Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CAO NGUYỄN BẢO LIÊN

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 - NĂM 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

CAO NGUYỄN BẢO LIÊN

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. LÊ HÀ HUY PHÁT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 - NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan tất cả nội dung trong khoá luận tốt nghiệp “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng” là công trình nghiên cứu của
tác giả, dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Lê Hà Huy Phát – giảng viên khoa


Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Những thơng tin được sử dụng
đảm bảo tính trung thực, được trích dẫn cụ thể trong Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục đính kèm, tuân thủ các quy định về pháp luật sở hữu trí tuệ.
Tác giả xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Cao Nguyễn Bảo Liên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
.....................................................................................................................................9
1.1. Khái quát trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng ..................................................................................................................9
1.1.1.

Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ...........................................9

1.1.2.

Khái niệm vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ..............................12

1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng...................................................................................................15
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng ......................................................................................................17
1.3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng ......................................................................................................20
1.3.1.


Có thiệt hại thực tế xảy ra cho người tiêu dùng....................................21

1.3.2. Có hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hố, dịch vụ khơng đảm bảo chất
lượng là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người tiêu dùng......................23
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và thiệt
hại xảy ra đối với người tiêu dùng .....................................................................26
1.4. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng ................................................................................................................29


1.4.1.

Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường ...................................................29

1.4.2.

Chủ thể được bồi thường ......................................................................32

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................34
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
- NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ..............35
2.1. Thực trạng áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng ......................................................................................................35
2.2. Những bất cập trong nội dung quy định pháp lý và thực tiễn áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .......................39
2.2.1.

Về văn bản pháp luật .........................................................................39


2.2.1.1.

Bất cập khi quy định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại 40

2.2.1.2.

Quy định yếu tố lỗi chưa có sự đồng bộ............................................43

2.2.2.

Về thực tiễn áp dụng .........................................................................44

2.2.2.1.

Khó khăn trong việc phân định nghĩa vụ chứng minh thiệt hại ........44

2.2.2.2.

Khó khăn khi xác định hành vi trái pháp luật gây thiệt hại...............46

2.3.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .........46

2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng .............................................................................................................46
2.3.2.

Hồn thiện quy định về trình tự, thủ tục tố tụng tại Toà án..................49


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................53
KẾT LUẬN ..............................................................................................................54


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................1
PHỤ LỤC………………………………………………………………………….. 6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam
và Liên minh châu Âu (EVFTA), FTA thế hệ mới này được kỳ vọng này mang lại
nhiều lợi ích chiến lược tuy nhiên cũng kèm theo những thách thức cho nền kinh tế
thị trường vốn non trẻ. Trước sức ép cạnh tranh khốc liệt của thị trường, người tiêu
dùng cũng phải chịu những bất cập do thực trạng cạnh tranh không lành mạnh của
các thành phần kinh tế. Những cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh thiếu “ý thức”,
không trung thực đã và đang xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng. Hành vi kinh doanh gian dối, kém đạo đức không chỉ gây ảnh hưởng đến nền
kinh tế mà còn để lại những thiệt hại khơng nhỏ cho tính mạng, sức khoẻ, tài sản và
các quyền lợi hợp pháp khác của người tiêu dùng.
Quả thật, nền kinh tế thị trường đã đem đến cho người tiêu dùng sự đa dạng
trong việc lựa chọn hàng hóa, người tiêu dùng tiếp cận với nhiều mặt hàng, mẫu mã
trong và ngoài nước, sự thuận lợi lựa chọn sao cho phù hợp với khả năng tài chính và
mục đích sử dụng. Đó cũng là điều kiện để nhà sản xuất, kinh doanh phát triển hơn
nữa việc sản xuất, kinh doanh của mình, thu lợi nhuận từ tiêu dùng hàng hoá của
người dân. Bên cạnh những doanh nghiệp chân chính với tơn chỉ “khách hàng là
thượng đế”, thì đâu đó vẫn cịn khơng ít các nhà sản xuất, kinh doanh vì mục đích
kiếm lời mà sẵn sàng ngó lơ, chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng. Nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi người tiêu dùng do sản xuất, kinh doanh hàng

hố khơng bảo đảm chất lượng diễn ra gây hoang mang dư luận, nhiều vụ việc bị
phanh phui nhưng cũng có trường hợp người tiêu dùng chưa sẵn sàng lên tiếng bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình dù bị xâm phạm.
Kể từ khi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Số: 13/1999/PLUBTVQH10 ngày 27 tháng 4 năm 1999 được ban hành và gần nhất là Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, số vụ việc khiếu
nại, khởi kiện của người tiêu dùng dần tăng lên. Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
ở nước ta có điểm đặc biệt khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ
chức, cá nhân kinh doanh khi hàng hóa khơng bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho
NTD. Nó khơng những có vai trị trong việc bù đắp những tổn thất mà NTD phải
1


