Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

(TIỂU LUẬN) trình bày và so sánh sự giống và khác nhau giữa chính cương vắn tắt do đồng chí nguyễn ái quốc khởi thảo và luận cương chính trị do đồng chí trần phú khởi thảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.1 KB, 14 trang )

Câu 1: Trình bày và so sánh sự giống và khác nhau giữa Chính cương vắn tắt do
đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và Luận cương chính trị do đồng chí Trần
Phú khởi thảo.
Nội dung cơ bản và ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo.
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm
vụ chiến lược, phương pháp hoạt động... của một chính đảng, hoặc một tổ chức
chính trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định. V.I.Lênin chỉ rõ: “Cương lĩnh là
một bản tun ngơn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà
đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”31. Cương lĩnh chính
trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp,
đoàn kết các lực lượng xã hội nhằm phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng
của Đảng. Cương lĩnh là văn bản quan trọng và cao nhất của Đảng, có tính
chiến lược lâu dài nhằm định hướng, chỉ đạo to lớn, toàn diện đối với sự nghiệp
cách mạng của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Hai văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng : Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của
Đảng đã phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược
cách mạng Việt Nam-đó là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: từ việc phân
tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có cơng nhân, nông dân
với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ
nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vơ sản,
gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người, gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chiến lược nêu trên đã chỉ rõ tính
chất và phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam-một nước thuộc địa
nửa phong kiến là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho


dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và chủ


nghĩa cộng sản.
Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”,
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ cơng nơng
binh. Tổ chức ra quan đội công nông”. Các nhiệm vụ trên đây đã phản ánh đúng
mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và đáp ứng
đúng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là đánh đuổi đế quốc
xâm lược để giành lại độc lập cho dân tộc. Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc
được đặt đúng tầm quan trọng của nó trong mối quan hệ với đấu tranh giai cấp.
Mục tiêu đó ln ln gắn liền với giải phóng giai cấp cơng nhân, giai cấp nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động: chống đế quốc giành độc lập cho dân
tộc, chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày là mục tiêu căn bản trong
giai đoạn đầu để tạo điều kiện đi tới chủ nghĩa xã hội. Ở một nước thuộc địa, thì
vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu là giải phóng dân tộc, giành độc lập hồn
tồn.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ
chức. b) Nam nữ bình quyền,v.v. c) Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố”.
Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái;
thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý; thâu hết
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu
thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật
ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện
xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã
hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, tồn diện,
triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng

cho hai giai cấp cơng nhân và nơng dân. (Sau đó đã được cụ thể hố trong 10
điểm ở Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng).
Trong đó, phương diện kinh tế thể hiện rõ việc xác định nhiệm vụ chủ yếu,
trước mắt chỉ tập trung đánh đế quốc, giải phóng dân tộc, nên mới chỉ: “thâu hết
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”; cịn đối
với địa chủ thì phải phân biệt và tập trung địa chủ phản cách mạng, nên chỉ mới


chủ trương “Quốc hữu hóa tồn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa
chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo”.
Về lực lượng cách mạng, ngay khi phân tích tình hình xã hội Việt Nam sau khi
Pháp thống trị, Cương lĩnh đã chỉ rõthái độ chính trị của từng giai cấp, trong đó
chỉ rõ “ tư bản bản xứ khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế
quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ
nghĩa”. Do vậy, Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là cơng
nhân, nơng dân, trong đó giai cấp cơng nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh
chủ trương đồn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập
trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nơng… để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Trên cơ sở nắm vững đặc điểm sự phân hoá giai cấp của xã hội Việt Nam sau
khi Pháp xâm lược và khai thác thuộc địa, Cương lĩnh đã đánh giá sát thực thái
độ của các giai tầng trong xã hội, từ đó, khơng chỉ làm phân hố lực lượng của
kẻ thù, mà cịn đã xác định tập hợp, đồn kết với tất cả những giai tầng có tinh
thần yêu nước để tạo nên sức mạnh tổng hợp, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. Đây là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc về
việc tập hợp lực lượng cách mạng ở Việt Nam, là cơ sở của tư tưởng chiến lược
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các

tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở
đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân
tộc, chứ khơng thể là con đường cải lương thỏa hiệp “không khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược
đấu tranh cách mạng thích hợp để lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng về
phía giai cấp vơ sản, cịn “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập
hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế, Cương lĩnh phát triển quan điểm về
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính


quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cương lĩnh
chỉ rõ: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp
thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định tính tự lực tự cường, đồng thời xác định rõ lực
lượng đồng minh quốc tế đó là sự đồn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Đây là sự quán triệt sâu
sắc tinh thần của khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản “Vơ sản tồn thế
giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đối với thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Cương lĩnh không chỉ đặt cách mạng Việt Nam trong dịng chảy của cách
mạng giải phóng dân tộc thế giới, nhằm phát huy sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ và
sự chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng vơ sản
thế giới. Đồng thời, Cương lĩnh cịn phân hóa kẻ thù khi xác định đánh đổ thực
dân Pháp, nhưng chủ trương đồn kết với giai cấp vơ sản thế giới, trong đó,
“nhất là đồn kết với giai cấp vơ sản Pháp”.
Sau khi xác định vai trị lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định : “Đảng là đội

tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Đây chính là nội
dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chỉ rõ ngay trong văn kiện đầu tiên của
Đảng mới được thành lập. Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo, nhưng để lãnh
đạo được thì phải “thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, Đảng muốn
“thu phục” thì phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng; Đồng thời “làm cho giai cấp minh lãnh đạo được
dân chúng” thì Đảng cần phải thường xuyên chú trọng xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh tồn diện về cả tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức, mới
“có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam được hoạch định trên cơ sở lý luận khoa học vững chắc và trên cơ sở
tổng kết, khảo nghiệm thực tiễn phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo có các nội dung
chính:


Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và
Cao Miên là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên
thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất
của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân
quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua
thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư bổn
và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có

quan hệ khăng khít với nhau: “… có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được
cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế
độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương nhấn
mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vơ sản và nơng dân là hai động chính của cách mạng tư sản dân
quyền, trong đó giai cấp vơ sản là động lực chính và mạnh.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “điều kiện cốt yếu cho sự
thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có
một đường chánh trị đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho
quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng,
“Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch nhân và
giành lấy chánh quyền cho cơng nơng”. Võ trang bạo động để giành chính
quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, vì
thế giai cấp vơ sản Đơng Dương phải đồn kết gắn bó với giai cấp vơ sản thế
giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa .
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về
chiến lược cách mạng. Về cơ bản thống nhất với Chính cương, sách lược vắn tắt
của Hội nghị thành lập Đảng. Tuy nhiên, Luận cương đã không nêu rõ mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, khơng nhấn mạnh nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề


ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu
tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Nguyên nhân của những hạn chế đó là
do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng

của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại
trong Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó. Những
hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng
như trong việc tập hợp lực lượng cách mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều
năm sau.
Điểm giống nhau giữa luận cương chính trị và cương lĩnh của Đảng
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được
tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa
cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2
nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau khơng có bức tường ngăn cách. Phương
hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của
nhân dân Việt Nam.
Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất
và giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là cơng nhân và nơng dân. Đây là hai lực
lượng nịng cốt và cơ bản đơng đảo trong xã hội góp phần to lớn vào cơng cuộc
giải phóng dân tộc nước ta.
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đơng dân chúng Việt
Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng
là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơng nơng.
Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng
thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngồi, tìm đồng minh cho mình.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự
giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và
cách mạng vô sản chịu ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm

1917.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau:


Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam cịn Luận
cương rộng hơn (Đơng Dương).
Điểm khác nhau giữa luận cương chính trị và cương lĩnh của Đảng
Một là, xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh
chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó
mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng (nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm
vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của
cương lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn tồn độc lập, nhân dân được tự do,
dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân
cày nghèo, thành lập chính phủ cơng nông binh và tổ chức cho quân đội công
nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thơng giáo dục theo
hướng cơng nơng hóa. Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu
để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản
và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập”.
Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có
quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương
đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp
đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định được kẻ thù,
nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên khơng nêu cao
vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách
mạng ruộng đất.
Hai là, về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng
cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên

minh đồn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông,
tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.
Như vậy, ngoài việc xác định lực lượng nịng cốt của cách mạng là giai cấp
cơng nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết
dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương
thì xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng
mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vơ sản là động lực chính và mạnh, là
giai cấp lãnh đạo cách mạng, nơng dân có số lượng đông đảo nhất, là một động
lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngồi cơng nơng
như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, cịn tư


sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát
triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối
đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư
sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân
tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc
thống nhất chống đế quốc và tay sai.
Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan
điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác
định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng.
Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một
cách dập khn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn
quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Cịn Cương lĩnh chính trị tuy cịn sơ lược vắn
tắt nhưng nó đã vạch ra phương hướng cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển
từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương
lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn
cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp

ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .
Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn
cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết
định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.
Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện
hệ thống lý luận, tư tưởng.
Câu 2:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta thể hiện trong Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi tồn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ thể trong
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh (tháng 9/1947).
* Nội dung:
– Xác định mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp của CMT8,là
đánh đuổi TDP giành độc lập thống nhất cho dân tộc.
– Xác định tính chất của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là


cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính
chất tồn dân, tồn diện. Cuộc kháng chiến chống TDP là cuộc chiến tranh tiến
bộ vì tự do, độc lập dân chủ và hịa bình. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất
giải phóng dân tộc và dân chủ mới.
+ Kháng chiến toàn dân là huy động toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi
vũ khí có trong tay, thực hiện khẩu hiệu: “tồn dân kháng chiến” thực hiện
kháng chiến ở khắp nơi thực hiện: “mỗi người dân là một chiến sĩ “, “mỗi
đường phố là một pháo đài”, “mỗi khu phố là một trận địa”.
-> Phải kháng chiến tồn dân là vì so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh
lệch, nếu chỉ dựa vào lực lượng quân đội chủ lực thì sẽ khơng thể nào thắng nổi
giặc. Đó là sự kế thừa, phát huy truyền thống: “cả nước chung sức, đánh giặc
của dân tộc” thể hiện tư tưởng chiến tranh nhân dân trong tư tưởng quân sự của
HCM.

+ Kháng chiến toàn diện: là kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa- xã hội và ngoại giao trong đó chú trọng mặt trận quân sự.
● Về quân sự thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai. Thực hiện chiến
tranh du kích, tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, triệt để dùng du
kích, vận động chiến, bảo tồn thực lực, từng bước hồn thiện từ chiến
tranh du kích lên thành chiến tranh chính quy.
● Về văn hóa: xóa bỏ nền văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn
hóa mới dân chủ, xã hội chủ nghĩa
● Về ngoại giao thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực của ta
tuyên truyền để cho nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp biết và
ủng hộ cuộc kháng chiến của ta.Thực hiện liên hiệp với dân tộc Pháp, sẵn
sàng đàm phán nếu Pháp công nhận nền độc lập của ta.
● Về kinh tế; Thực hiện tiêu thổ kháng chiến, xây dựng nền kinh tế, tự túc,
tự cấp tập trung phát triển nơng nghiệp và cơng nghiệp quốc phịng.
● Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đồn thể nhân dân, đồn kết với 2 dân tộc Miên, Lào và
các dân tộc yêu chuộng hịa bình trên thế giới.
-> Phải kháng chiến tồn diện vì: TDP dùng mọi thủ đoạn để xâm lược ta, vì
vậy muốn kháng chiến thắng lợi phải làm thất bại mọi thủ đoạn của chúng: Để
kháng chiến thắng lợi ta phải xây dựng một hậu phương kháng chiến xây dựng,
1 hậu phương vững mạnh về mọi mặt, đồng thời phải tranh thủ sự ủng hộ và
giúp đỡ của quốc tế.
– Xác định phương châm chiến lược là: trường kì và tự lực cánh sinh.


