Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

định hướng phát triển & các biện pháp thúc đẩy TTSP & tăng doanh thu tiêu thụ tại Cty Vật tư –Vận tải – Xi măng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.27 KB, 35 trang )

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN
THIẾT CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM TRÊN THỊ
TRƯỜNG NHẬT BẢN
1.1. Lý luận chung về năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và phân loại
1.1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
“Cạnh tranh” là một khái niệm được nhắc đến nhiều nhất trong nền
kinh tế thị trường. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có nền
kinh tế thị trường, vì vậy mà khái niệm về cạnh tranh không còn gì xa lạ nữa.
Tuy nhiên vẫn có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về cạnh tranh.
Theo quan điểm của các học giả trường phái tư sản cổ điển thì “ cạnh
tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra
cho mỗi thành viên trong thị trường một khả năng hoạt động nhất định và
mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng với khả năng của mình”.
Khi đề cập đến vấn đề cạnh tranh thì từ điển bách khoa Việt Nam có
định nghĩa: “ Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những
người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung- cầu, nhằm giành các điều kiện
sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất”.
Mỗi trường phái, mỗi giai đoạn lịch sử lại có quan niệm khác nhau về
cạnh tranh nhưng chung lại thì cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ
thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp để đạt được mục tiêu kinh tế
của mình như chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như đảm bảo
tiêu thụ có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong cạnh
1
tranh là tối đa hóa lợi nhuận đối với người sản xuất và kinh doanh, tối đa hóa
lợi ích đối với người tiêu dùng. Quá trình cạnh tranh diễn ra vô cùng gay gắt,
chỉ có những chủ thể nào thích nghi nhanh chóng với môi trường cạnh tranh
mới có thể tồn tại và phát triển được.


1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, trong đó có một số cách phân
loại cơ bản sau đây:
- Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia thành hai loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành
+ Cạnh tranh giữa các ngành
- Xét theo mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo
+ Cạnh tranh không hoàn hảo
- Xét theo hành vi của các chủ thể trong cạnh tranh:
+ Cạnh tranh lạnh mạnh
+ Cạnh tranh không lành mạnh
- Xét theo chủ thể cạnh tranh:
+ Cạnh tranh giữa người mua với người bán
+ Cạnh tranh giữa người bán với người bán
+ Cạnh tranh giữa người mua với người mua
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, đòi hỏi
các chủ thể tham gia phải cạnh tranh từng ngày từng giờ để có thể giành lợi
thế về mình. Cạnh tranh tạo động lực phát triển kinh tế cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Khi mà nền kinh tế thị trường càng lan rộng ra trên thế giới thì vai
trò của cạnh tranh càng được thể hiện rõ nét. Cụ thể ở một số vai trò sau:
2
Thứ nhất, cạnh tranh buộc người sản xuất phải nhạy bén trong việc nắm
bắt nhu cầu của người tiêu dùng, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, đổi
mới trong quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thứ hai, cạnh tranh mang lại lợi ích to lớn đối với người tiêu dùng, đưa
người tiêu dùng tiếp cận được với những sản phẩm mẫu mã đẹp hơn, chất
lượng tốt hơn mà giá thành lại thấp hơn. Những nhu cầu tiêu dùng ngày càng
được thỏa mãn hơn do các sản phẩm mới được tung ra để cạnh tranh nhau.

Thứ ba, cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế do cạnh tranh chỉ giữ
lại những chủ thể có sức cạnh tranh cao, thích nghi nhanh chóng với sự thay
đổi của thị trường. Cạnh tranh mang lại lợi ích cho người sản xuất, người tiêu
dùng và cho toàn xã hội.
Ngoài những mặt tích cực trên thì cạnh tranh cũng để lại những hệ quả
không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội, tạo sự
phân hóa giàu nghèo mạnh mẽ, cạnh tranh không lành mạnh với những hành
vi vi phạm đạo đức và pháp luật, gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Do vậy
cần có sự quản lý, điều tiết của nhà nước.
1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh
tranh của sản phẩm
1.1.3.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Mỗi lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của rất nhiều
doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp lại mang những đặc trưng riêng của mình.
Do đó mà mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng không giống nhau, phụ
thuộc vào năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất nhu
cầu của khách hàng nhằm chiếm lĩnh thị phần lớn, thu lợi nhuận cao và phát
triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể
3
dựa trên các chỉ tiêu: thị phần, doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, nhân
lực, tổ chức quản trị trong doanh nghiệp, đóng góp cho xã hội…
Khái niệm nêu ra ở trên là năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp
còn xét về cấp độ sản phẩm thì năng lực cạnh tranh là sự thể hiện tính ưu việt
hay tính hơn hẳn của sản phẩm cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu
như: chất lượng sản phẩm, mẫu mã, mức độ vệ sinh công nghiệp, giá cả, uy
tín của sản phẩm trên thị trường…Biểu hiện tổng quát cuối cùng về năng lực
cạnh tranh của sản phẩm là sự phản ứng của người tiêu dùng thể hiện qua việc
mua hay không mua sản phẩm đó.