gánh chịu mà còn nâng cao trách nhiệm của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, có
tác dụng hạn chế sự vi phạm xảy ra. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định đó trên
thực tế gặp nhiều khó khăn và không mang lại hiệu quả như mong đợi. Sự thiếu thống
nhất với các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ người
tiêu dùng năm 2010, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007 được sửa đổi, bổ
sung năm 2018, sự không khả thi của một số quy định pháp luật khi áp dụng vào thực
tiễn khiến cho việc thực thi chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu
dùng cịn gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần phải có những thay đổi trong cơ chế bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng cả về lý thuyết và thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, nhằm có những
cơ chế hỗ trợ phù hợp và hoàn thiện khung hành lang pháp lý, tác giả quyết định thực
hiện đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số bài viết pháp lý, cơng trình nghiên cứu có liên quan
đến đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đã tìm hiểu, khảo sát những
cơng trình tiêu biểu như sau:

❋ Giáo trình, tập bài giảng, sách chuyên khảo:
Tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Văn Cương (2014), Giáo trình luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb. Chính trị Quốc gia. Giáo trình đã khái quát
chung những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, đề cập thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy
định của pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới cũng như trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hay chế tài xử lý đối với các hành vi
vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Dân sự (2011), Tập
bài giảng Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức. Tập bài giảng khái quát cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
2


đồng, làm rõ bản chất pháp lý và ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng dưới góc độ khoa học và thực tiễn
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức. Giáo trình đề
cập các quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các
trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể, phân tích các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Bên cạnh đó, giáo trình cũng đề cập đến trường hợp
bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng tuy nhiên chưa đi sâu
phân tích và khai thác yếu tố thực tiễn của bồi thường do vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng.
Tác giả Đỗ Văn Đại (2018), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt
Nam - Bản án và Bình luận bản án, Tập 2, (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ tư),
Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Thơng qua việc phân tích, bình luận,
đối chiếu với pháp luật nước ngoài các trường hợp cụ thể từ lý luận đến thực tiễn khi
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về cả vật chất và tinh thần được tác giả ghi nhận chi tiết từ đó kiến

nghị giải pháp hoàn thiện chế định này.
Tác giả Đỗ Văn Đại (2020), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật
Dân sự năm 2015, (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba), Nxb. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam. Cơng trình tập trung nghiên cứu, bình luận những điểm mới của
Bộ luật Dân sự 2015. Tác giả có đề cập đến những điểm mới của chế định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những vấn đề pháp lý trong đó có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong phạm vi
nghiên cứu, cơng trình nổi bật ở các khía cạnh khoa học về bồi thường thiệt hại và
hướng khắc phục những bất cập còn tồn đọng đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng.
Tập thể tác giả Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007),
Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình
khái qt chung về những quy định chung về luật dân sự; quyền sở hữu trí tuệ, quyền
thừa kế theo quy định của pháp luật; pháp luật hợp đồng; trách nhiệm bồi thường thiệt

3


hại ngoài hợp đồng … và đề cập một cách sơ lược vấn đề bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Tác giả Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp
dụng)- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, Nxb. Cơng an nhân dân.
Tác giả làm rõ khái niệm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đồng thời nêu bình luận và áp dụng các quy định về trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng. Bài viết cũng đề cập một số tình huống thiệt hại ngoài hợp đồng và
phong tục, tập quán và luật tục về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Song tác phẩm chưa thực sự đi sâu khai thác trường hợp bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng.
❋ Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khoá luận tốt nghiệp:
Tác giả Trần Thị Thu (2013), Trách nhiệm bồi thường ngồi hợp đồng do hàng

hố khơng đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho người tiêu dùng, Khoá luận tốt
nghiệp. Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng do hàng hố khơng đảm bảo chất lượng gây ra cho người
tiêu dùng, tuy nhiên tác giả chỉ bao quát các đối tượng nghiên cứu mà không đề cập
cụ thể loại hàng hoá nào gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Miller và Goldberg, dẫn theo Phạm Thị Phương Anh (2009), Cơ sở phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng do sản phẩm có khuyết tật nghiên
cứu Luật Việt Nam và Luật Anh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập nhiều khía cạnh về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm sản phẩm trong luật Việt Nam và Luật Anh
trong đó có trách nhiệm dựa trên lỗi và trách nhiệm nghiêm ngặt, các trường hợp
miễn trừ trách nhiệm, người chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm trong
luật khi so sánh pháp luật Việt Nam và Anh.
❋ Các bài viết, tạp chí pháp lý
Tác giả Nguyễn Hữu Phúc (2017), “Yêu cầu pháp lý của trách nhiệm sản phẩm
theo pháp luật liên minh châu Âu - Bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và
Cơng nghệ Đại học Đà Nẵng, số 03 (112), trang 139 - 142. Trong bài viết này, tác
4