+ Kháng chiến trường kỳ: còn gọi là phương châm chiến lược kháng chiến lâu
dài , từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường, tiến lên tranh
thủ cơ hội giành thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh.
– > Phải kháng chiến lâu dài vì: so sánh tương quan lực lượng giữa ta và kẻ thù

xâm lược rất chênh lệch, nhất là về kinh tế và qn sự khơng có lợi cho ta, nên
khó có thể giành thắng lợi một cách nhanh chóng; Đánh nhanh thắng nhanh
luôn là lối đánh sở trường của kẻ đi xâm lược (để phát huy ưu thế về quân sự,
khắc phục chỗ yếu của chiến tranh phi nghĩa và tiết kiệm chi phí chiến tranh).
Ta đánh lâu dài là để chống lại lối đánh sở trường của chúng mà buộc chúng
phải theo cách đánh của ta. HCM nói: Địch dùng lối đánh nhanh thắng nhanh, ta
quyết kế trường kì kháng chiến”. Đánh lâu dài nhân dân ta sẽ có thời gian để
vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương và
vận động quốc tế. Tuy nhiên kháng chiến lâu dài cũng cần biết nắm bắt thời cơ,
trên cơ sở thực hiện kháng chiến phương châm kháng chiến lâu dài còn phải
giành thắng lợi từng bước, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch trên
chiến trường, tiến lên tranh thủ giành chiến thắng quyết định kết hợp với giải
pháp ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến tranh gây mất mát đau thương
cho nhân dân.
– Tự lực cánh sinh: còn gọi là dựa vào sức mình là chính, nhằm phát huy mọi nỗ
lực chủ quan, tránh bị động trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài; Hơn nữa
trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến(trước 1949) ta nằm trong tình thế bị
bao vây cơ lập thì càng phải phát huy tinh thần tự lực tự cường. Tuy nhiên tự
lực cánh sinh cũng cần phải biết tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế, cần phải
tuyên truyền vận động quốc tế tranh thủ mọi sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần,
làm tăng thêm sức mạnh của cuộc kháng chiến.
=> Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyền thống của cha ông ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm quân sự một số nước anh
em vào điều kiện Việt Nam.Là đường lối chiến tranh nhân dân. Đường lối
kháng chiến là nguồn cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc VN đứng lên kháng chiến, là
xuất phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta.
Câu 3:
Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến chống
thực dân Pháp.

a. Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng được tiến hành liên tục trong hơn 9 năm đầy gian khổ. Thắng lợi


giành được tuy chưa trọn vẹn, nhưng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc có
ý nghĩa lịch sử to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân
tộc Việt Nam, đối với cách mạng Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn trong khu
vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Đảng khẳng định: “Sau 9 năm kháng
chiến, những thắng lợi lớn của ta về mặt quân sự và cải cách ruộng đất, cũng
như về mặt tài chính, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng mặt trận, xây dựng
đảng, vv đã đánh dấu một bước tiến rất lớn của quân và dân ta. Những thắng lợi
ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến có lợi cho ta,
nhưng chưa phải chuyển biến căn bản...”.
Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có
quy mơ lớn của đội qn xâm lược nhà nghề có tiềm lực quân sự và kinh tế
hùng mạnh, được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân
sự tài ba của Pháp-Mỹ, cùng với các phương tiện chiến tranh, trang bị vũ khí,
cơng nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại nhất lúc bấy giờ. Đập tan hoàn
toàn ách thống trị kéo dài hơn 80 năm của chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong
kiến tay sai ở Việt Nam. Và đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa
nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang
của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hịa
bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi này cũng góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh vĩ đại của nhân loại tiến bộ, vì nền hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; có tác dụng cổ vũ mạnh
mẽ phong trào ðấu tranh giải phóng dân tộc thuộc ðịa ở các châu lục Á, Phi, Mỹ
La tinh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bảo vệ và phát triển
tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; củng cố và

phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội; bước đầu phát huy cao nhất quyền dân chủ căn bản của người dân
Việt Nam, mang đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng
chiến và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Qua quá trình kháng chiến lâu dài, gian khổ lực lượng vũ trang nhân dân
chính quy (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) cùng các lực lượng vũ
trang khác được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh, rèn luyện, giáo dục
đã có sự phát triển và trưởng thành mạnh mẽ về mọi mặt; lực lượng vũ trang
nhân dân đã đóng vai trị nịng cốt cho tồn dân đánh giặc, là mũi nhọn sức
mạnh làm nên những thắng lợi quyết định trên mặt trận quân sự. Lực lượng vũ
trang nhân dân từng bước phát triển và đã thực sự trở thành công cụ chuyên
chính sắc bén, tin cậy của Đảng và Nhà nước trên mặt trận đấu tranh chống thù


trong, giặc ngồi, có bản lĩnh giai cấp vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng và nhân dân, làm rường cột để phát triển chiến tranh du kích,
chiến tranh nhân dân chống xâm lược và trên cơ sở đó xây dựng nền nghệ thuật
quân sự cách mạng độc đáo Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã đưa đến việc giải phóng
hồn tồn miền Bắc, tạo ra tiền đề về chính trị-xã hội quan trọng để Đảng quyết
định đưa miền Bắc phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ
vững chắc miền Bắc, đưa miền Bắc trở thành hậu phương lớn, chỗ dựa vững
chắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam sau này và đóng vai trị là nhân tố
quyết định nhất đối với công cuộc đấu tranh giải phóng hồn tồn miền Nam,
thống nhất đất nước.
b. Kinh nghiệm lãnh đạo kháng chiến của Đảng
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam là cuộc
chiến đấu quyết liệt, vô cùng anh dũng, không ngơi nghỉ trên mọi lĩnh vực, mọi
mặt trận, trên phạm vi cả nước. Sự hy sinh của Đảng, của quân đội và nhân dân
ta là vô bờ bến. Thắng lợi của cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành

công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động
Việt Nam và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử
của cuộc kháng chiến trong những ngày đầu. Ngay sau khi giành được chính
quyền, nhận thức đúng sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, Đảng
đã sớm hoạch định đúng đường lối cơ bản là “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”,
kiên định quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, kiên trì bảo vệ sự thống nhất,
tồn vẹn của Tổ quốc, tuyệt đối khơng lúc nào nao núng, run sợ trước sức mạnh
và mọi sự uy hiếp của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Khi phải cùng lúc đương đầu
với nhiều kẻ thù nguy hiểm, Đảng và Hồ Chí Minh bình tĩnh, sáng suốt nhận
định, đánh giá đúng tình hình, chỉ rõ đối tượng, đối tác và đề ra chủ trương, sách
lược, biện pháp giải quyết đúng đắn. Vận dụng sáng tạo sách lược lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện hòa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc
với từng kẻ thù, để phân hóa và từng bước loại bỏ chúng.
Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi
nguồn lực sáng tạo của nhân dân tập trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc
ngoài, xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được;
phát động cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện kiên định thực hiện
mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thời kỳ kháng chiến; kết hợp sức
mạnh đoàn kết và sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam với việc tranh thủ tối đa
những điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn


bè quốc tế và các lực lượng tiến bộ đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống
phong kiến. Tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh
vực nhằm thúc đẩy xây dựng, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời đẩy nhanh cuộc
kháng chiến đến mau thắng lợi. Kết hợp nhuần nhuyễn cuộc đấu tranh trên mặt

