưng vì khơng phải là trọng tâm của
luận văn nên chưa đi sâu phân tích về hậu quả pháp lý.
- Lê Thị Thanh Nguyên (2019), Hợp đồng giả tạo trong hoạt động cho vay tài sản,
Khóa luận tốt nghiệp. Tác giả trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của Hợp đồng giả
tạo. Từ đó, đưa ra cơ sở xác định để hợp đồng giao kết được xem là giả tạo, giải quyết
hậu quả pháp lý và vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình. Cơng trình đã cung cấp một
cái nhìn từ tổng quát đến chuyên sâu về đặc điểm, tính chất, xác định được Hợp đồng
giả tạo trong hoạt động vay tài sản. Tuy nhiên, vì đây là cơng trình tiếp cận về một loại
hợp đồng cụ thể nên đi sâu vào phân tích các trường hợp hợp đồng giả tạo khác.
3.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng giả tạo: khái niệm, mục đích,
đặc điểm… của loại hợp đồng giả tạo. Từ những vấn đề mang tính lý luận đó, tác giả sẽ
đưa ra các yếu tố giúp các chủ thể có thẩm quyền có thể xác định đúng đắn “yếu tố giả
tạo” của giao dịch. Bên cạnh đó, cơng trình cịn bàn luận về hậu quả pháp lý hợp đồng
giả tạo giúp người đọc có thể hiểu sâu hơn về mục đích của việc tuyên bố hợp đồng vô
hiệu đối với loại hợp đồng giả tạo cũng như là những bất lợi của chủ thể các bên khi giao
kết hợp đồng giả tạo. Với tư cách là một khóa luận tốt nghiệp hy vọng bài viết có thể là
nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho học tập và các nghiên cứu.
4.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
Cơng trình này tập trung nghiên cứu nội dung liên quan đến hợp đồng giả tạo. Cụ
thể nghiên cứu các quy định pháp luật trong Bộ luật Dân sự xoay quanh hai chế định
chính là Giao dịch dân sự và hợp đồng. Tìm ra được bản chất của hợp đồng giả tạo thông
qua khái niệm, đặc điểm và tiến hành phân loại chúng đồng thời lý giải nguyên nhân tại
sao giao dịch dân sự giả tạo thì vơ hiệu và vơ hiệu một cách tuyệt đối. Cơng trình cũng
nghiên cứu hậu quả pháp lý của hợp đồng giả tạo và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng giả tạo.
Để nghiên cứu các đối tượng trên tác giả tập trung khai thác các quy định trong Bộ
luật Dân sự, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự 2015…Ngoài ra,
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cũng là đối tượng để tác giả
có thể nhìn nhận, đánh giá vấn đề pháp lý dưới góc độ thực tiễn. Ngồi ra, tác giả cũng
5
nghiên cứu thêm một số quy định liên quan ở pháp luật nước ngồi để đánh giá tính khả
thi khi áp dụng tại Việt Nam.
5.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu đề tài
Chương 1: Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu tổng hợp như hệ thống
hoá cơ sở lý luận sau, phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật khác nhau,
đặc biệt là phương pháp so sánh luật học. Cơng trình cũng sử dụng phương pháp khoa
học biện chứng để xem xét mối liên hệ tác động qua lại giữa các quy định với nhau, giữa
quy định và cách áp dụng của cơ quan tài phán. Phương pháp khoa học lịch sử nhằm lý
giải nguyên nhân cho sự ra đời cũng như cách thức của quy định. Khóa luận vẫn sẽ khai
thác các kết quả nghiên cứu đã có trước đó, nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập và khách
quan trong nghiên cứu và những đề xuất, kiến nghị của mình.
Chương 2: Ở chương này, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp ở chương 1.
Bên cạnh đó, tác giả ưu tiên dùng phương pháp bình luận án để nhìn nhận, đánh giá vấn
đề dưới góc độ thực tiễn nhằm định hướng giải quyết những bất cập cịn tồn tại.
6.
Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của
khóa luận tốt nghiệp gồm 02 chương:
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO TRONG PHÁP LUẬT DÂN
SỰ VIỆT NAM
CHƯƠNG 2. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO TRONG PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
6
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH HỢP ĐỒNG GIẢ TẠO TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM
HĐGT là một hiện tượng xã hội phức tạp, được hình thành và tồn tại trong một
khoảng thời gian dài, kìm hãm sự phát triển giao lưu dân sự. Để xác định được hợp đồng
giả tạo thì đầu tiên ở Chương 1, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản về hợp
đồng giả tạo như khái niệm, đặc điểm… Sau đó, tác giả sẽ đi sâu vào việc xác định yếu
tố giả tạo trong hợp đồng thơng qua việc phân tích các loại hợp đồng giả tạo điển hình
dựa trên các vụ việc trên thực tế, từ đó đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm giúp việc xác
định, chứng minh “yếu tố giả tạo” của hợp đồng.
1.1.
Khái niệm hợp đồng giả tạo
Trong tiến trình lịch sử lồi người, con người vốn khơng thể tồn tại, phát triển được
đến trình độ văn minh, hiện đại như ngày nay nếu thiếu đi sự trao đổi lợi ích với nhau.
