Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn: Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 94 trang )



Luận văn
Tăng cường huy động vốn
tại Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Đại Dương
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2
1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại 2
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu 3
1.1.2. Nguồn tiền gửi 6
1.1.3. Nguồn vốn đi vay 8
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 11
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn 11
1.2.2. Các hình thức huy động vốn 13
1.2.2.1. Theo đối tượng huy động 13
1.2.2.2. Theo phương thức huy động 14
1.2.2.3. Theo thời gian huy động 16
1.2.2.4. Theo loại tiền huy động 17
1.2.3. Tăng cường huy động vốn của NHTM 17
1.2.3.1 Khái niệm 17
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại 18
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại 23
1.3.1. Các nhân tố chủ quan 23
1.3.2. Các nhân tố khách quan 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN


HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI DƯƠNG 27
2.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương. 27
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 27
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ. 29
2.1.3. Tổ chức bộ máy của ngân hàng TMCP Đại Dương 30
2.1.3.1.Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Đại Dương 30
2.1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng thời gian qua 36
2.1.4.1.Huy động vốn 36
2.1.4.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng 39
2.1.4.3.Hoạt đồng đầu tư của Ngân hàng 40
2.1.4.4.Hoạt động kinh doanh đối ngoại - Tài trợ thương mại 43
2.1.4.5.Công tác phát triển các dịch vụ Ngân hàng 43
2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Đại Dương 45
2.2.1 Tình hình huy động Vốn tại Ngân hàng Đại Dương 45
2.2.2 Vị trí nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn 49
2.2.4 Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng Đại Dương 52
2.2.5. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương 53
2.3.Đánh giá chung huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương 59
2.3.1. Những kết quả đạt được 59
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 61
2.3.2.1. Những hạn chế 61
2.3.2.2. Nguyên nhân. 61
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG ĐẠI DƯƠNG 66
3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG 66
3.1.1. Mục tiêu của ngân hàng Đại Dương 66
3.1.2 Định hướng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Đại Dương
đến năm 2011 67
3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG. . 70

3.2.1 Chú trọng công tác huy động vốn từ dân cư 70
3.2 2 Mở rộng hình thức huy động vốn 73
3.2.3. Vận dụng chế độ lãi suất linh hoạt 78
3.2.4. Hoàn thiện tiện ích phục vụ người gửi tiền: 80
3.2.5. Nâng cao uy tín Ngân hàng 82
3.2.6. Xây dựng các chương trình marketing hiệu quả 83
3.2.7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 84
3.3 KIẾN NGHỊ 86
3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước 86
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 87
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90


1
LỜI MỞ ĐẦU

Để có thể tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải lựa chọn
cho mình con đường đi phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương
hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Phương pháp tốt nhất giải quyết
vấn đề của mình trong bối cảnh hiện nay là các ngân hàng thương mại phải tăng
cường họat động huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của
đất nước, từ đó có thể đảm bảo khả năng thanh tóan, phát triển các hoạt động đầu
tư và cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình
Hiện nay ngân hàng Đại Dương đang xây dựng được mối quan hệ khá
tốt với khách hàng của mình trên thị trường cho vay. Tuy nhiên tình hình huy
động vốn vẫn gặp phải những khó khăn nhất định ảnh hưởng nghiêm trọng
đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Trên thực tế cho thấy các khoản huy
động của Đại Dương chưa mang tính chiều sâu, phạm vi huy động chưa được
mở rộng và chưa mang tính chủ động cao. Đặc biệt trong tình hình tài chính

căng thẳng và nhiều biến động như hiện nay thì ngân hàng nào huy động vốn
tốt, ngân hàng nào có nguồn vốn dồi dào thì họ sẽ đạt nhiều thành công.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát triển
của ngân hàng, nhất là những thời điểm diễn biến tình hình tài chính biến động
như hiện nay và tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời điểm hiện
nay, em đã chọn đề tài nghiên cứu “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đại Dương”. Đề tài có kết cấu gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đại Dương.
Chương 3: Giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đại Dương