Như vậy, năng lực cạnh tranh là một chỉ tiêu tổng hợp. Muốn đánh giá
một cách chính xác năng lực cạnh tranh của sản phẩm hay của doanh nghiệp
phải dựa trên nhiều chỉ tiêu.
1.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Xét theo các cấp độ từ vĩ mô đến vi mô ta có:
Một là, các yếu tố thuộc môi trường quốc tế như các xu hướng trên thế
giới, các quy định, quy chế của các tổ chức quốc tế, các hiệp định giữa các
quốc gia, các tổ chức…
Hai là, các yếu tố thuộc môi trường quốc gia bao gồm các yếu tố kinh
tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ. Một quốc gia có
kinh tế càng phát triển, khoa học công nghệ càng cao thì sản phẩm có sức
cạnh tranh càng lớn, đặc biệt về chất lượng.
Ba là, các yếu tố thuộc môi trường ngành gồm có nhà cung ứng, khách
hàng, các sản phẩm thay thế, đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm năng. Khi
một doanh nghiệp có nhiều nhà cung ứng thì sẽ mua được nguyên liệu tốt với
giá rẻ. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình.
4
Bốn là, các nhân tố bên trong doanh nghiệp. Quan trọng nhất là các
nguồn lực trong doanh nghiệp như nguồn nhân lực, nguồn tài chính, điều kiện
cơ sở vật chất.. Ngoài ra còn có khả năng đổi mới và ứng dụng công nghệ, uy
tín thương hiệu của doanh nghiệp, của sản phẩm, chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp.
Các yếu tố này có tác động tổng hợp đối với năng lực cạnh tranh của
sản phẩm. Vì vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh một cách có hiệu quả,
các doanh nghiệp phải biết cách sử dụng các yếu tố và kết hợp chúng với
nhau một cách hài hòa nhất.
1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.1.4.1. Chất lượng sản phẩm
Đây là chỉ tiêu được quan tâm nhất khi người tiêu dùng lựa chọn sản

phẩm. Vì vậy chất lượng là chỉ tiêu quyết định trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh của sản phẩm. Các doanh nghiệp muốn sản phẩm của mình đánh bại
được các sản phẩm khác thì phải chú trọng tới việc nâng cao chất lượng sản
phẩm.
1.1.4.2. Giá cả của sản phẩm
Một sản phẩm có giá cả thấp hơn những sản phẩm cùng loại sẽ có sức
cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh bằng giá được rất nhiều các doanh nghiệp áp
dụng, đặc biệt khi mà nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì đây là
hình thức cạnh tranh vô cùng hiệu quả. Các doanh nghiệp Trung Quốc là ví
dụ điển hình về việc hạ giá thành sản phẩm.
1.1.4.3. Thương hiệu của sản phẩm
Thương hiệu của sản phẩm gắn liền với quá trình phát triển của doanh
nghiệp, là một chỉ tiêu rất khó định lượng. Nó thể hiện sự tin tưởng của người
tiêu dùng đối với sản phẩm và không thể lẫn với bất kì một sản phẩm nào
5
khác. Hiện nay, các doanh nghiệp rất coi trọng đến việc phát triển thương
hiệu để tạo một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
1.1.4.4. Hình thức thể hiện của sản phẩm
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về thẩm mỹ của con người lại càng
cao. Vì thế mà sản phẩm có kiểu dáng, mẫu mã càng đẹp thì càng được ưa
chuộng. Thay đổi kiểu dáng, mẫu mã một cách sáng tạo sẽ có tác động không
nhỏ đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
1.1.4.5. Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm
Thị phần là phần tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh trên
thị trường. Doanh nghiệp có thị phần càng lớn càng chứng tỏ hàng hóa tiêu
thụ được nhiều và có vị thế cao trên thị trường. Thị phần tăng nhanh giúp
doanh nghiệp tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất. Vì thế đây là mục tiêu quan
trọng của tất cả các doanh nghiệp.
1.2. Đặc điểm của thị trường Nhật Bản và sự cần thiết phải nâng cao
năng lực cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trên thị