Để ràng buộc các bên thực hiện các cam kết, hợp đồng chính là cơng cụ pháp lý cơ bản
để họ có thể sử dụng để xác lập nhằm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ
trong một giao dịch. Khái niệm hợp đồng được các nhà khoa học nghiên cứu đặt ra ngay
từ những viên gạch đầu tiên trong nền móng xây dựng luật học. Mỗi xã hội ở từng giai
đoạn phát triển thì có những cách hiểu riêng. Ví dụ: Thuật ngữ ‘hợp đồng’ (contractus)
được hình thành từ động từ ‘contrahere’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘ràng buộc’ và
xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN. Trước đó, thì người La
Mã sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán
(sponsio), vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)... 1. Tại Việt
Nam hợp đồng còn được định danh với nhiều tên gọi như “văn tự”, “văn khế”, “khế
ước” hay “hiệp ước” trong cổ luật và trong pháp luật của các chế độ trước. Thậm chí
nhà làm luật cũng định danh cho các giao dịch cụ thể bằng các thuật ngữ như mua, bán,
cho, cầm, cho thuê và vay tài sản2. Đến BLDS 2015, hợp đồng được hiểu là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ dân sự3. Về cơ bản,
dù theo quan điểm nào thì hợp đồng đều giữ nguyên hai bản chất đó là: sự thỏa thuận và
Dẫn theo Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường đại học
Luật TP.HCM, tr. 8.
2
Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 110.
3
Theo Điều 385 BLDS 2015.
1
7
sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. Có ý kiến cho rằng “yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn
gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Khơng có hợp đồng nào mà khơng do thỏa
thuận và khơng có hợp đồng nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận”4. Bản chất thứ
hai của hợp đồng là sự thỏa thuận phải tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên, nghĩa
là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc
làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy5. Hợp đồng bên cạnh là kết quả của
cuộc gặp gỡ và giao lưu ý chí của các bên. Các bên tham gia ràng buộc đó thành “luật”
và tự nguyện thực hiện. Trong hợp đồng, các bên được tự do ý chí nhưng khơng được
xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác. Do vậy, hợp đồng khơng được có hiệu lực một cách đương nhiên mà
phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo Điều 117 BLDS 2015 có 04
điều kiện cơ bản để hợp đồng có hiệu lực: Thứ nhất, là chủ thể có năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Thứ hai, chủ thể
tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện. Thứ ba là mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và cuối cùng là
yêu cầu về mặt hình thức nếu luật chun ngành có quy định. Trong đó, HĐGT là hợp
đồng mà ở đó vừa có sự vi phạm về ý chí tự nguyện của các bên tham gia giao dịch vừa
xâm phạm đến lợi ích công cộng, cộng đồng và người thứ ba. Theo quan điểm của
TANDTC về việc xác định người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện được hiểu là:
các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự
nguyện thoả thuận với nhau về các nội dung của giao dịch mà không bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép từ phía bên kia hoặc của người khác; các bên tự nguyện thỏa thuận các vấn đề
nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình6. Do vậy, ý chí
tự nguyện ở đây cần được hiểu có sự thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí ra bên
ngoài7. Trong HĐGT, các bên đã chủ động phá vỡ nguyên tắc tự nguyện khi thể hiện ý
chí bên ngồi khác với ý chí nội tâm của các bên giao kết thông qua việc xác lập một
Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường đại học Luật
TP.HCM, tr. 13
5
Lê Minh Hùng (2010), tlđd (1), tr. 15.
6
Theo công văn của Toà án nhân dân tối cao số 177/2002/KHXX ngày 5 tháng 12 năm 2002 về việc xác định sự
tự nguyện của đương sự trong giao dịch dân sự.
7
Phạm Công Lạc (1998), Ý chí trong giao dịch dân sự, Tạp chí luật học, số 5/1998, tr. 7.
4
8
hợp đồng nhằm che giấu một hợp đồng khác hoặc ngụy tạo ra một hợp đồng khơng có
thực nhằm trốn tránh nghĩa vụ thứ ba.
Trong chế định hợp đồng, không có quy định liên quan đến khái niệm của HĐGT.
Theo quy định tại Điều 116 BLDS 2015, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự. Do vậy,
về nguyên tắc những quan hệ mà chế định hợp đồng không điều chỉnh thì quay lại áp
dụng các quy định chung của giao dịch dân sự. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong
khoản 1 Điều 407 BLDS 2015: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến
Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”. HĐGT lần đầu
tiên được xuất hiện trong BLDS 1995 tại Điều 138 như sau: “Khi các bên xác lập giao
dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vơ
hiệu, cịn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô
hiệu theo quy định của Bộ luật này; nếu giao dịch được xác lập khơng nhằm mục đích
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên, thì giao dịch đó cũng bị coi là vơ hiệu”.
BLDS 2005 đã có sự sửa đổi, bổ sung khi lược bỏ đi dòng: “nếu giao dịch được xác lập
khơng nhằm mục đích làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên, thì giao dịch đó cũng
bị coi là vơ hiệu” và bổ sung thêm “Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm
trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vơ hiệu.” Việc sửa đổi, bổ sung
theo BLDS 2005 là hợp lý. Bởi lẽ mục đích khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ hợp
đồng là thuộc tính cố hữu của HĐGT. Khi chứng minh được HĐGT che giấu một hợp
đồng khác thì đã có đủ căn cứ để tuyên bố giao dịch là vô hiệu nên việc xét đến mục đích
của các bên là khơng cần thiết, quy định thêm hậu quả pháp lý vô hiệu của giao dịch xác
lập khơng nhằm mục đích làm phát sinh nghĩa vụ của các bên làm điều khoản thêm phức
tạp, khó hiểu mà khơng giải quyết được vấn đề pháp lý đặt ra trong thực tiễn.Bên cạnh
đó, việc bổ sung thêm hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Về mặt thực tiễn, đây
là cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể khi cơ quan tài phán có thể viện dẫn trực tiếp quy định
trong trường hợp giao dịch giả tạo được tạo ra nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với
bên thứ ba, đặc biệt là với nhà nước mà không cần chứng minh giao dịch này che giấu
một giao dịch khác. Về mặt lý luận, quy định trên đã theo hướng thừa nhận rằng HĐGT
có thể tồn tại độc lập mà không che giấu một hợp đồng khác. Theo Điều 124 BLDS 2015
thì: “1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
9
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch dân sự bị che giấu
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này
hoặc luật khác có liên quan. 2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”. Về cơ bản, BLDS
2015 kế thừa nội dung quy định của BLDS 2005. Tuy nhiên, BLDS 2015 có sự thay đổi
khi quy định tách biệt 2 khoản riêng biệt và bổ sung thêm “trừ trường hợp giao dịch đó
cũng vơ hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”. Đây là điều
khoản quét nhằm dự liệu và thống nhất với những trường hợp vơ hiệu khác do luật
chun ngành điều chỉnh. Ví dụ: Theo khoản 2 Điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
thì thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng sẽ bị vô hiệu nếu
nhằm mục đích trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ được liệt kê.