2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính thực hiện chức năng
kinh doanh tiền tệ. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác
nhau, chẳng hạn ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng quốc
doanh và các ngân hàng liên doanh. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM
luôn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó, công cụ duy
nhất mà các ngân hàng phải có là vốn.
NHTM lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh. Do đó, vốn của NHTM
chủ yếu phải là vốn bằng tiền. Để có thể hoạt động, ngân hàng phải có một số
vốn nhất định (vốn pháp định), tuy nhiên ngân hàng kinh doanh phần lớn dựa
trên số vốn huy động. Đó là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi

trong qúa trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của
chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách
khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng, để rồi
ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu nhập. Với số vốn huy động được,
các NHTM tiến hành kế hoạch kinh doanh để trang trải chi phí huy động và
tích lũy, phục vụ sự phát triển lâu dài. Có nhiều hình thức sử dụng vốn với
các mức độ sinh lời và rủi ro khác nhau, tùy thuộc vào định hướng cũng như
cách thức thực hiện của từng đơn vị.
Như vậy, nguồn vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo
lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh khác.

3
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng
tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập
một ngân hàng. Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản
đảm bảo gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh tóan trong
trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ.
 Nguồn vốn hình thành ban đầu
Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng
được yêu cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức
vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác
với vốn pháp định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được
ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải
bằng vốn pháp định. Khi ngân hàng bứơc vào hoạt động thì nguồn vốn này
được thể hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết bị, dự trữ…, và ngân
hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích lập quỹ phúc lợi
khen thưởng.

Theo Nghị định số 141/2006/NĐ- CP ban hành ngày 22 tháng 11 năm
2006 của Chính phủ quy định, mức vốn pháp định đối với NHTM Nhà nước,
đầu tư là 3.000 tỷ đồng; các NHTM cổ phần, liên doanh, hợp tác, 100% vốn
nước ngoài và Quỹ tín dụng nhân dân TƯ là 1.000 tỷ (3.000 tỷ vào 2010).
Vốn pháp định của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD…
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn điều lệ không phải
luôn giũ cố định mà vẫn được bổ sung và tăng dần theo các hình thức: ngân
sách nhà nước cấp thêm, huy động thêm từ các cổ đông, lợi nhuận tích lũy…
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.

4
 Cổ phần phát hành thêm, ngân sách nhà nước cấp thêm
Để mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro các
NHTM cổ phần có thể huy động thêm vốn bằng con đường phát hành thêm cổ
phiếu (có thể là cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu ưu đãi), các NHTM thuộc sở
hữu nhà nước có thể xin cấp thêm vốn ngân sách, các ngân hàng tư nhân hay
ngân hàng liên doanh có thể cùng nhau góp thêm vốn.
 Lợi nhuận bổ sung
Khi ngân hàng hoạt động hiệu quả và có lãi, chủ ngân hàng có xu hướng
gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư. Tỷ lện tích lũy tùy thuộc vào khả năng hoạt động cũng như chính sách
gia tăng vốn chủ của mỗi ngân hàng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập
ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình
thành ban đầu.
 Các quỹ
Ngoài nguồn vốn hình thành ban đầu, NHTM còn có các quỹ dự trữ, các
quỹ này được coi là nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng và hằng năm được
bổ sung từ lợi nhuận ròng của ngân hàng đó. Tùy theo quy định của từng quốc
gia, các ngân hàng phải thực hiện trích lập các quỹ khác nhau. Thông thường

các NHTM phải lập các quỹ:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
Quỹ được trích lập theo tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng lợi nhuận
ròng (có mức giới hạn do pháp luật từng nước quy định). Tại Việt Nam, theo
quy định, hàng năm các NHTM được trích lập 5% lợi nhuận sau khi hoàn
thành nộp thuế thu nhập doanh nghiệp để hình thành quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ. Mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ thực có của
NHTM.

5
 Quỹ đầu tư phát triển
Quỹ đầu tư phát triển dùng để đầu tư mở rộng quy mô hoạt động kinh
doanh đổi mới công nghệ, trang thiết bị của NHTM. Căn cứ vào nhu cầu đầu
tư và khả năng của quỹ, hội đồng quản trị của NHTM quyết định hình thức và
biện pháp đầu tư theo nguyên tăcc có hiệu quả, an toàn phát triển vốn.
Quỹ dự phòng tài chính
Quỹ dự phòng tài chính được hình thành từ lợi nhuận hàng năm và được
dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra
trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của
các cá nhân, tổ chức gây ra tổn thất, của các tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự
phòng trích lập từ chi phí. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quỹ này
được trích bằng 10% lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp và đã trừ đi
các khoản phải trừ như trích quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ. Số dư tối đa của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của NHTM
Ngòai ra, các NHTM còn có thể trích lập các quỹ sau:
 Quỹ bảo tòan vốn
Khi nền kinh tế có lạm phát, quỹ này nhằm bảo toàn vốn bằng cách tăng
quy mô vốn tự có của ngân hàng. Khi nền kinh tế ổn định, các NHTM có thể
không cần lập quỹ này.
 Quỹ thặng dư vốn