giả chỉ đề cập khái quát pháp luật châu Âu và Việt Nam về yêu cầu pháp lý của trách
nhiệm sản phẩm, chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm; một số quy định tiến bộ trong
khung pháp lý cho trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật Liên minh châu Âu mà Việt
Nam cần học hỏi kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hệ thống luật và áp dụng
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Tác giả chưa có sự đối chiếu cụ thể với thực tiễn
và kiến nghị hoàn thiện của tác giả còn chung chung.
Tác giả Nguyễn Trọng Điệp (2013), “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội Luật học, số 02, tập 29, trang 44 - 49. Bắt đầu bài viết tác giả đã cho biết nguồn gốc
hình thành của quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bắt nguồn từ thời La
Mã, cũng giống như những bài viết trước, tác giả đã phân tích sâu những căn cứ phát

sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, tác giả đưa ra các quy định trong Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Để làm rõ hơn thế nào là hàng hố khơng đảm bảo chất lượng, tác giả đã đề cập đến
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2018. Bên cạnh
đó, tác giả phân tích rõ trách nhiệm của các chủ thể là: người sản xuất hàng hoá, người
nhập khẩu và người trực tiếp bán hàng hoá cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, tất cả
những vấn đề mà tác giả đề cập đến chỉ mang tính chất lý luận, dựa trên những quy
định của pháp luật và các quy định khác liên quan để làm nổi bật vấn đề. Vì vậy,
khơng thấy được sự khác biệt giữa thực tiễn và cơ sở pháp luật.
Tác giả Quách Thuý Quỳnh (2013), “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng
các vụ kiện tập thể - kinh nghiệm nước ngoài và các gợi ý hoàn thiện pháp luật”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (248). Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước Mỹ, Pháp, Ý, Nhật, … về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
thông qua các vụ kiện tập thể từ đó có những kiến nghị hình thức khởi kiện tập thể
phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời gian tới.
Tác giả Lê Thị Hồng Vân (2016), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do thực phẩm khơng an tồn gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 09 (103)/2016. Tác giả phân tích các quy định của pháp luật và những
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng do thực phẩm khơng an tồn gây ra cho người tiêu dùng. Từ đó, tác

5


giả đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và khắc phục những vướng mắc trong
thực tiễn.
Tác giả Lê Thị Hồng Vân (2016), “Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hàng hố khơng bảo đảm chất lượng gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 07 (137)/2020. Bài viết phân tích quy định về lỗi trong trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây ra cho người tiêu

dùng. Đồng thời, tác giả liên hệ thực tiễn xét xử và pháp luật nước ngoài để kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
3.

Mục đích nghiên cứu

Qua q trình nghiên cứu, tác giả muốn làm rõ những vấn đề như sau:
Thứ nhất, xác định rõ về mặt lý luận các quy định của pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, xác định quyền và nghĩa
vụ của các bên có liên quan: nhà sản xuất, nhập khẩu và bán hàng, người tiêu dùng,
… xem xét, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành đã bảo vệ tốt quyền lợi
của người tiêu dùng hay chưa.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn, tác giả nêu ra những bất cập cịn tồn đọng, tìm
hiểu ngun nhân và hướng giải quyết trong thực tiễn. Đánh giá việc vận dụng pháp
luật hiện hành để bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng của cá nhân, tổ chức có
thẩm quyền.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết thực trạng nêu trên và là cơ
sở cho những vấn đề pháp lý tương tự. Kiến nghị sửa đổi để hoàn thiện hành lang
pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
4.

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả sẽ tập trung phân tích, đánh
giá các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 được sửa đổi, bổ
sung năm 2018, các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan và thực trạng bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam để có góc nhìn đa
6



chiều trong việc bảo vệ người tiêu dùng bị thiệt hại. Từ thực tiễn đó, tác giả xin đưa
ra những kiến nghị nhằm hạn chế những bất cập và hoàn thiện hành lang pháp lý về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng bị thiệt hại do hàng hố khơng
bảo đảm chất lượng gây ra.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định pháp luật và thực tiễn
áp dụng chế định bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hố khơng bảo đảm chất
lượng gây ra thiệt hại dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Khoá luận được hình thành trên cơ sở sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin
về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chế
định bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng bị thiệt hại. Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp đánh
giá nhằm đối chiếu các quy định của hệ thống pháp luật trong nước với nhau và giữa
Việt Nam với pháp luật các quốc gia khác trên thế giới.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: phân tích những quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Sau khi phân tích, tác giả tổng hợp nội dung và đưa ra kết luận về nội dung đã phân
tích.
Phương pháp đánh giá: Từ nội dung của những quy định, thực tiễn đã được đề
cập, tác giả đã đưa ra một số đánh giá ở các khía cạnh khác nhau như: tính hợp lý,
tính khả thi và hiệu quả khi áp dụng trên thực tế.
6.

Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp


Ngồi Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa
luận được chia làm hai chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng.

7


Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng - Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật.

8


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1.