Mặc dù đã được ghi nhận từ rất sớm tại BLDS 1995 và trải qua nhiều lần chỉnh lý,
bổ sung nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thức trong BLDS 2015 của
HĐGT hay giao dịch dân sự giả tạo. Trong từ điển Tiếng Việt, giả tạo được hiểu là khơng
thật vì được hình thành một cách không tự nhiên8. Cách hiểu trên chưa đánh giá được
đầy đủ về mặt bản chất, chính xác về mặt nội hàm của thuật ngữ giả tạo trong hợp đồng.
Bởi lẽ, HĐGT là hợp đồng không phản ánh được ý chí của hai bên nhưng được cơng
khai, bộc lộ ra bên ngồi nhằm cơng bố thơng tin sai lệch “ý chí thực” của các bên trong
hợp đồng hay một hợp đồng khơng có thật nhằm trốn tránh nghĩa vụ. Theo một số tài
liệu, “giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngồi
khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia giao dịch”9. Có ý kiến
lại cho rằng: “Giao dịch dân sự xác lập do sự giả tạo là những giao dịch xác lập khơng
đúng với ý chí của chủ thể, các chủ thể biết giao dịch đó là khơng đúng với thực tế nhưng
vẫn tham gia”10. Như vậy, trong khoa học pháp lý đã có sự thống nhất tương đối về cách
hiểu giao dịch dân sự giả tạo. Trong đó, giao dịch dân sự có nội hàm là khơng có thực,
khơng thể hiện đúng với ý chí thực sự của các bên giao kết và kết quả thực hiện giao
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 384.
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2001), Bình luận khoa học BLDS Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 280.
10
Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) (2016), Bình Luận Khoa Học BLDS của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam năm 2015, Nxb.Tư Pháp, tr. 194.
8
9
10
dịch trên thực tế. Tuy nhiên, khơng phải hình thức tồn tại của HĐGT là duy nhất mà dựa
trên các nội hàm đó, HĐGT tồn tại dưới hai hình thức sau11:
- Hợp đồng giả cách là HĐGT được xác lập nhằm che giấu một hợp đồng khác
nghĩa là tồn tại song song hai hợp đồng. Hợp đồng giả cách chỉ là hình thức bên ngồi
chứ khơng có giá trị đối với các bên. Hợp đồng thật bị che giấu đi, nhưng đó mới là hợp
đồng mà các bên muốn xác lập, thực hiện. Hợp đồng giả cách thì đương nhiên vơ hiệu.
Hợp đồng thật có thể được cơng nhận, nếu tuân thủ các điều kiện do luật quy định.
- Hợp đồng tưởng tượng là hợp đồng khơng có thật trên thực tế mà do các bên
thông đồng lập ra nhằm để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý cịn thiếu sót, hoặc để che
đậy một sự thật khác trái pháp luật, hoặc trái đạo đức xã hội. Nói cách khác, hợp đồng
tưởng tượng là hợp đồng mang tính hình thức, chứ các bên hồn tồn khơng có ý định
tạo lập nên sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên nội dung của hợp đồng đó.
Về thực tiễn, khơng ít các trường hợp các cá nhân, pháp nhân tranh chấp liên quan
đến việc xác lập HĐGT. Đơn cử như tranh chấp giữa ông Trần Văn A và ông Nguyễn
Thế B về hợp đồng ủy quyền giả tạo và công nhận hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực.
Nội dung sự việc: Ngày 02-11-2017, ơng Trần Văn A có làm hợp đồng chuyển nhượng
tồn bộ diện tích 690m thuộc thửa 129, tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại xã X, huyện Z, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu (theo GCN quyền sử dụng đất số AB của UBND huyện Z cấp ngày
11-4-2005) cho ông Nguyễn Thế B; giá chuyển nhượng là 250.000.000 đồng. Ngay sau
khi ký hợp đồng, ông A đã nhận cọc của ông B số tiền 70.000.000 đồng, số tiền
180.000.000 đồng cịn lại sẽ thanh tốn khi ra cơng chứng sang tên trong hạn 01 tháng.
Đến ngày 30-11-2017, ông A và ơng B đến Văn phịng Cơng chứng làm thủ tục ủy quyền
cho ông B được quyền định đoạt diện tích 690 m2 thuộc thửa 129, tờ bản đồ số 03, tọa
lạc tại xã X, huyện Z, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Việc ông A làm ủy quyền cho ông B là
đảm bảo cho mục đích chuyển nhượng. Do ơng B khơng có tiền thanh tốn cho ơng A,
nên ông A không giao hợp đồng ủy quyền bản chính cho ông B, mà cho ông B trong 01
tháng thanh tốn hết tiền thì sẽ giao hợp đồng ủy quyền cho ơng B. Vì đang nợ tiền của
bà Nguyễn Thị H (bà S) nên ông A giao hợp đồng ủy quyền ngày 30-11-2017 cho bà S
giữ tại Văn phịng cơng chứng. Vào đầu tháng 02 năm 2018, ông B đã đến nhà bà H yêu
11
Lê Minh Hùng (2010), tlđd (1), tr. 46.