trường Nhật Bản
1.2.1. Đặc điểm của thị trường Nhật Bản
1.2.1.1. Nhu cầu và đòi hỏi của thị trường Nhật Bản đối với hàng thủ công mỹ
nghệ
• Quan niệm và thị hiếu của người Nhật Bản
Thị trường Nhật Bản vốn được coi là thị trường tiềm năng nhưng vô
cùng khó tính. Quan niệm và thị hiếu tiêu dùng của người Nhật có nguồn gốc
từ truyền thống văn hóa lâu đời và điều kiện kinh tế - xã hội. Hiện nay, tỉ lệ
người cao tuổi ở Nhật Bản đang tăng nhanh tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt
của đời sống xã hội, trong đó có tập quán tiêu dùng. Người Nhật ngày càng
lựa chọn sản phẩm một cách kỹ tính hơn, tinh tế hơn, khắt khe hơn về chất
lượng. Tuy nhiên không vì thế mà người Nhật không quan tâm đến giá cả
6
hàng hóa. Những người tiêu dùng khó tính này rất cẩn trọng trong việc đo
đếm giá cả với tính năng sản phẩm họ mong muốn. Những sản phẩm đáp ứng
nhu cầu nhưng giá cả quá cao sẽ không được người Nhật chấp nhận.
Một điều thú vị khác là nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của người Nhật
mang tính thời vụ rất rõ rệt. Hầu hết các chủng loại và màu sắc hàng hóa được
lựa chọn theo mùa. Sản phẩm càng đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng càng được
ưa thích vì từ đó họ có nhiều chọn lựa và lựa chọn được sản phẩm ưng ý nhất.
Tóm lại, người Nhật Bản có thị hiếu tiêu dùng khá cao và luôn hướng
về những nét đẹp truyền thống. Vì vậy mà những sản phẩm truyền thống luôn
có sức hấp dẫn đối với họ, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
Một số mặt hàng được người Nhật vô cùng ưa thích như: lụa tơ tằm, đồ gốm,
mây tre đan, hàng sơn mài, thổ cẩm… Đây là điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam phát triển mặt hàng này trên thị trường Nhật Bản.
• Tác động của khủng hoảng kinh tế tới tập quán tiêu dùng của người
Nhật Bản
Từ những năm 1990, người tiêu dùng Nhật Bản được biết đến như
những người “ chịu chơi ” ưa dùng hàng hiệu đắt tiền thì nay, do tác động của

cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, họ bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến giá cả
hàng hóa và ưa thích dùng hàng giá rẻ. Nhiều người đang dần từ bỏ thói quen
tiêu dùng hàng xa xỉ để chuyển sang những mặt hàng thông thường, bình dân
hơn, tiêu biểu là giới trẻ ở Nhật. Những cửa hàng giá rẻ ngày càng xuất hiện
nhiều hơn trên đường phố thay cho những cửa hiệu lớn. Người Nhật đi mua
sắm bắt đầu mặc cả nhiều hơn và khi mặc cả được càng nhiều thì họ sẽ tiêu
dùng nhiều hơn. Không chỉ có giới trẻ, những bà nội trợ Nhật Bản cũng là
những người có rất nhiều thời gian mua sắm nên họ nắm bắt rất nhanh nhạy
về sự thay đổi của giá cả thị trường. Khi có biến động về kinh tế thì ngay lập
tức người Nhật sẽ cắt giảm chi tiêu và hàng TCMN là mục tiêu hàng đầu cho
7
cắt giảm để chi tiêu cho những nhu yếu phẩm cần thiết. Theo một cuộc điều
tra gần đây về vấn đề mà người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm nhất hiện nay
khi đi mua sắm thì hầu hết nhận được câu trả lời liên quan đến giá cả hàng
hóa. Vì thế, trong giai đoạn khó khăn này các doanh nghiệp muốn tiếp tục
đứng vững trên thị trường Nhật Bản thì ngoài việc đa dạng hóa mẫu mã sản
phẩm còn phải chú trọng rất nhiều đến những biện pháp hạ giá thành sản
phẩm. Đây là lý do vì sao các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ của Trung
Quốc luôn chiếm thị phần lớn trên thị trường Nhật Bản.
1.2.1.2. Những rào cản kĩ thuật đối với hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên
thị trường Nhật Bản
Hiện nay, Nhật Bản không có quy định hạn chế gì đặc biệt đối với hàng
thủ công mỹ nghệ như thị trường EU. Tuy nhiên đây là mặt hàng có nhiều
chủng loại khác nhau, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau có thể làm đồ
dùng hoặc vật trang trí, được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau nên theo
nguyên tắc cơ bản sẽ áp dụng những Luật riêng tùy theo loại nguyên liệu và
mục đích sử dụng.
• Áp dụng theo loại nguyên liệu sử dụng
Với những mặt hàng làm từ nguyên liệu thực vật như mây, tre, gỗ, rơm
rạ…thì phải kiểm dịch thực phẩm trước khi cho phép nhập khẩu. Một trong

những tiêu chuẩn mà các doanh nghiệp cần phải biết đó là tiêu chuẩn JAS. Hệ
thống tiêu chuẩn này được áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào
Nhật Bản và được người tiêu dùng đánh giá cao. Nó cho biết nguồn gốc xuất
xứ của sản phẩm và mức độ an toàn đối với người sử dụng- vấn đề mà tất cả
mọi người đều quan tâm.
Những mặt hàng làm từ da nguyên liệu động vật hoang dã và từ các loại thực
vật quý hiếm sẽ áp dụng các quy định theo điều ước Washington. Đặc biệt các
sản phẩm túi xách làm bằng da còn áp dụng quy định của Luật chống thông
8
tin sai lệch về hàng hóa, Luật thông tin chất lượng sản phẩm dùng trong gia
đình, Luật sở hữu trí tuệ về mẫu mã và quyền sản xuất riêng. Sở dĩ những mặt
hàng này được quản lý chặt chẽ là vì nguyên liệu làm ra chúng là từ những
loài động thực vật quý hiếm nên việc sản xuất có ảnh hưởng lớn tới Luật bảo
vệ động thực vật quý hiếm của nước sản xuất và nước cung cấp nguyên liệu.
Mặt khác giá trị của những sản phẩm này thường lớn đòi hỏi phải được kiểm
tra kỹ lưỡng về chất lượng nếu không sẽ mua phải hàng kém chất lượng.
• Áp dụng theo mục đích sử dụng của sản phẩm
Mặt hàng làm với mục đích sử dụng liên quan trực tiếp đến thực phẩm
của người sử dụng như các dụng cụ đồ ăn bằng gốm, sứ, mây tre, bát đũa…
ngoài việc kiểm tra nguồn gốc xuất xứ còn phải kiểm tra theo Luật vệ sinh an
toàn thực phẩm. Sau khi nhận mẫu từ người xuất khẩu, người nhập khẩu để
nguyên phong bì mang đến nơi kiểm dịch gần nơi sẽ nhập khẩu hàng đó. Cơ
quan này căn cứ vào chất liệu, độ màu, kích cỡ… để đưa ra mục cần kiểm tra.
Sau đó đóng lại và niêm phong để người nhập khẩu mang đến nơi kiểm tra
theo quy định của bộ Y tế Nhật Bản và yêu cầu kiểm tra theo mục đã chỉ định.
Sau khi kiểm tra an toàn vệ sinh, cơ quan này sẽ cấp giấy chứng nhận và
thông báo tới cơ quan kiểm dịch cửa khẩu. Nếu không có vấn đề gì thì người
nhập khẩu có quyền nhập sản phẩm theo đúng mẫu đã được kiểm định. Nếu
hàng hóa thay đổi về mẫu mã, màu sắc… thì phải xin kiểm tra lại.
Những mặt hàng được làm với mục đích khác không liên quan trực tiếp