Khái quát trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Trong đời sống dân sự, các quan hệ dân sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt
kèm theo những hệ quả pháp lý khác nhau nên thiệt hại của một trong các chủ thể khi
tham gia vào quan hệ dân sự là điều khó tránh khỏi. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khi có thiệt hại phát sinh trong quan hệ dân sự, pháp luật
thực định đã ghi nhận sự tồn tại của một hệ thống quy phạm pháp luật - trách nhiệm
dân sự.
Trách nhiệm dân sự là một chế định trách nhiệm pháp lý được quy định trong

pháp luật dân sự. Hiện nay dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý được
hiểu theo hai nghĩa khác nhau đó là: theo nghĩa tích cực, trách nhiệm pháp lý được
hiểu là bổn phận, nghĩa vụ, thái độ tích cực của cá nhân và vai trị của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật. Theo nghĩa tiêu cực, trách nhiệm pháp
lý là sự gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần của chủ thể vi
phạm pháp luật, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền đã
áp dụng biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt đối với chủ thể đó, mà biện pháp
cưỡng chế ấy được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật 1. Từ đó, có
thể hiểu, trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi đối với cá nhân hoặc tổ chức
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ dân sự, hoặc
xâm hại lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ
thể khác 2. Liên quan đến trách nhiệm dân sự, có quan điểm cho rằng trách nhiệm dân
sự là một căn cứ làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ của chủ thể xác định được,
người có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho người bị thiệt hại 3. Trách nhiệm
Nguyễn Trung Tín (2014), Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con chưa thành niên gây
ra, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 07.
2
Trường Đại học Luật TP. HCM (2017), Tập bài giảng Lý luận chung về pháp luật (Tái bản lần 1, có sửa đổi
bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr. 253.
3
Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dung) – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr. 05.
1

9


bồi thường thiệt hại dưới góc độ khoa học pháp lý gồm hai loại là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
cả hai loại đều được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Trách nhiệm bồi thường

thiệt hại trong hợp đồng phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng giữa các bên trong
giao dịch dân sự 4 và chưa thực sự được quy định cụ thể, nằm rải rác trong Bộ luật
Dân sự năm 2015. Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ghi nhận từ Bộ luật Dân sự năm
2005 tại Chương XXI và Bộ luật Dân sự năm 2015 kế thừa và phát triển các quy định
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng tại Chương XX. Theo đó, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được hình thành giữa các chủ thể bất kỳ mà trước đó khơng có quan hệ hợp đồng
hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không xuất phát từ thực
hiện hợp đồng 5. Hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại nêu trên có sự khác biệt cơ
bản về hệ quả pháp lý, việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo nghĩa vụ
ngồi hợp đồng thơng thường sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ nhưng đối với nghĩa vụ hợp
đồng thì việc bồi thường thiệt hại, ngược lại, khơng giải phóng người có nghĩa vụ
khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế 6. Bởi lẽ mục tiêu của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại là buộc người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm với hành
vi trái pháp luật đã gây ra, khắc phục hậu quả từ hành vi đó, đồng thời nhằm bù đắp
tổn thất cho người bị thiệt hại nên khi nghĩa vụ bồi thường được thực hiện xong thì
quan hệ nghĩa vụ giữa các bên cũng chấm dứt. Chính sự khác biệt trên là một trong
những căn cứ phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong hợp
đồng.

Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015.: “Bên có nghĩa vụ mà vi
phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa
vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội
dung của nghĩa vụ.”.
5
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.
375.
6

Bộ Tư pháp – Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1997), Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ
luật Dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 231, dẫn theo Đỗ Văn Đại (2018), Luật Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và Bình luận án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ tư), Tập 1,
tr.25.
4

10


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng có những đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bắt nguồn từ việc
gây thiệt hại cho chủ thể trong quan hệ dân sự mà không xuất phát từ nghĩa vụ trong
hợp đồng, quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ dân sự theo quy định
của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện xong thì đương nhiên
quan hệ giữa các bên cũng chấm dứt, người gây thiệt hại được giải phóng nghĩa vụ
đối với người bị thiệt hại.
Thứ hai, yếu tố lỗi khơng cịn là một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ
quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”, quy
định này không đề cập đến yếu tố lỗi và khi xem xét các căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, pháp luật thực định không yêu cầu phải tồn tại
lỗi của người có hành vi gây thiệt hại mới đủ yếu tố phát sinh trách nhiệm dân sự này.
Về vấn đề này, tác giả sẽ phân tích rõ hơn ở các nội dung liên quan.
Thứ ba, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm bồi thường thiệt hại về
vật chất và thiệt hại về tinh thần. “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và
kịp thời” 7, theo tinh thần trên, pháp luật dân sự đặt ra trách nhiệm pháp lý đối với
người gây thiệt hại phải bồi thường cả vật chất lẫn tinh thần cho người bị thiệt hại.