Đối với các NHTM cổ phần trong đợt phát hành cổ phần mới, nếu thị
giá của cổ phiếu mà lớn hơn mệnh giá của cổ phiếu đó thì phần chênh lệch
giữa thị giá và mệnh giá được ngân hàng hạch toán vào quỹ thặng dư vốn.
 Quỹ đánh giá lại
Do giá trị thị trường của các tài sản đặc biệt mà ngân hàng nắm giữ như
bất động sản, chứng khoán… có xu hướng biến động mạnh trong từng thời kì

6
khác nhau nên quỹ này nhằm ghi chép phần chênh lệch do đánh giá lại giá trị
của các tài sản và nợ của ngân hàng. Dựa vào quỹ này, nhà quản lý ngân hàng
có thể theo dõi và đánh giá giá trị thị trường của nguồn vốn chủ sở hữu.
 Các quỹ khác
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần như trái phiếu có khả năng chuyển đổi có thể được coi là
một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do một số đặc
điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể không
phải hoàn trả khi đến hạn. Nguồn vốn này thực sự là một công cụ hữu hiệu
đối với ngân hàng trong việc gia tăng vốn chủ sở hữu mà lại không làm mất đi
quyền kiểm soát của các cổ đông hiện hữu.
- Theo điều 4 Quyết định 457/2002/QĐ- NHNN thì các “Tổ chức tín
dụng, trù chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa
vốn tự có so với tổng tài sản “Có” có điều chỉnh rủi ro.
1.1.2. Nguồn tiền gửi
Nguồn tiền gửi của NHTM là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động
được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua nghiệp vụ
tiền gửi, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để
kinh doanh.
Bản chất của nguồn vốn này là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau.
Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách

nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn (tiền gửi có kì hạn) hoặc
khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi không kì hạn). Tiền gửi đóng vai trò rất
quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
 Tiền gửi
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 2004 – sửa đổi, bổ sung Luật các tổ

7
chức tín dụng 1997 quy định rằng “Tiền gửi là số tiền các tổ chức, cá nhân
gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới
hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm và các
hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi, không hưởng lãi và phải được hoàn
trả cho người gửi tiền.”
 Tiền gửi không kì hạn
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân gửi vào
ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho
phép, các nhu cầu chi trả của đối tượng gửi tiền đều được ngân hàng thực
hiện. Với nội dung chi trả như vậy và việc sử dụng séc để thanh toán nên tài
khoản tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán hay
tài khoản có thể phát séc. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp, tổ chức
xã hội, cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rấy thấp hoặc bằng không, thay vào
đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng.
 Tiền gửi có kì hạn
Nhiều khỏan thu bằng tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân sẽ
được chi trả sau một thời gian xác định. Vì thế trong một khoảng thời gian
nhất định, các tổ chức, cá nhân này có một khoản tiền nhàn rỗi muốn gửi vào
ngân hàng nhằm mục đích an toàn và gia tăng thu nhập. Tiền gửi thanh toán
tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng
nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có

kì hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của một tầng lớp dân cư chưa
sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một

8
cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một
dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế,
trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại
hình tiết kiệm: tiền gửi tiết kiệm không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn.
Khoản tiền gửi tiết kiệm không kì hạn là khoản tiền gửi tiết kiệm có thể rút ra
bất kì lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho
người khác. Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời
hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kì
hạn. Hình thức tiền gửi này được ngân hàng đa dạng hóa thành các kì hạn với
các mức lãi suất tương ứng khác nhau, thỏa mãn tốt nhất yêu cầu của mọi đối
tượng khách hàng.
1.1.3. Nguồn vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Tuy nhiên, khi
các ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động
thì các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi
vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với ngân hàng nhà nước, hoặc giữa
NHTM với nhau, với các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường.
Nguồn đi vay mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng nó
đảm bảo cho ngân hàng hoạt động liên tục, thông suốt. Theo đối tượng vay,
tiền vay được chia thành ba loại bao gồm vay các tổ chức tín dụng và vay
Ngân hàng Nhà nước và vay trên thị trường.
 Vay Ngân hàng Nhà nước (vay Ngân hàng Trung ương)
Vay Ngân hàng Nhà nước là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp
bách trong chi trả khi NHTM thiếu hụt dự trữ, thiếu khả năng chi trả hoặc quá

kẹt vốn. Đây là nguồn cứu tinh sau cùng cho các NHTM để tránh vấp phải
khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, việc vay Ngân hàng nhà nước phụ thuộc
rất nhiều vào việc ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách nới lỏng