11
cầu lấy hợp đồng ủy quyền. Lúc ông B lấy hợp đồng ủy quyền từ bà H thì khơng có sự
đồng ý của ơng A. Sau đó, ơng A khởi kiện ra Tịa án thì phát hiện ơng B đã làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 129, tờ bản đồ số 03, có diện tích 690 m2 tọa lạc
tại xã X, huyện Z, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cho bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn D.
TAND thị xã Q đã xét xử chấp nhận yêu cầu tuyên Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 30-112017 giữa ông Trần Văn A và ông Nguyễn Thế B do bị vô hiệu do giả tạo12. Trong trường
hợp này, mặc dù các bên có ý chí là xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nhưng vì mục đích trốn thuế, các bên thỏa thuận thay đổi bản chất hợp đồng từ việc
chuyển nhượng (có sự chuyển giao quyền sở hữu) thành hợp đồng ủy quyền (khơng có
sự chuyển giao quyền sở hữu). Đây chỉ là một trong nhiều trường hợp giao dịch giả tạo
khác có thể kể đến như: hợp đồng chuyển nhượng giả tạo che giấu hợp đồng vay13, hợp
đồng mượn nhà giả tạo che giấu hợp đồng thuê nhà14, giao dịch đứng tên giùm bất động
sản15...Như vậy, quy định về HĐGT là quy định mang tính truyền thống của pháp luật
dân sự khi được ghi nhận xuyên suốt các BLDS. Theo quan điểm tác giả, về mặt nhận
thức hiện tượng HĐGT đã được nghiên cứu, xây dựng một cách tương đối đầy đủ và chi
tiết. Tuy nhiên, về mặt đường lối xử lý là chưa thỏa đáng – nguyên nhân cho sự tồn tại
và phổ biến rộng rãi giao kết HĐGT trong xã hội.
Không chỉ riêng Việt Nam, một số hệ thống pháp luật nước ngoài, trong đó có thể
kể đến như pháp luật dân sự Đức cũng quy định về HĐGT. Theo quy định tại Điều 117
BLDS Đức: (1) Nếu một tuyên bố về ý chí được đưa ra cho một người khác, với sự đồng
ý của người đó, chỉ được đưa ra nhằm mục đích thể hiện hình thức, thì điều đó sẽ vơ
hiệu. (2) Nếu một giao dịch giả tạo che giấu một giao dịch hợp pháp khác, các quy định
Bản án 43/2019/DS-PT ngày 03/05/2019 về tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của TAND tỉnh VT.
13
Bản án số: 22/2019/DS-ST ngày: 27/5/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản của Tòa án nhân dân huyện Đ
tỉnh G. Tòa án đã xác định hai bên đã xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để làm tin cho hợp đồng
vay tài sản. Từ đó, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu do giả tạo.
14
Bản án số 140/2019/DS-PT ngày 28-02-2019 về việc tranh chấp về hợp đồng cho mượn nhà, tranh chấp hợp
đồng cho thuê nhà, yêu cầu hủy văn bản cơng chứng vơ hiệu của Tịa án nhân dân thành phố H. Tòa án nhận định
các bên đã giao kết hợp đồng thuê nhà và tài liệu, chứng cứ trong vụ án cũng thể hiện “ý chí” các bên là thuê nhà.
Nhưng trong thực tế các bên còn giao kết hợp đồng mượn nhà (có cơng chứng). Từ đó xác định các bên giao kết
hợp đồng mượn là là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng thuê nhà nên bị vô hiệu.
15
Bản án 78/2019/DS-PT ngày 19/06/2019 về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và hủy quyết định cá biệt của
Tòa án nhân dân cấp cao Thành phố N. Tranh chấp liên quan đến việc nguyên đơn nhờ bị đơn đứng tên hộ GCn
quyền sử dụng đất thông qua một hợp đồng tặng cho và có lập văn bản thỏa thuận về đứng tên hộ nhưng bị đơn vi
phạm cam kết khơng chịu trả lại nhà đất. Tịa án đã xác định hợp đồng tặng cho vô hiệu do giả tạo.
12
12
áp dụng cho giao dịch ẩn sẽ được áp dụng16. Ngồi ra, quy định về HĐGT cịn được tìm
thấy trong một số văn bản khác của hệ thống pháp luật Đức. Cụ thể, theo Mục 42 của Bộ
luật Thủ tục Thuế Liên bang Đức đề ra quy tắc chống trốn tránh thuế nói chung của Đức.
Nội dung của nguyên tắc là mọi người đóng thuế có thể u cầu cơng việc của mình sao
cho nghĩa vụ thuế của họ càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, điều này không cho phép các
ảnh hưởng về thuế của bất kỳ thỏa thuận pháp lý nào cấu thành sự lạm dụng quyền17. Về
nguyên tắc điều luật này cho phép các cá nhân, tổ chức có thể xoay sở, điều chỉnh hợp
lý cơng việc của mình nhưng khơng được phép thao túng hoặc bóp méo thực tế kinh tế
của một giao dịch. Việc thao túng hoặc bóp méo như vậy là hành vi tránh thuế và bị
chống lại bởi học thuyết của “Rechtsmissbrauch18”19. Tuy nhiên, các Tịa án Đức tương
đối khó khăn khi xác định các thỏa thuận có dấu hiệu của sự lạm dụng quyền.
Có thể đề cập đến phán quyết của Tịa án tài chính Liên bang Đức ngày 19 tháng 6
năm 1991 liên quan đến HĐGT trốn thuế bằng việc cho thuê lại lẫn nhau các tòa chung
cư. Nội dung vụ việc như sau: A đã ký hợp đồng mua một căn hộ tự do ba phòng ở thành
phố vào ngày 4 tháng 2 năm 1982. Đồng nghiệp của anh ta là B, đã mua một căn hộ khác
trong cùng một khu nhà. Họ đã ký kết hai hợp đồng thuê song phương. Theo hợp đồng
thuê đầu tiên, A để nguyên căn hộ của mình cho B với thời hạn hợp đồng là bốn năm. B
đã trả tiền thuê nhà hàng tháng nhưng khơng sống trong căn hộ đó mà sống ở một thành
phố khác trong thời gian đó. Theo hợp đồng thuê thứ hai, A đã thuê hai phòng trong căn
hộ của B trong thời hạn bốn năm giống hệt nhau. Căn phòng thứ ba được thuê bởi một
đồng nghiệp khác, C. Khi lực lượng chức năng vào cuộc khi có sự nghi ngờ cho cho rằng
16
Section 117. Sham transaction
(1) If a declaration of intent that is to be made to another person is, with his consent, only made for the sake of
appearance, it is void.