Cụ thể, trường hợp thiệt hại không chỉ về vật chất (tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín) mà cịn ảnh hưởng đến tinh thần của người bị thiệt hại thì
người gây thiệt hại cịn phải bồi thường khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần.
Bộ luật Dân sự Nhật Bản năm 1896 cũng có quy định tương tự như vậy, về thiệt hại
được bồi thường “Một người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại theo quy định của
Điều 709 phải bồi thường kể cả thiệt hại phi vật chất, bất kể thiệt hại như vậy xảy ra
đối với quyền lợi, uy tín hoặc tài sản của người khác.” 8. Thực tiễn xét xử cũng đã ghi
nhận khoản chi phí bồi thường tổn thất về tinh thần, “tiền bù đắp tổn thất về tinh thần
7
8

Khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015.
Điều 710 Bộ luật Dân sự Nhật Bản (Đạo luật số 89) ngày 27 tháng 4 năm 1896 năm 1896.

11


của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại là ơng Nguyễn
Đ. Hồng: Ơng Hồng là trụ cột trong gia đình, có mẹ già con thơ, cái chết của ơng
Hồng là mất mát to lớn cho gia đình ơng Hồng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần
chấp nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 70 lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định là phù hợp” 9. Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần có vai trị
khơng nhỏ trong việc bù đắp những mất mát phi vật chất cho người bị thiệt hại.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một
chế định trách nhiệm pháp lý phát sinh do hành vi trái pháp luật của người gây thiệt
hại xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và chế định này buộc
người gây thiệt hại phải có trách nhiệm khắc phục những tổn thất về vật chất lẫn tinh
thần cho người bị thiệt hại.
1.1.2. Khái niệm vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng
Hơn 35 năm kể từ khi Việt Nam chính thức mở cửa thị trường, phát triển nền

kinh tế nước ta theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam hiện nay đã tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và
một số “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” trong đó nổi bật là Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) – EVFTA, đây là cơ hội cũng
là thách thức lớn đối với một quốc gia đang phát triển khi phải chịu sự cạnh tranh
khốc liệt của thị trường toàn cầu. Tuy vậy, một số cá nhân, tổ chức kinh doanh vì mục
tiêu lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu hiểu biết hay thói quen mua sắm của người tiêu dùng
đã xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng. Trong quan hệ bất đối xứng giữa người
tiêu dùng và cá nhân, tổ chức kinh doanh, người tiêu dùng là thế yếu, “dễ bị tổn
thương” trước những biến động của nền kinh tế. Pháp luật hiện nay đã có những cơ
chế nhất định nhằm bảo vệ người tiêu dùng trước những vi phạm của cá nhân, tổ chức
kinh doanh.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 định nghĩa: “Người tiêu dùng
là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá

9

Bản án số: 03/2022/DS-ST ngày: 20-01-2022 của Toà án nhân dân Huyện Hoà Vang, TP. Đà Nẵng.

12


nhân, gia đình, tổ chức” 10. Định nghĩa trên xác định người tiêu dùng bao gồm cả cá
nhân và tổ chức thực hiện hoạt động mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích
tiêu dùng, sinh hoạt, quy định này được kế thừa từ khái niệm người tiêu dùng theo
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 11. Pháp luật các quốc gia trên
thế giới cũng tồn tại những quy định khác nhau về người tiêu dùng.
Chẳng hạn quốc gia láng giềng Thái Lan ghi nhận định nghĩa người tiêu dùng
bao gồm những chủ thể sau: (i) người mua hoặc sử dụng dịch vụ; (ii) người được

chào hàng; (iii) người được đề nghị mua hàng hoá của nhà kinh doanh 12.
Còn khái niệm người tiêu dùng của Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan
được sửa đổi năm 2017 quy định khái niệm người tiêu dùng là bất kỳ người nào có
liên quan đến hoạt động thương mại, hoạt động cho các mục đích tiêu dùng để nhận
hàng hóa hoặc dịch vụ 13.
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 định nghĩa tương đối cụ thể
về người tiêu dùng, theo đó, người tiêu dùng là người: (i) mua hoặc sử dụng hàng hóa
hoặc dịch vụ cho mục đích cá nhân, gia đình; và (ii) khơng sử dụng hàng hóa hoặc
dịch vụ vào mục đích cung cấp lại vì mục đích thương mại; tiêu dùng chúng vào q
trình sản xuất; hoặc trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ sửa chữa hoặc xử lý, các
hàng hóa và tài sản gắn liền với đất khác 14.
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm 2019 quy định về khái niệm người
tiêu dùng có thể hiểu: là bất kỳ người nào (i) mua hàng hoá đã được thanh toán hoặc
hứa thanh toán hoặc thanh toán một phần hoặc trả chậm và bất kỳ người sử dụng hàng
hố khơng là người mua hàng hố đó, được sự chấp thuận của người mua hàng hoá
Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số: 59/2010/QH12 ngày 17 tháng 11 năm 2010.
Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số: 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27 tháng 4 năm 1999:
“Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia
đình và tổ chức.”.
12
Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 (Đạo luật bảo vệ người tiêu dùng, B.E. 2522 (năm
1979) BHUMIBOL ADULYADEJ, REX., được đưa ra vào ngày 30 tháng 4 năm 2522 theo Dương lịch Thái
Lan; Năm thứ 34 của Triều đại Hiện tại.
13
Khoản 1 Điều 2 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan được sửa đổi ngày 17 tháng 6 năm 2015.
14
Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999 (Đạo luật 599), sửa đổi mới nhất được
thực hiện bởi Đạo luật A1598 được đưa vào sử dụng vào ngày 1 tháng 10 năm 2019.
10
11