đến thực phẩm như đồ dùng, đồ trang trí, đồ nội thất được kiểm dịch bình
thường theo nguyên liệu làm ra chúng.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu hướng về những nét đẹp truyền
thống càng tăng. Chính vì điều này mà ngành hàng thủ công mỹ nghệ ngày
9
càng thể hiện rõ nét vai trò của mình đối với phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Mỗi năm, ngành
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất
nước. Theo đánh giá của cục xúc tiến thương mại Việt Nam thì hàng thủ công
mỹ nghệ là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của nước ta. Kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này có sự tăng trưởng mạnh trong 10 năm gần đây, từ 274
triệu USD năm 2000 đến 880 triệu USD năm 2009, đóng góp một phần quan
trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Không chỉ có
vậy, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn có ý nghĩa lớn trong việc phát huy
những lợi thế so sánh của đất nước, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn
và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việt Nam là một thị trường có nguồn
lao động dồi dào, giá rẻ. Đặc biệt ở nông thôn, số lao động thất nghiệp nhiều
và chủ yếu là những lao động có trình độ thấp. Các làng nghề là nơi giải quyết
một số lượng lớn công ăn việc làm cho người dân nông thôn và góp phần
nâng cao đời sống của họ. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ tạo nguồn vốn nhập khẩu khoa học kĩ thuật từ các nước phát triển, thúc
đẩy sản xuất trong nước phát triển, tác động mạnh mẽ tới quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Hiện nay, hàng TCMN của Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 100
quốc gia trên thế giới. Trong đó, Nhật Bản được đánh giá là một thị trường
nhập khẩu lớn, luôn chiếm từ 10- 29% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Tuy nhiên, việc xuất khẩu
mặt hàng này sang Nhật Bản trong thời gian vừa qua gặp rất nhiểu khó khăn,

kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng nhưng vẫn còn nhỏ bé so với tiềm
năng của nó. Nguyên nhân là do thị trường Nhật Bản vốn là một thị trường
khó tính và ngày càng có nhiều đòi hỏi cao hơn, trong khi đó thì năng lực
cạnh tranh hàng TCMN của chúng ta là chưa cao.Trước thực tế trên, việc
10
nâng cao năng lực cạnh tranh hàng TCMN của Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội
đất nước.
1.3. Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ
của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
lớn trên thế giới. Tuy nhiên mặt hàng này của Việt Nam trên một số thị
trường vẫn chưa được đánh giá cao như sản phẩm của một số quốc gia như
Trung Quốc, Philippines, Đài Loan, Singapore…Và dưới đây là một số kinh
nghiệm của họ mà chúng ta có thể học tập để nâng cao năng lực cạnh tranh
hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
1.3.1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia đi đầu trong việc cải cách các làng nghề, xí
nghiệp thủ công ở nông thôn theo những nguyên tắc của nền kinh tế thị
trường. Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng các xí nghiệp hương trấn. Nhờ có
sự tồn tại của các xí nghiệp này mà các nghề phụ ở nông thôn đã trở thành
họat động kinh tế được chuyên môn hóa ngày càng cao. Tại đó, các nguyên
tắc thị trường đã được thực hiện rất tích cực và có hiệu quả như các đầu vào
và đẩu ra được hạch toán theo thị trường, thực hiện chế độ tự quản, chấp nhận
sa thải công nhân, tiền lương thưởng theo công việc… Sự cải cách này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mở rộng sản xuất thủ công mỹ nghệ và
thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này. Năm 1997, Trung Quốc ban hành luật về xí
nghiệp hương trấn tạo sự chuyển biến cho khu vực này. Nhiều xí nghiệp
hương trấn đã chuyển đổi thành các doanh nghiệp tư nhân hoặc các doanh
nghiệp cổ phần.