9
hay thắt chặt tiền tệ. Khi Ngân hàng Nhà nước đang hạ lãi suất chiết khấu, nới
lỏng cung ứng tiền tệ nhằm kích thích đầu tư thì các NHTM có thể có nguồn
vốn dồi dào với chi phí thấp.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay Ngân hàng
Nhà nước được chia thành các loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh
toán và vay tái cấp vốn.
 Vốn vay ngắn hạn bổ sung
Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các NHTM xin vay Ngân hàng
Nhà nước vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức này, các
NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã
thỏa thuận.
 Vốn vay để thanh toán
Các NHTM vay Ngân hàng Nhà nước nhằm thực hiện công tác thanh
toán giữa các ngân hàng để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (Thời
hạn vay loại này thường ngắn).
 Tái cấp vốn
Ngân hàng Nhà nước cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá là các
thương phiếu. Các thương phiếu này phải là các thương phiếu có chất lượng,
tức là phải thỏa mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn, thời
gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của ngân
hàng. Tái cấp vốn bao gồm hai hình thức:
- Cho vay tái chiết khấu: Ngân hàng Nhà nước nhận các thương phiếu
mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như
trước đây các NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với
các NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để

thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.

10

- Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các thương phiếu
đến Ngân hàng Nhà nước để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng
mệnh giá các chứng từ có giá làm đảm bảo, Ngân hàng Nhà nước sẽ cho vay
theo tỷ lệ nhất định tùy theo sự quản lý của Nhà nước.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng do trong quá trình hoạt động,
cũng có lúc các NHTM thiếu hụt dự trữ hoặc thiếu tiền mặt, buộc phải vay
mượn các tổ chức tín dụng khác. Các tổ chức tín dụng đang có dự trữ vượt
yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm
cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao
hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức
thời để đảm bảo thanh toán. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác
là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó
bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Quan hệ
vay mượn này diễn ra khá thường xuyên nhưng chỉ trong một thời gian ngắn
thường là dưới một tuần hoặc chỉ trong vài ngày do tính chất của các khoản vay
này là đáp ứng nhu cầu trước mắt, hoặc do các NHTM không muốn lạm dụng
hình thức vay mượn này. Quá trình vay mượn rất đơn giản.
 Vay trên thị trường
Bên cạnh phương thức vay trên, các NHTM còn có thể vay trên thị
trường tiền tệ và thị trường vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu và trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ nàu là ngân hàng huy động vốn
tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi và
kỳ phiếu là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu
nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được ngân hàng phát hành từng

đợt, tùy theo mục đích với sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước hoặc ủy
ban chứng khóan nhà nước.

11

Các nguồn khác
Do quá trình hoạt động, thanh toán và cung cấp các dịch vụ, nguồn vốn
của NHTM còn bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và tiền khác.
 Nguồn ủy thác
Thông qua nghiệp vụ đại lý, thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác
cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân, thu hộ… các
NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi
hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn
cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo
tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào
kinh doanh. Khi thực hiện các dịch vụ này, mạng lưới các NHTM được sử
dụng như là kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Do vậy, vốn hình thành từ nguồn
ủy thác thường không mấy chi phí.
 Nguồn trong thanh toán
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một
khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khỏan mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân
hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại… Các khoản tiền tạm thời được
trích khỏi tài khỏan này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng nên tạm thời
được coi là tiền nhàn rỗi.
 Tiền khác
Bao gồm các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán như lương chưa trả,
thuế chưa nộp…
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn

Vốn là những giá trị tiền tệ do doanh nghiệp tạo lập hoặc huy động được,

12

là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản
tài chính được đầu tư vào các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh,
đối ngoại, trong đó chủ yếu là bỏ vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
nhằm tạo ra lợi nhuận. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động
kinh doanh được thì điều kiện trước nhất là phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh
năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Với đặc thù là kinh
doanh chủ yếu dựa trên đồng vốn vay mượn của người khác, nguồn vốn có
vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống còn của NHTM
 Vốn là cơ sở để các NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ
kinh doanh. Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các NHTM để được phép hoạt
động. Ngay từ khi bước vào hoạt động, các ngân hàng cần vốn để mua đất
đai, xây dựng cở sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, và những điều kiện làm
việc khác. Và với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của
NHTM.
 Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng và
các hoạt động khác
Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp
quy mô hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, khả năng thanh tóan, chi
trả cũng như các họat động khác. Thông thường, so với các ngân hàng lớn,
các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm
vi và đối tượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi đó,
các ngân hàng lớn dễ dang mở rộng phạm vi cho vay, không chỉ trên địa bàn
mình mà còn hướng ra khu vực và quốc tế. Thêm vào đó, do khả năng vốn
hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến

động về lãi suất, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các
tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế.

13

 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
Như đã trình bày ở trên, phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn
tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Đặc điểm của nguồn tiền này là
hoàn trả khi có yêu cầu, nên ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với nhu
cầu rút tiền của khách hàng. Vì thế năng lực thanh toán cao là yếu tố các ngân
hàng cần phải đảm bảo và luôn được chú trọng.
Vì vây, việc nâng cao hoạt động huy động vốn để tạo ra nguồn vốn lớn
trong ngân hàng đã gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán cũng như uy tín
của ngân hàng trên thương trường.
 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, kinh doanh ngân hàng đang là một
lĩnh vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Vì thế việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của mỗi ngân hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà quản lý ngân
hàng. Trong lĩnh vực này rất khó có thể tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch
vụ hay lãi suất. Do đó, để có thể thu hút khách hàng, ngân hàng phải có một
tiềm lực tài chính mạnh và ổn định. Tiềm lực tài chính mạnh được xây dựng
dựa trên một nguồn vốn lớn. Khả năng vốn lớn là điều kiện để các ngân hàng
mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các tổ chức, cá nhận trong nền kinh tế,
vốn lớn tăng quyền chủ động của ngân hàng trong việc thỏa thuận quy mô, kỳ
hạn, thời hạn, thậm chí cả lãi suất.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được nguồn
vốn lớn, các NHTM phải tìm cách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đáp ứng
tối đa nhu cầu và thỏa mãn mọi mong muốn của khách hàng. Vì thế, theo
các tiêu thức khác nhau có thể phân các hình thức huy động vốn thành các

loại khác nhau.
1.2.2.1. Theo đối tượng huy động
 Huy động vốn từ dân cư

14

Trong nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao thì ngoài
khỏan tiền tiêu dùng, các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời
nhàn rỗi. Nhằm mục đích đảm bảo an toàn và sinh lời, họ có thể sử dụng các
hình thức đầu tư như mua vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản, cổ phiếu hay
trái phiếu. Các hình thức này mặc dù mang lại nguồn lợi nhuận cao nhưng lại
tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Do đó, trong đại bộ phận dân chúng thì đều chọn
hình thức gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng vừa được đảm bảo an toàn, vừa có
thể thu được một khoản lợi tức nhất định. Tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng tiền
mặt mà khách hàng có thể lựa chọn các hình thức gửi tiền khác nhau với các
kì hạn khác nhau.
 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và các tổ
chức khác
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong
và ngoài nứơc, các tổ chức xã hội khác như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang, tổ chức chính trị xã hội… Phần lớn mục đích của nguồn tiền gửi này là
nhằm mục tiêu thanh tóan, hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Bên cạnh đó,
còn nhằm mục đích sinh lời đối với khỏan tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng.
1.2.2.2. Theo phương thức huy động
 Huy động tiền gửi
 Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và
ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn
có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người
ta phân chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy

- Tiền gửi thanh toán: đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến
hành thanh tóan, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khỏan chi
khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và

15

thuận tiện. Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khỏan phải trả
cho ngân hàng một khỏan phí.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: đây là khoản tiền của doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể
nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay,
không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến
ngân hàng rút ra để chi tiêu. Hình thức gửi tiền này không được ngân hàng
cho phép phát hành séc.
 Tiền gửi có kì hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng
về thời gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,
cá nhân, có nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với
mục đích hưởng lãi.
Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn và tiền
gửi báo rút (tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền
gửi có kì hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi
trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai nên không thẻ phát séc. Thông thường,
tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
 Tiền gửi tiết kiệm
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐ-
NHNN của thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ “ Tiền gửi tiết kiệm là
khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận
trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết

kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai
loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc
nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.