(2) If a sham transaction hides another legal transaction, the provisions applicable to the hidden transaction apply.
17
John Prebble and Partner (2008), Abus de droit and the general antiavoidance rule of income tax law: a
comparison of the laws of seven jurisdictions and the European communit [Tạm dịch là: Lạm dụng quyền và
nguyên tắc chống trốn thuế chung: Một sự so sánh về pháp luật của bảy quyền tài phán và cộng đồng Châu âu],
Working paper series no 56. 2008, tr.5.
18
Rechtsmissbrauch (lạm dụng quyền) là một học thuyết pháp lý dân sự Đức. Tác dụng của học thuyết lên BLDS
Đức là hạn chế việc thực hiện các quyền tư nhân một cách chung chung, một điều không được thấy tương tự trong
các khu vực tài phán của Common Law. Thông luật cho phép mọi người thực thi các quyền hợp pháp nghiêm ngặt
của họ, ngay cả khi kết quả có thể khơng cơng bằng đối với những người khác. Ngược lại, các hệ thống Luật Dân
sự theo truyền thống đã đóng khung các quyền một cách chung chung. Ví dụ theo Điều 242 BLDS Đức thì: “Việc
thực hiện một quyền khơng được phép nếu mục đích khả thi duy nhất của quyền đó là gây ra thiệt hại cho quyền
khác.”
19
John Prebble and Partner (2008), tlđd (17), tr.5.
13
đây là các thỏa thuận lạm dụng quyền để trốn thuế cụ thể là giá trị thuê nhà chênh lệch
giữa hợp đồng thứ nhất và hợp đồng thứ hai. A mặc dù đã cho thuê căn nhà theo hợp
đồng thứ nhất nhưng phải chi trả cho tiền thuê nhà cao hơn dẫn đến thiệt hại trong thu
nhập và theo pháp luật về thuế anh ta phải được khấu trừ từ các nguồn khác.
Trong vụ việc này, Tịa án Tài chính đã ghi nhận các khoản chi phí liên quan đến
thu nhập vượt quá từ việc cho thuê và cho thuê bị khiếu nại. Hợp đồng thuê nhà trên đã
có hiệu lực pháp luật và đã được thực hiện trên thực tế. Nó khơng phải là một giao dịch
giả tạo. Vụ việc sau đó được kháng cáo lên tịa án tài chính Liên Bang20. Tịa án đã lập
luận cho rằng anh A và anh B đã xác lập HĐGT với hình thức là cho thuê lẫn nhau nhằm
mục đích trốn thuế với các lập luận sau: Thứ nhất, theo điều kiện thông thường một bên
sẽ không cho thuê căn hộ của mình đồng thời thuê căn hộ tương tự của người khác trong
cùng khu nhà và sau đó khơng chiếm hữu, sử dụng tài sản thuê. Thứ hai, mục đích duy
nhất các bên làm là khai báo thu nhập và thiệt hại cho cơ quan thuế để được hưởng lợi.
Thứ ba, sự cho phép lẫn nhau thuê nhà thể hiện ý chí các bên đã xây dựng mục đích trốn
thuế. Và từ các lập luận cơ bản trên, Tòa án kết luận có sự lạm dụng quyền các thỏa
thuận pháp lý, kết quả là người đóng thuế nợ thuế theo mức tính tốn dựa trên điều kiện
nếu anh ta sử dụng các thỏa thuận pháp lý thích hợp. Như vậy, trong quan điểm xác định
HĐGT của Tịa án trên có một điểm xem xét rất thú vị đó là cân nhắc yếu tố “điều kiện
thông mại thông thường”. Theo tác giả đây là một cách chứng minh vô cùng thuyết phục
điều kiện này được hiểu rằng nếu một người bình thường trong một số trường hợp khơng
làm như vậy. Ví dụ: khi một cá nhân đang nợ một khoản tiền lớn khơng thể nào có thể
tặng cho tài sản của mình cho người thân.
Tóm lại, từ các phân tích trên, theo tác giả, có thể hiểu HĐGT là hợp đồng được
thiết lập mà trong đó thể hiện ý chí ra bên ngồi khác với ý chí nội tâm và kết quả thực
hiện trên thực tế được thể hiện dưới dạng hợp đồng giả cách hoặc hợp đồng tưởng tượng.
1.2.
Đặc điểm của hợp đồng giả tạo
Xét về khía cạnh hậu quả pháp lý, HĐGT thì bị vơ hiệu. Do đó, HĐGT mang một
số đặc điểm của hợp đồng vơ hiệu nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên nhân cũng
20
Bundesfinanzhof Urt. v. 19.06.1991, Az.: IX R 134/86, (Nguồn: Truy cập ngày 18/06/2022)
14
như bản chất vơ hiệu của hợp đồng thì HĐGT mang một số đặc điểm riêng biệt giúp
phân biệt với một số trường hợp vô hiệu khác. Theo tác giả, các đặc điểm đó là:
1.2.1.