trận quân sự làm nòng cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là nòng
cốt với xây dựng, phát triển nền tảng, cơ sở hạ tầng chính trị-xã hội vững chắc
để phát huy hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo và tổ chức của Đảng và Chính phủ đối
với cuộc kháng chiến trên thực tế. Kháng chiến, kiến quốc, chống đế quốc,
chống phong kiến, xây dựng hậu phương-căn cứ địa vững chắc luôn là những
nhiệm vụ cơ bản, cùng đồng hành trong mọi giai đoạn của cuộc kháng chiến và
là nội dung chủ yếu, xuyên suốt trong đường lối và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
cuộc kháng chiến của Đảng Lao động Việt Nam.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc
chiến tranh phù hợp với đặc thù của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
Phát triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm
của cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng ta địch, đó là loại hình chiến tranh
nhân dân, tồn dân, tồn diện. Kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du
kích cả ở mặt trận chính diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm, phát
huy sở trường, cách đánh địch sáng tạo, linh hoạt trong điều kiện so sánh lực
lượng không cân sức, hạn chế tối đa sở trường tác chiến và công nghệ, phương
tiện chiến tranh tiến tiến, hiện đại của địch; xây dựng và hình thành chiến thuật
tác chiến linh hoạt, cơ động và nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam “đánh
chắc, tiến chắc, chắc thắng”, thắng từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết
định.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng quân sự 3 thứ quân: Bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời
mọi yêu cầu của nhiệm vụ chính trị-qn sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng
mơ hình tổ chức bộ máy các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện của Việt
Nam và đóng vai trị là lực lượng nịng cốt, xung kích, làm chỗ dựa vững chắc
cho tồn dân đánh giặc. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết và
quan trọng nhất là về chính trị, trở thành cơng cụ sắc bén, tin cậy làm mũi nhọn,
nịng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho toàn dân đánh giặc. Đảng và quân
đội đã thành công trong xây dựng hình ảnh tốt đẹp mang danh hiệu “Bộ đội Cụ



Hồ”; xây dựng hình ảnh lực lượng Cơng an nhân dân, mang bản chất giai cấp và
tính nhân dân sâu sắc-công an là “Bạn dân” theo tư tưởng thân dân của Hồ Chí
Minh.
Năm là, coi trọng cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trị
lãnh đạo tồn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực,
mặt trận. Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
Minh bằng các hành động thực tế, bằng sự nêu gương mẫu mực, vai trò tiên
phong của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên của đảng trong quá
trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả căn cứ địa-hậu phương và vùng bị địch tạm
chiếm. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên mọi tầng lớp nhân
dân tham gia tích cực cơng cuộc kháng chiến, đề ra và thực hiện các chủ trương
chính sách nhằm động viên cao nhất, nhiều nhất sức dân, mọi nguồn lực trong
dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố vững chắc lòng
tin của nhân dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Cần chú ý khắc phục một số khuynh hướng tư tưởng giáo điều, chủ quan,
duy ý chí trong chỉ đạo, tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng và một số tổ chức
đảng. Trong đó đáng chú ý là: tư tưởng chủ quan, nóng vội, coi thường sức
mạnh của địch; tập trung cao độ vào nhiệm vụ quân sự, nhưng chưa chú ý đúng
mức đến nhiệm vụ xây dựng, kiến quốc, giải quyết hài hòa, thỏa đáng mối quan
hệ giữa huy động sức dân với bồi dưỡng, nâng cao sức dân trong kháng chiến;
học hỏi, tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm của nước ngồi có biểu hiện giáo điều,
dập khn, khơng tính đầy đủ đến hoàn cảnh lịch sử, điều kiện cụ thể, đặc điểm
của Việt Nam và từng địa phương, vùng miền, dân tộc, tôn giáo; trong chỉnh
đảng, chỉnh quân mắc vào chủ nghĩa phần trong công tác cán bộ, gây thiệt hại
cho đội ngũ cán bộ, giảm lòng tin trong nhân dân.




×