16

- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có
thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận
tiền gửi tiết kiệm.
 Phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy
động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sự dụng cho
một mục đích nào đó. Các giấy tờ có giá do NHTM phát hành bao gồm kỳ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
1.2.2.3. Theo thời gian huy động
 Ngắn hạn
Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản
huy động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa dạng
hóa các sản phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ hạn theo
ngày, tuần, tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
thường cao. Theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều
chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1
năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12
tháng là 11% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền
thường được khách hàng ưa chuộng nên chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn
huy động.
 Trung và dài hạn

Do ngân hàng chủ yếu là cho vay dài hạn nên để nâng cao khả năng
thanh khoản cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM thường huy động
các nguồn tiền trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (từ 60
tháng trở lên). Do kỳ hạn dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền này thường
cao. Theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh
dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm
2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là

17

5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền có chi phí
cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn so với nguồn ngắn hạn trong tổng nguồn vốn
huy động và thường được cho vay, đầu tư vào các dự án có tính khả thi cao.
1.2.2.4. Theo loại tiền huy động
Căn cứ vào tính thanh khoản, mức độ ưa thích, nhu cầu dự trữ, đầu tư
của người dân mà ngân hàng có thể huy động bằng nội tệ (VNĐ) hoặc là
ngoại tệ (ngoại tệ mạnh).
 Huy động bằng nội tệ
Do quá trình tích lũy và nhu cầu tiêu dùng, thanh toán trong nước nên
khách hàng thường gửi tiền bằng đồng nội tệ. Do đó, nguồn vốn này thường
chiếm phần lớn trong nguồn vốn huy động và có lãi suất cao hơn.
 Huy động bằng ngoại tệ
Từ nhu cầu thanh toán trong xuất nhập khẩu hàng hóa với yêu cầu đầu
tư, cất trữ bằng các ngoại tệ mạnh của khách hàng đã làm nên nguồn vốn huy
động bằng ngoại tệ trong ngân hàng. Do sự biến động về tỷ giá nên lãi suất
huy động của loại này thường thấp hơn so với huy động bằng nội tệ.
1.2.3. Tăng cường huy động vốn của NHTM
1.2.3.1 Khái niệm
Tăng cường theo từ điển Việt Nam có nghĩa là làm cho mạnh thêm,
nhiều thêm hoặc là sự gia tăng về mặt cơ học để đạt được mục tiêu.

Tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại là việc đưa ra các
biện pháp, giải pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng
thương mại.
Mục tiêu của việc tăng cường huy động vốn của các ngân hàng thương
mại chính là tạo ra sự chủ động về vốn trong hoạt động kinh doanh để từ đó
nâng cao hiệu quả kinh doanh trong ngân hàng thương mại.
Hiệu quả của việc tăng cường huy động vốn là yếu tố quyết định tới qui
mô đầu tư, cho vay của NHTM. Việc tăng cường trong công tác HĐV là
nhiệm vụ hàng đầu mà các ngân hàng đặt ra.

18

Lượng vốn huy động hàng năm phải lớn, chi phí bỏ ra ít nhưng vẫn thu
hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, các TCTD hay các TCKT. Nguồn
vốn huy động phải đáp ứng nhu cầu đầu tư, cho vay của ngân hàng. Lợi nhuận
mang lại từ nguồn vốn huy động phải đạt được so với các chỉ tiêu mà ngân
hàng đặt ra. Tránh tình trạng huy động vốn một cách ồ ạt nhưng lại không
được mang ra sử dụng, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh.
Nguồn vốn huy động phải phù hợp với công tác sử dụng vốn thì hoạt động
kinh doanh mới có hiệu quả.

1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Để đánh giá hiệu quả vốn huy động, cần xem xét các chỉ tiêu: Mức độ
tăng trưởng vốn ổn định, quy mô vốn phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, chi
phí vốn, kỳ hạn vốn hợp lý.
a. Mức tăng trưởng ổn định của vốn huy động
Vốn huy động tăng trưởng ổn định theo thời gian sẽ đáp ứng nhu cầu tín
dụng cũng như hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của ngân hàng.
Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn đủ lớn phù hợp với quy mô và