Hợp đồng giả tạo là trường hợp vô hiệu tuyệt đối
“Vô hiệu tuyệt đối” và “vô hiệu tương đối” là các học thuyết pháp lý được các học
giả Việt Nam thừa nhận trong nghiên cứu, giảng dạy và dần được các nhà lập pháp thừa
nhận qua các BLDS. Mặc dù không xuất hiện dưới dạng quy định cụ thể nhưng đã ít
nhiều ảnh hưởng đến việc sắp xếp, cũng như nội dung quy định các trường hợp vơ hiệu.
Theo một tác giả thì “vơ hiệu tuyệt đối” và “vô hiệu tương đối” là hai khái niệm rất quan
trọng trong ngành khoa học luật Dân sự. Chúng là công cụ không thể thiếu được trong
việc nghiên cứu bản chất của giao dịch dân sự cũng như trong việc giải quyết các vấn đề
có liên quan đến thủ tục tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu21. Cách thức phân loại
một giao dịch hay hợp đồng rơi vào trường hợp vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối
dựa trên nguyên nhân vô hiệu xuất phát từ xâm phạm lợi ích cơng hay lợi ích tư của nó.
Như đề cập ở trên, HĐGT khơng chỉ xâm phạm đến các lợi ích cá nhân, pháp nhân mà
cịn xâm phạm đến lợi ích cơng cộng, lợi ích quốc gia, dân tộc. Có ý kiến cho rằng: “Vơ
hiệu tuyệt đối có các dấu hiệu sau: chế tài vơ hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi cơng cộng; Sự
vơ hiệu có thể được nại ra bởi bất kỳ người nào có một quyền lợi thực tế và hiện tại trong
việc nại ra đó, có nghĩa là bất kỳ ai có liên quan tới sự hô hiệu; Hợp đồng vô hiệu tuyệt
đối không thể xác nhận lại được và vô hiệu tuyệt đối phải được quy định rõ ràng bởi
luật”22.
Có thể nói rằng HĐGT theo một cách nào đó tồn tại để chống lại trật tự quan hệ xã
hội mà các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hay nhằm mục đích xâm phạm đến
lợi ích cá nhân, cộng đồng khác. Do vậy, HĐGT rơi vào trường hợp vô hiệu tuyệt đối và
vơ hiệu một cách đương nhiên. Thơng thường, Tịa án chỉ xem xét giải quyết đối với các
yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, để bảo vệ trật tự công ngay cả khi khơng có u cầu
Tịa án vẫn có thể tun bố HĐGT là vơ hiệu23. Bên cạnh đó, theo khoản 3 Điều 132
BLDS 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu đối với trường
Bùi Đăng Hiếu (2001), Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vơ hiệu tương đối, Tạp chí luật
học, số 05/2001, tr. 37.
22
Ngơ Huy Cương (2013), Giáo trình luật hợp đồng (Phần chung), NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 354.
23
Ngô Huy Cương (2013), tlđd (22), tr .354
21
15
hợp vô hiệu tuyệt đối (do giả tạo hay vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
không) bị hạn chế. Thời hiệu vốn dĩ được quy định nhằm bảo vệ tính ổn định của quan
hệ dân sự và bảo vệ chủ thể tham gia khỏi trạng thái tâm lý lo lắng vì tranh chấp có thể
xảy ra bất cứ lúc nào cho nên hết thời hiệu khởi kiện luật định thì người cho rằng mình
bị xâm phạm quyền và lợi ích mất quyền khởi kiện. Nhưng đây là trường hợp vô hiệu
tuyệt đối, xâm phạm đến lợi ích công nên về mặt lý luận cũng như quy định pháp luật
đều áp dụng không hạn chế thời hiệu. Theo tác giả, nếu áp dụng một cách máy móc quy
định thời hiệu khởi kiện có thời hạn 2, 3 hay thậm chí 10 năm đối với HĐGT là khơng
đảm bảo được tính đầy đủ, tồn diện của pháp luật và cổ súy cho hành vi xác lập HĐGT.
Do vậy, quy định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố HĐGT khơng bị hạn chế là hồn
tồn hợp lý24.
Như vậy, đối với HĐGT do mang các đặc điểm của giao dịch dân sự vơ hiệu tuyệt
đối nên khi Tịa án giải quyết vụ việc nếu chứng minh được hợp đồng là giả tạo thì có
thể tun bố vơ hiệu mà khơng phụ thuộc vào ý chí của các đương sự.
1.2.2. Hợp đồng giả tạo khơng có sự thống nhất giữa ý chí nội tâm và bày tỏ
ý chí ra bên ngồi
Theo Điều 385 BLDS 2015 thì “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Thông qua công cụ pháp lý là
hợp đồng các bên thiết lập quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam
kết, thỏa thuận. Sự tự do ý chí của các bên được đặt trong khn khổ nhất định và khn
khổ này chính là ý chí của nhà nước. Nhà nước nhằm bảo vệ trật tự xã hội cũng như tính
ổn định, phát triển của quan hệ dân sự mà yêu cầu các bên bên phải thỏa thuận không vi
phạm điều cấm của luật và đạo đức xã hội. Nếu như ý chí là động lực, nguyên nhân của
hành vi thì muốn thể hiện ra bên ngồi ý chí phải được tồn tại dưới dạng hình thức nhất
định. Đến BLDS 2015 các nhà làm luật đã có một cách tiếp cận mới đối với điều kiện
hình thức của hợp đồng. Về cơ bản, hợp đồng vi phạm về điều kiện hình thức trong
trường hợp luật định thì bị vô hiệu, tuy nhiên BLDS 2015 đã quy định một số trường
hợp ngoại lệ khi vi phạm điều kiện hình thức nhưng không bị vô hiệu25. Quy định trên
24
25
Khoản 3 Điều 132 BLDS 2015.