13


khơng bao gồm người lấy hàng hố để bán lại; (ii) thuê lại hoặc cung cấp bất kỳ dịch
vụ nào, khi các dịch vụ đó được cung cấp với sự chấp thuận của người mua hàng hố
đầu tiên, nhưng khơng bao gồm người sử dụng dịch vụ đó cho bất kỳ thương mại nào
mục đích. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 7 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm
2019 cũng giải thích cho khái niệm "mục đích thương mại" khơng bao gồm việc một
người sử dụng hàng hóa do người đó mua và sử dụng riêng cho mục đích kiếm sống
bằng cách kinh doanh; "mua bất kỳ hàng hóa nào" và "thuê hoặc sử dụng bất kỳ dịch
vụ nào" bao gồm các giao dịch ngoại tuyến hoặc trực tuyến thông qua các phương
tiện điện tử hoặc điện thoại hoặc bán hàng trực tiếp hoặc tiếp thị đa cấp 15.
Theo Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu (ECD) thì khái niệm người tiêu dùng
gồm những đặc điểm sau: (i) là bất kỳ cá nhân nào; (ii) mua hàng theo hợp đồng; (iii)
mục tiêu của hợp đồng không liên quan đến thương mại, kinh doanh hay nghề
nghiệp 16. Khái niệm này xác định người tiêu dùng là cá nhân, mua, sử dụng hàng hố,
dịch vụ khơng vì mục đích thương mại và khơng bao gồm người sử dụng hàng hố,
dịch vụ mà khơng có quan hệ hợp đồng với cá nhân, tổ chức kinh doanh.
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Anh năm 2015 không đưa ra định nghĩa thế nào
là người tiêu dùng. Tuy nhiên, Luật Quyền lợi người tiêu dùng Anh năm 2015 ghi
nhận người tiêu dùng là một cá nhân hoạt động cho các mục đích khác hồn tồn hoặc
chủ yếu với mục đích thương mại, kinh doanh, thủ cơng hoặc nghề nghiệp của cá
nhân đó 17.
Khái niệm người tiêu dùng của bang Quebec (Canada) khơng có gì đặc biệt so
với quy định của các nước khác trên thế giới. Tuy vậy yếu tố sử dụng hàng hóa hoặc
dịch vụ không phân biệt rõ là phát sinh trực tiếp từ hợp đồng mua hàng hóa dịch vụ
hay là thụ hưởng các hàng hóa dịch vụ đó từ người khác. Nội hàm của khái niệm
Khoản 7 Điều 2 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm 2019, Đạo luật chính thức có hiệu lực tồn bộ từ
ngày 24 tháng 7 năm 2020.

16
Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương (2009), Báo cáo chuyên đề: So sánh Luật Bảo vệ người tiêu dùng
một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong dự thảo
Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam, Tài liệu phục vụ công tác xây dựng Luật Bảo vệ NTD Việt Nam
do Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương thực hiện, tr. 14.
17
Khoản 3 Điều 2 Phần 1 Luật Quyền lợi người tiêu dùng Anh năm 2015, Đạo luật Quyền của Người tiêu dùng
có hiệu lực vào ngày 01 tháng 10 năm 2015.
15

14


người tiêu dùng theo Luật của Quebec bao gồm: (i) bất cứ tự nhiên nhân nào; (ii) sử
dụng hàng hóa hoặc dịch vụ; (iii) không phải thương nhân sử dụng hàng hóa dịch vụ
vì mục đích kinh doanh 18.
Nhìn chung, khái niệm người tiêu dùng của các quốc gia trên thế giới có sự
khác biệt, một số quốc gia chỉ ghi nhận người tiêu dùng là cá nhân như Chỉ thị của
Cộng đồng Châu Âu hay Luật Quyền lợi người tiêu dùng Anh năm 2015, Luật Bảo
vệ người tiêu dùng bang Quebec (Canada), các quốc gia khác có những sự khác biệt
về quan điểm khi nhận định người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và tổ chức, cũng
như quy định mục đích sử dụng khơng nhằm mục đích kinh doanh.
Pháp luật nước ta đã có sự điều chỉnh phù hợp khi quy định người tiêu dùng
bao gồm cả cá nhân và tổ chức mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt của họ. Định nghĩa như vậy tuy khái quát hơn về chủ thể nhưng chưa
thực sự rõ ràng và theo tác giả, pháp luật thực định cần tách bạch người mua và người
sử dụng hàng hố, dịch vụ vì khơng phải lúc nào người mua cũng là người trực tiếp
sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó.
Hiện nay, chế định bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam chưa có định nghĩa cụ
thể về vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, tuy nhiên, dựa trên các quy định pháp