nhu cầu của mình, thì giả sử như khi có một lượng tiền lớn bị rút ra cũng sẽ
không gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng, ngân hàng sẽ không
gặp khó khăn trong vấn đề thanh khoản. Vốn huy động tăng trưởng ổn định sẽ
khẳng định được vị thế uy tín và thương hiệu của ngân hàng. Một ngân hàng
có đủ tiềm năng về tài chính cũng như uy tín mới có thể giữ được mức tăng
trưởng về huy động vốn ổn định qua các năm. Tính ổn định của vốn huy động
quyết định một phần an toàn trong kinh doanh ngân hàng và thời hạn tín
dụng. Nó phản ánh khả năng tìm kiếm các khoản nợ mới nhanh chóng với lãi
suất thấp nhằm tăng cường khả năng thanh khoản cho ngân hàng. Vốn huy
động tăng trưởng ổn định sẽ tạo lập và định hướng chiến lược kinh doanh cụ
thể của ngân hàng trong việc sử dụng vốn có hiệu quả.

19

b. Quy mô và Cơ cấu nguồn vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử
dụng vốn
Xuất phát từ kế hoạch sử dụng vốn để có chiến lược HĐV phù hợp.
HĐV đảm bảo phù hợp với sử dụng vốn cả về loại tiền, kỳ hạn, lãi suất sẽ góp
phần đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và thực hiện đúng cam kết với
khách hàng. Quy mô nguồn vốn của một NHTM cần phải có sự ổn định, phù
hợp với lãi suất và kỳ hạn của nó. Sự gia tăng nguồn vốn theo tiêu chí nào là
một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện để
ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và ổn định
của nguồn vốn. Quy mô nguồn vốn cần phải được xây dựng theo từng giai
đoạn, tùy thuộc vào định hướng chiến lược phát triển chung của ngân hàng,
khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Trên thực tế ngân
hàng không thể sử dụng hết số vốn huy động được để cho vay mà phải giữ lại
một tỷ lệ nhất định để đảm bảo khả năng thanh khoản nhằm mục đích an toàn
trong hoạt động kinh doanh, sử dụng để chi trả khi khách hàng có nhu cầu rút
tiền. Tính thanh khoản của vốn huy động được đo bằng khả năng tìm kiếm

nguồn vốn mới với chi phí và thời gian bỏ ra thấp nhất. Thanh khoản hợp lý
là không tích trữ quá nhiều các nguồn vốn khả dụng, tích trữ quá nhiều sẽ làm
giảm tỷ suất sinh lời của vốn. Một ngân hàng được xem là có tính thanh
khoản nếu như ngân hàng đó có khả năng huy động được vốn khả dụng với
chi phí thấp vào đúng thời điểm phát sinh yêu cầu thanh khoản. Cầu thanh
khoản chủ yếu phát sinh khi nhu cầu rút tiền gửi và nhu cầu vay vốn của
những khách hàng có chất lượng tín dụng cao nhưng lại không báo trước với
NHTM, nhu cầu nộp thuế, trả cổ tức, thanh toán các khoản vay từ NHNN và
các NHTM khác. Cung thanh khoản thông thường có 3 nguồn chính: Dự trữ
sơ cấp hay còn gọi là tiền mặt hay ngân quỹ; các tài sản khác có tính thanh
khoản cao: chứng khoán khả mại, trái phiếu, tín phiếu kho bạc; vốn vay trên
thị trường tiền tệ để bổ xung thanh khoản. Nếu cung thanh khoản lớn hơn cầu

20

thanh khoản thì ngân hàng vẫn còn dư vốn, ngân hàng nên tiếp tục đầu tư có
hiệu quả nguồn vốn khả dụng cho tới khi yêu cầu thanh khoản mới xuất hiện.
Nếu cung thanh khoản nhỏ hơn cầu thanh khoản thì ngân hàng phải có kế
hoạch bổ xung nguồn vốn khả dụng từ các nguồn khác nhau sao cho chi phí
thấp nhất. Thanh khoản mang tính thời điểm đòi hỏi ngân hàng phải hết sức
thận trọng vì khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ khi nào. Thanh khoản mang
tính thời kỳ bao giờ cũng gắn với tính chất và chu kỳ do đó ngân hàng có thể
sử dụng nhiều nguồn để đáp ứng.
Mặt khác, mục đích của ngân hàng là huy động để cho vay và đầu tư,
nên ngân hàng thường tìm cách khai thác và sử dụng tối đa số vốn và huy
động để sử dụng hiệu quả cao nhất chi phí vốn đã bỏ ra, mang lại nhiều nhất
lợi nhuận cho ngân hàng. Nếu huy động vốn nhiều nhưng sử dụng vốn ít thì
kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng sẽ không có hiệu quả. Tuy
nhiên điều này cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng phải đối mặt với những
nguy cơ rủi ro cao, do đó các ngân hàng phải cân nhắc kỹ xem nên huy động