Điều 129 và khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 quy định các trường hợp ngoại lệ đó là:
16
nhằm hướng đến việc tơn trọng ý chí của các bên, thể hiện rằng pháp luật chỉ can thiệp
vào hợp đồng của các bên khi thực sự cần thiết. Theo một tác giả, việc tiếp cận theo
hướng này xây dựng được một “cơ chế pháp lý vừa linh hoạt, vừa chặt chẽ để buộc bên
khơng thiện chí phải thực hiện đúng cam kết của mình, giảm thiểu rủi ro pháp lý cho bên
thiện chí khơng muốn phá vỡ hợp đồng”.26
Xét về yếu tố tự nguyện trong hợp đồng, có quan điểm cho rằng tự nguyện cần
được hiểu phải có sự tự do về “ý chí”, “bày tỏ ý chí” và có sự thống nhất giữa “ý chí”
với sự “bày tỏ ý chí”. Thiếu một trong “tự do ý chí” và “sự bày tỏ ý chí” hoặc phá vỡ
tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ khơng có sự tự nguyện27. Lúc này, giao kết
hợp đồng mà thiếu đi yếu tố tự nguyện, các bên khơng cịn được thể hiện đúng ý chí đích
thực của mình hoặc hoặc khơng có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý
chí của chính chủ thể đó ra bên ngồi28. Trường hợp khơng thể hiện đúng ý chí đích thực
có thể vơ hiệu được quy định trong BLDS 2015 là: Trường hợp hai bên xác lập hợp đồng
nhầm lẫn, hợp đồng được xác lập do bị lừa dối, hợp đồng xác lập do bị cưỡng ép, đe dọa,
hợp đồng xác lập trong lúc chủ thể không nhận thức hoặc làm chủ hành vi. Còn lại nếu
các bên chủ động phá vỡ sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí ra bên ngồi thì hợp
đồng bị coi là giả tạo29. Trong HĐGT, các bên thể hiện ra bên ngồi các thơng tin trong
hợp đồng trái với ý chí thực sự của các bên giao kết. Đó có thể là thơng tin về chủ thể
hợp đồng, nội dung quyền, nghĩa vụ hợp đồng, thậm chí là làm sai lệch đi mục đích thực
sự mà các bên giao kết. Tuy nhiên, không phải mọi thông tin “không thật” đều cấu thành
trường hợp vô hiệu do giả tạo. Chỉ những hợp đồng mà ở đó các bên có sự thơng đồng
với nhau trong q trình thương thảo cùng nhau thống nhất xác lập HĐGT với nhiều
- Hợp đồng đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà
một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc
các bên, Tòa án ra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó.
- Hợp đồng đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các
bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên khơng phải thực
hiện việc công chứng, chứng thực.
- Hợp đồng đã được xác lập vi phạm quy định về điều kiện hình thức nhưng sau hai năm các bên khơng u cầu
Tịa án tun bố vơ hiệu thì giao dịch phát sinh hiệu lực.
26
Nguyễn Hồng Hải (2018), Một số vấn đề về hợp đồng vô hiệu trong pháp luật tư hiện hành của Việt Nam, Nguồn:
Truy cập 18/06/2022)
27
Phạm Công Lạc (1998), Ý chí trong giao dịch dân sự, Tạp chí luật học, số 5/1998, tr. 7.
28
Lê Minh Hùng (2010), tlđd (1), tr. 45-46.
29
Phạm Công Lạc (1998), tlđd (25), tr. 9.
17
mục đích khác nhau như: thực hiện hành vi trái pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ thứ ba, tẩu
tán tài sản... thì mới cấu thành một giao dịch giả tạo. Ví dụ: A hỏi mượn B một số tiền.
Sau đó A và B xác lập đồng thời hai giao dịch. Giao dịch thứ nhất là hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và giao dịch thứ hai là hợp đồng vay tài sản. Để xác định các
bên có đang xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giả tạo nhằm che giấu
hợp đồng vay hay khơng thì phải xét đến các bên có thơng đồng hay nói cách khác là
biết, nhận thức được đang sử dụng hợp đồng chuyển nhượng như một biện pháp bảo đảm
cho khoản vay. Trong trường hợp các tài liệu chứng cứ chứng minh rằng các bên có sự
thống nhất về việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm che giấu
hợp đồng vay thì xác định đây là HĐGT. Trường hợp mà có căn cứ cho rằng các bên
khơng có sự thơng đồng thì tùy trường hợp mà cơng nhận hiệu lực hợp đồng hoặc xử lý
do các bên không thể hiện được ý chí đích thực do bị lừa dối, nhầm lẫn, xác lập trong
lúc không nhận thức hoặc làm chủ hành vi...
Như vậy, ý chí tự nguyện được thống nhất bởi tự do ý chí và bày tỏ ý chí ra bên
ngồi. Khi các bên trong hợp đồng chủ động làm sai lệch đi ý chí thực sự giao kết có
nghĩa là đang phá vỡ nguyên tắc tự nguyện trong hợp đồng. Hợp đồng giả tạo là kết quả
của việc thể hiện ý chí bên ngồi khác với ý chí nội tâm của các bên giao kết, nghĩa là
khơng có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó
ra bên ngồi. Điều này giúp phân biệt hợp đồng giả tạo với các trường hợp vô hiệu khác
không thể hiện ý chí thực khi giao kết như đã phân tích trên.
1.2.3.