luật có liên quan khái niệm vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng có thể được hiểu
như sau: “Vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là hành vi của cá nhân, tổ chức xâm
phạm đến các quyền của người tiêu dùng được pháp luật bảo vệ”, trên cơ sở làm rõ
khái niệm về người tiêu dùng và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ta mới có cơ chế
tốt hơn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong bối cảnh đầy biến động về kinh tế như
hiện nay.
1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng
Người tiêu dùng vốn là đối tượng “dễ bị tổn thương” trước những biến đổi của
nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh, nguồn cung tăng cao song khả năng
cầu khan hiếm, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng. Nhìn lại 02 năm
18

Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương (2009), tldd (16), tr. 16.

15


dịch bệnh Covid-19 lan rộng trên toàn thế giới đã để lại những di chứng mà khi nhắc
lại chúng ta vẫn khơng khỏi rùng mình. Vào thời điểm cuối năm 2019 đầu năm 2020
khi dịch bệnh bùng phát và lan ra các quốc gia trên thế giới, chuỗi cung ứng hàng hố
tồn cầu rơi vào tình trạng gián đoạn, thậm chí là đứt gãy tại một số nơi, người tiêu
dùng với tâm lý hoang mang trước dịch bệnh lạ trở thành cơ hội cho các cá nhân, tổ
chức găm hàng, đầu cơ tích trữ những loại hàng hố cấp thiết lúc bấy giờ. Đáng nói
hơn, tình trạng hàng giả, hàng không bảo đảm chất lượng xuất hiện tràn lan trên thị
trường đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng, về mặt lâu dài,
hàng hố khơng bảo đảm chất lượng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tài chính của người
tiêu dùng. Tuy đã có hành lang pháp lý quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
song thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng đã và đang diễn ra. Do đó, Nhà
nước cần phải có cơ chế bảo hộ người tiêu dùng trước những hành vi xâm phạm

quyền và lợi ích hợp pháp của họ, buộc chủ thể có hành vi gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm trước những thiệt hại phát sinh đối với người tiêu dùng, đảm bảo người
tiêu dùng được bồi thường thoả đáng, bù đắp những tổn thất mà họ phải gánh chịu.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là một
loại trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm này phát sinh khi có hành vi vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng. Chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng ra đời khá muộn và lần đầu được ghi nhận tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm
1995: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác sản xuất, kinh doanh do không bảo
đảm tiêu chuẩn chất lượng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, các hàng hoá
khác mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng, thì phải bồi thường.”. Tuy nhiên, pháp
luật chưa thể xác định được phạm vi người tiêu dùng được bảo vệ, trình tự, thủ tục
đòi bồi thường cũng hạn chế 19. Đến năm 1999, sự ra đời của Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng đã hình thành nên hành lang pháp lý vững chắc hơn, đóng vai trị
quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, khắc phục bất cập của Bộ
luật Dân sự năm 1995 và xác định rõ đối tượng được bồi thường. Khi Bộ luật Dân sự
năm 2005 ra đời đã có những thay đổi nhất định về cách thức lập pháp, tiếp tục ghi
nhận trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, pháp nhân, chủ thể sản xuất, kinh doanh
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng dù về mặt câu chữ vẫn chưa

Trần Minh Quân (2010), Bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng do sản xuất, kinh doanh hàng hoá khơng
đảm bảo chất lượng, Khố luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 16.

19

16


thực sự xác đáng, chưa phù hợp với thực tế song nội hàm điều luật đã có những thay
đổi đáng kể 20.
Pháp luật dân sự hiện hành quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một

loại trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại, đây là hậu
quả pháp lý bất lợi đối với người gây thiệt hại. Trách nhiệm pháp lý này có thể hiểu
theo hướng tiêu cực đối với người gây ra thiệt hại cho người khác và theo hướng tích
cực đối với người bị thiệt hại xứng đáng được hưởng bù đắp tổn thất. Bởi lẽ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại hướng đến hai mục tiêu, trước hết là buộc người gây thiệt
hại chịu trách nhiệm đối với hậu quả do hành vi vi phạm mà mình gây ra, đồng thời
làm cho người bị thiệt hại được bồi thường, bù đắp những tổn thất mà họ phải gánh
chịu 21. Từ đó, có thể hiểu, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng là trách nhiệm dân sự phát sinh đối với tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng được pháp luật bảo hộ.
1.2.

Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là một
loại trách nhiệm pháp lý – trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự là một chế định
đặc trưng của pháp luật dân sự, thể hiện quyền lực nhà nước khi có hành vi vi phạm
pháp luật hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể dân sự. Bộ
luật Dân sự năm 2015 khơng có định nghĩa cụ thể về trách nhiệm dân sự nhưng dưới
góc độ khoa học pháp lý có thể hiểu áp dụng trách nhiệm dân sự là việc bên vi phạm,
tức chủ thể có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bên bị vi phạm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi thể hiện thông qua việc bắt buộc
phải thực hiện nghĩa vụ hoặc bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và khắc phục
tổn thất cho bên vi phạm và đảm bảo cho việc thực thi trách nhiệm pháp lý bằng
quyền lực nhà nước. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
Điều 630 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác
sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi
thường.”.