Bên cạnh đó, chính phủ còn ban hành nhiều biện pháp hỗ trợ cho các
doanh nghiệp. Thứ nhất, khuyến khích các hoạt động liên kết giữa các doanh
11
nghiệp dưới các hình thức khác nhau và trong các công đoạn khác nhau của
quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó có việc thành lập các hiệp hội ngành
nghề. Thứ hai, quan tâm nhiều hơn tới việc đào tạo và bồi dưỡng kiến thức
tay nghề cho lực lượng lao động, coi tri thức là công cụ chính để cạnh tranh.
Thứ ba, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp
như vốn, vật tư, kĩ thuật, thông tin… Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp
cận với chúng để cải thiện lợi thế cạnh tranh cho mình. Thứ tư, tiến hành hiện
đại hóa phương thức quản lý doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế. Thứ năm, tăng
cường công tác nghiên cứu thị trường để hỗ trợ thông tin cho các doanh
nghiệp, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhờ có sự hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước mà hiện nay các doanh
nghiệp Trung Quốc có khả năng thích nghi rất cao đối với sự biến động của
thị trường.
1.3.2. Kinh nghiệm từ Philipines
Philippines là quốc gia được đánh giá cao trong các thiết kế mang tính
chuyên nghiệp của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Khác với Trung Quốc,
hàng thủ công mỹ nghệ của Philippines trên các thị trường được bán với giá
rất cao nhưng sức cạnh tranh vẫn không hề thua kém. Có được kết quả này là
nhờ sự nhanh nhạy của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ to lớn từ phía chính
phủ.
Về phía các doanh nghiệp, họ đã biết khai thác thế mạnh về thiết kế của
mình tạo ra những sản phẩm độc đáo có sức cạnh tranh cao. Đa số các công ty
thủ công mỹ nghệ đều có thiết kế riêng, là những người am hiểu sâu sắc về
nguyên liệu của bản địa và cập nhật tốt nhất những thông tin về thị trường. Vì
thế mà các thiết kế có tính ứng dụng cao. Những nhà thiết kế được doanh
nghiệp cho hưởng đãi ngộ đặc biệt về lương, thưởng...
12

Về phía chính phủ, chính phủ Philippines đã có nhiều chính sách, biện
pháp hỗ trợ việc phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Thứ
nhất là chính sách tiếp cận thị trường thông qua việc thành lập ban xúc tiến
xuất khẩu, tổ chức các hội chợ quốc tế, xây dựng các văn phòng ở nông thôn
để hỗ trợ về thông tin và xuất khẩu. Thứ hai, hỗ trợ các doanh nghiệp và các
nghệ nhân như tổ chức các lớp đào tạo chuyên môn, mời các chuyên gia nước
ngoài, cho vay với lãi suất thấp… Thứ ba, quan tâm đến các vấn đề cơ sở hạ
tầng như thành lập các thư viện lưu trữ các thiết kế, giảm bớt các thủ tục hành
chính… Thứ tư, bảo hộ sở hữu trí tuệ trong nước và quốc tế - một vấn đề
chưa thực sự được chú trọng ở các nước đang phát triển.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc và Philippines có thể rút ra một
số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
- Sự quan tâm đầu tiên và lớn nhất khi nâng cao năng lực cạnh tranh là
cải cách phương thức tổ chức quản lý doanh nghiệp. Các xí nghiệp hương trấn
của Trung Quốc đã thể hiện sự cải cách thành công trong tổ chức quản lý các
làng nghề thủ công ở nông thôn.
- Chính phủ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao khả năng
cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên sự tham gia này phải mang
tính chọn lọc và được thực hiện thông qua ban hành chính sách.
- Trong nền kinh tế tri thức hiện này, việc áp dụng khoa học kĩ thuật
vào sản xuất là vô cùng cần thiết. Vì vậy, chính phủ cũng như các doanh
nghiệp phải quan tâm nhiểu hơn tới giáo dục, đào tạo lực lượng lao động để
có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
13
- Mặc dù nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước nhưng việc nhập khẩu
nguồn nguyên liệu từ nước ngoài cần thiết, đặc biệt là những nguyên liệu
hiếm.
- Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung luật sở hữu trí tuệ. Điều này sẽ kích

thích sự sáng tạo của các nghệ nhân có những thiết kế đẹp, độc đáo.
Những bài học kinh nghiệm trên đây đã tạo nên sự thành công to lớn
cho Trung Quốc và Philippines, và nó cũng sẽ mang lại thành công cho Việt
Nam nếu chúng ta áp dụng nó một cách phù hợp.
14

×