Thường tồn tại ít nhất hai hợp đồng
Trong giao lưu dân sự, khi ý chí giao kết của các bên có sự gặp gỡ đi đến thống
nhất thì thể hiện thông qua một hợp đồng. Hợp đồng này đảm nhiệm vai trị là “luật” có
nhiệm vụ điều chỉnh hành vi, xử sự giữa các bên. Giao dịch này có ý nghĩa khơng chỉ
dừng lại về mặt hình thức mà còn cả về nội dung. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên
HĐGT được xác lập khơng nhằm mục đích thực hiện mà là hình thức bộc lộ ra bên ngồi
cho nên ý chí nội tâm của các chủ thể tham gia hợp đồng phải được cụ thể hóa bằng một
giao dịch khác để trao đổi lợi ích giữa các bên. Điều này là dễ hiểu bởi cá nhân, pháp
nhân trong q trình giao lưu dân sự ln hướng đến việc hi sinh lợi ích mình tạo ra bằng
một lợi ích khác tương đương. Sự trao đổi này được thể hiện thông qua hợp đồng thể
18
hiện ý chí đích thực của các chủ thể tham gia gia giao kết. Bằng cách tiếp cận đó, BLDS
2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu
một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch dân sự bị
che giấu vẫn có hiệu lực.” Ví dụ: mục đích giao kết của các bên là chuyển nhượng quyền
sử dụng đất. Thông thường, các bên chỉ lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, vì để trốn tránh nghĩa vụ thuế, các bên đã xác lập thêm hợp đồng ủy quyền
định đoạt tài sản. Như vậy, các bên đã xác lập HĐGT bằng cách thay đổi bản chất giao
dịch mà các bên hướng đến.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp giả tạo đều xuất hiện hai hợp đồng mà có
cá biệt. Theo khoản 2 Điều 124 BLDS 2015 thì: “Trường hợp xác lập giao dịch dân sự
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vơ hiệu”.
Theo đó, HĐGT cịn được xác lập và thể hiện dưới dạng duy nhất một hợp đồng. Đây là
hợp đồng khơng có thật trên thực tế mà chỉ do các bên xác lập ra nhằm mục đích tượng
trưng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ. Việc xác lập HĐGT nhằm thực hiện nhiều
mục đích khác nhau nhưng thực tiễn cho thấy nhiều nhất rơi vào trường hợp nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Ví dụ: Ơng T có chơi hụi do bà L đứng ra làm chủ. Sau
khi phát sinh tranh chấp, vợ chồng ông T khởi kiện bà L ra Tòa án nhân dân thành phố
M. Tịa án sau đó tun bà L có nghĩa vụ thanh tốn cho vợ chồng ơng T với số tiền hơn
380 triệu đồng. Tuy nhiên, khi xác minh điều kiện thi hành án thì được biết bà L đã
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Q và bà T’. Tòa án nhận định thời điểm
chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau ngày Tòa án đã thụ lý vụ án khởi kiện là minh
chứng cho việc bà L biết về việc khởi kiện nợ tiền hụi. Các bên trong hợp đồng chuyển
nhượng không thỏa thuận về tài sản trên đất trong khi đó có cả nhà ở gắn liền trên đất
(nội dung quan trọng của hợp đồng chuyển nhượng) nên hợp đồng chưa thỏa mãn về mặt
nội dung. Bên cạnh đó, hợp đồng có giá chuyển nhượng chênh lệch khá cao so với giá
thực tế trong khi đó bà L biết bản thân mình đang nợ người khác. Từ đó, Tịa tun bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu do trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba30.
Bản án số 13/2021/DS-ST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về việc: Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
30
19
Thường tồn tại ít nhất hai hợp đồng là một đặc điểm trong một giao dịch giả tạo.
Đặc điểm này xuất phát từ chính điều kiện tồn tại của hợp đồng là nhằm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Nếu các bên chỉ xác lập một HĐGT khơng hợp
đồng che giấu thì khơng đạt được lợi ích giao kết mà các bên hướng đến trong quá trình
giao lưu dân sự. Tuy nhiên đặc điểm này chỉ mang tính chất tương đối. Vì các bên trong
trường hợp xác lập hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba khơng nhằm
khai thác lợi ích từ đối phương mà xâm phạm đến quyền và lợi ích của người thứ ba,
thậm chí xâm phạm đến lợi ích Nhà nước.
1.3.
Các trường hợp hợp đồng giả tạo điển hình
Việc phân loại HĐGT khơng chỉ là cơ sở để hồn thiện về mặt lý luận mà còn mang
ý nghĩa thực tế khi giúp người nghiên cứu nắm bắt được vấn đề pháp lý mấu chốt trong
quá trình giải quyết vụ việc trên thực tế. Việc phân loại HĐGT chỉ mang tính chất tương
đối. Mỗi cơng trình có những tiêu chí và cách thức phân loại riêng tùy vào mục đích
nghiên cứu của tác giả. Dựa trên mục đích của HĐGT có thể chia ra thành hợp đồng giả
cách và hợp đồng tưởng tượng. Dựa vào “đối tượng” giả tạo có thể chia thành HĐGT về
chủ thể, bản chất, nội dung. Trong phạm vi nghiên cứu của mình dựa trên sự tổng hợp,
phân loại các bản án trên thực tế, tác giả chia HĐGT thành các trường hợp sau:
1.3.1.
Hợp đồng giả tạo về chủ thể
Chủ thể hợp đồng không phải là một khái niệm luật định. Nhưng trong thực tế được
sử dụng để định danh các cá nhân, pháp nhân có năng lực pháp luật, năng lực hành vi
phù hợp giao dịch với nhau thơng qua hình thức hợp đồng làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt nghĩa vụ dân sự. Thông thường, chủ thể nào thực hiện giao dịch sẽ đứng tên trong
hợp đồng. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như không đáp ứng
được năng lực pháp luật dân sự, không muốn đứng tên tài sản, trốn tránh nghĩa vụ…nhiều
cá nhân, pháp nhân nhờ người thân, bạn bè đứng tên hộ trong hợp đồng.
Xét về mặt bản chất giao dịch giả tạo về chủ thể, có hai hợp đồng được xác lập có
cùng nội dung, bản chất nhưng lại khác nhau về mặt chủ thể. Trong đó, chủ thể “nhờ”
người khác giao kết là người có ý chí giao kết, đàm phán, chi phối, quyết định đến nội
dung quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Ngoài ra, chủ thể này cũng là người thực hiện
nội dung hợp đồng và là người thực tế nắm giữ quyền tài sản nếu đây là giao dịch có