21
Trần Ngọc Thành (2013), “Một số vấn đề thực hiện nguyên tắc bồi thường trong chế định bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số (22), tr. 13.
20

17


người tiêu dùng có đầy đủ các yếu tố đặc trưng của trách nhiệm dân sự: là biện pháp
mang tính cưỡng chế tài sản; là trách nhiệm của nhà sản xuất, kinh doanh vi phạm
đối với người tiêu dùng; được hình thành do sự thoả thuận giữa người tiêu dùng với
nhà sản xuất, kinh doanh hoặc theo quy định của pháp luật; có nhiều phương thức
giải quyết: hồ giải, thương lượng, tố tụng tại Toà án; thực hiện trách nhiệm bồi
thường nhằm đền bù và khôi phục lại quyền lợi người tiêu dùng 22.
Tuy mang những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự nhưng bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm
bồi thường ngoài hợp đồng. Khi có sự vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, chúng ta
phải xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trong hay ngoài hợp đồng. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa
vụ là trách nhiệm pháp lý phát sinh dựa trên hành vi không thực hiện nghĩa vụ đúng
thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của
nghĩa vụ với người tiêu dùng gây ra thiệt hại. Loại trách nhiệm dân sự này chỉ phát
sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ trên cơ sở hợp đồng giữa cá nhân, tổ chức sản
xuất, kinh doanh với người tiêu dùng. Ngược lại, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là trách nhiệm dân sự phát sinh không dựa trên cơ sở quan hệ hợp đồng giữa các bên,
trách nhiệm pháp lý này xuất phát từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thực tế cho
người tiêu dùng. Pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay quy định trách nhiệm bồi thường
của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và gây thiệt hại cho người tiêu dùng 23. Bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cho người tiêu dùng khơng địi hỏi giữa các bên phải tồn tại
hợp đồng hay thỏa thuận trước đó vì xét từ thực tiễn yếu tố vi phạm nghĩa vụ theo
hợp đồng không đương nhiên hiện hữu. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả
tập trung vào trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hành
vi gây thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của người tiêu dùng. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng khơng chỉ mang tính chế tài đối cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh
22
23

Trần Minh Quân (2010), tlđd (19), tr. 16.
Trên cơ sở Điều 584 Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015.

18


doanh gây thiệt hại mà còn kịp thời bù đắp những tổn thất mà người tiêu dùng phải
gánh chịu.
Thứ hai, chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại bao gồm chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường và chủ thể được bồi thường. Đối với chủ thể chịu trách nhiệm bồi
thường, pháp luật thực định xác định tất cả các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện
một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi 24đều phải chịu trách
nhiệm pháp lý. Mỗi chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý nhất định đối với thiệt hại
của người tiêu dùng. Chủ thể được bồi thường là người mua, sử dụng hàng hố, dịch
vụ có hoặc khơng có hợp đồng với cá nhân, tổ chức kinh doanh. Người tiêu dùng sẽ
được hưởng trách nhiệm bồi thường khi tham gia vào giao dịch dân sự với cá nhân,
tổ chức kinh doanh và bị xâm phạm đến các quyền và lợi ích pháp định làm phát sinh
thiệt hại trên thực tế. Trong quan hệ này, một bên tham gia với tư cách là cá nhân, tổ

chức kinh doanh và một bên là người tiêu dùng. Thêm vào đó, chỉ có người tiêu dùng
mới được vận dụng chế định bồi thường thiệt hại để yêu cầu bù đắp thiệt hại thực tế
còn đối với các chủ thể khác khó có thể áp dụng quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 2010 để bảo vệ quyền lợi của mình 25.
Thứ ba, thiệt hại thực tế của người tiêu dùng do hành vi trái pháp luật của cá
nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ gây ra. Thiệt hại này có thể từ
việc sản xuất, kinh doanh hàng hố kém chất lượng gây ảnh hưởng đến tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín hay thậm chí tổn thương tinh thần cho người
tiêu dùng nên cần có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ thể
sản xuất, kinh doanh với hậu quả xảy ra. Về mặt khoa học pháp lý, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng phát sinh do hành vi sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trái pháp luật và thiệt hại thực tế từ hành vi đó, thiệt
hại được bồi thường từ cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh đối với người tiêu dùng.

Khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số: 59/2010/QH12 ngày 17 tháng 11 năm 2010.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số: 59/2010/QH12 ngày 17 tháng 11 năm 2010 giới hạn người tiêu
dùng là người mua, sử dụng hàng hoá. Quy định này không áp dụng đối với pháp nhân, tổ chức.
24
25

19


×