vốn ở mức nào để đảm bảo hoạt động có hiệu quả mà vẫn an toàn .
Hơn thế nữa, tỷ trọng các loại vốn ngắn hạn, trung dài hạn, nội tệ ngoại
tệ ở mức hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Bất cứ một
sự không phù hợp nào về kỳ hạn cũng sẽ mang lại bất lợi cho ngân hàng. Nếu
không có sự phù hợp về loại tiền, ngân hàng sẽ chịu chi phí để chuyển đổi từ
nguồn tiền đã được huy động sang loại tiền cần sử dụng và như vậy thì có thể
gặp rủi ro về tỷ giá. Nếu không có sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn
và sử dụng vốn thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro về kỳ hạn. Đây là những nguy cơ
tiềm ẩn mà ngân hàng phải đối mặt khi sử dụng các kế hoạch huy động vốn.
c. Chi phí huy động vốn bình quân hợp lý:
Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động huy động vốn vì nó
quyết định trực tiếp tới phương thức sử dụng vốn và đặc biệt hơn cả là lợi
nhuận của ngân hàng. Chi phí huy động vốn bình quân được thể hiện thông

21

qua chỉ tiêu về lãi suất đầu vào bình quân.
C
C
ó
ó


h
h
a
a
i
i



c
c
á
á
c
c
h
h


t
t
í
í
n
n
h
h


l
l
ã
ã
i
i


s

s
u
u


t
t


đ
đ


u
u


v
v
à
à
o
o


b
b
ì
ì
n

n
h
h


q
q
u
u
â
â
n
n
:
:


L
L
ã
ã
i
i


s
s
u
u



t
t


đ
đ


u
u


v
v
à
à
o
o


b
b
ì
ì
n
n
h
h



q
q
u
u
â
â
n
n


=
=












T
T


n

n
g
g


s
s




d
d
ư
ư


n
n
g
g
u
u


n
n


t

t
h
h




i
i


×
×


L
L
ã
ã
i
i


s
s
u
u


t

t


h
h
u
u
y
y


đ
đ


n
n
g
g


c
c


a
a


n

n
g
g
u
u


n
n


t
t
h
h




i
i


T
T


n
n
g

g


s
s




d
d
ư
ư


c
c
á
á
c
c


n
n
g
g
u
u



n
n


v
v


n
n


H
H
o
o


c
c
:
:


L
L
ã
ã
i

i


s
s
u
u


t
t


đ
đ


u
u


v
v
à
à
o
o


b

b
ì
ì
n
n
h
h


q
q
u
u
â
â
n
n




=
=




Σ
Σ



(
(
T
T




t
t
r
r


n
n
g
g


l
l
o
o


i
i



t
t
i
i


n
n


g
g


i
i


t
t
h
h




i
i



×
×


L
L
ã
ã
i
i


s
s
u
u


t
t


l
l
o
o


i

i


t
t
i
i


n
n


g
g


i
i


i
i
)
)

































V
V



i
i


i
i


=
=


1
1
-
-


n
n


Như vậy, có thể với biểu lãi suất như nhau nhưng do khác nhau về tỷ
trọng từng loại tiền gửi dẫn đến lãi suất huy động bình quân giữa các NHTM
rất khác nhau. Chi phí huy động thấp là một trong những điều kiện cơ bản
giúp NHTM tăng khả năng sinh lời nhưng ít gặp rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng


luôn phấn đấu đạt được chi phí huy động bình quân hợp lý nhất, đảm bảo đáp

ứng được nhu cầu cho vay, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay lớn nhất
có thể và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường.
* Kỳ hạn vốn
Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ
hạn sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn. Có hai loại kỳ hạn: kỳ hạn
danh nghĩa và kỳ hạn thực tế. Kỳ hạn danh nghĩa phản ánh tính ổn định ban
đầu của nguồn vốn. Việc xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng
đối với hoạt động của ngân hàng. Để cho vay và đầu tư dài hạn, ngân hàng
cần có khả năng duy trì tính ổn định của nguồn tiền. Mặt khác kỳ hạn liên
quan tới chi phí, các nguồn có tính ổn định cao thường có chi phí duy trì cao.
Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục
tại ngân hàng. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn tiền là cơ sở để
ngân hàng quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn nguồn, sử dụng các

×