Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn "Những bất đồng trong thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển trong khuôn khổ WTO " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.61 KB, 99 trang )


1



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Những bất đồng trong thương
mại giữa các nước phát triển và
đang phát triển trong khuôn khổ
WTO

2
MỤC LỤC

Trang
Lời mở đầu
1
Chương 1: Tổng quan về thương mại quốc tế và
Tổ chức Thương mại thế giới
2
1.1 Tổng quan về thương mại quốc tế 2
1.1.1 Những nét chính trong thương mại quốc tế 2
1.1.2 Thương mại hàng hoá 6
1.1.3 Thương mại dịch vụ 9
1.2 Tổng quan về Tổ chức Thương mại Thế giới 11
1.2.1 Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới và những
nguyên tắc của hệ thống thương mại quốc tế
11
1.2.2 Các hiệp định trong khuôn khổ WTO 17
1.2.2.1 Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) 17


1.2.2.2. Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) 20
1.2.3 Quy trình giải quyết tranh chấp thương mại của WTO 22
1.3 Các nước đang phát triển và WTO 23
Chương 2: Những bất đồng trong thương mại giữa các
nước phát triển và đang phát triển
27
2.1 Những bất đồng trong thương mại hàng hoá 27
2.1.1 Những mâu thuẫn trong nông nghiệp 27
2.1.1.1 Nông nghiệp và các nước đang phát triển 28
2.1.1.2 Những mâu thuẫn trong việc thực hiện Hiệp định về
Nông nghiệp của WTO (AoA)
31

3
2.1.2. Những mâu thuẫn về sản phẩm phi nông nghiệp 47
2.1.2.1 Những kết quả đạt được sau vòng đàm phán Uruguay 47
2.1.2.2 Mâu thuẫn giữa các nước phát triển và đang phát triển 49
2.2 Những bất đồng trong thương mại dịch vụ 57
2.2.1 Tầm quan trọng của tự do hoá thương mại dịch vụ 57
2.2.2 Cơ hội cho các nước đang phát triển trong thương mại
dịch vụ
59
2.2.3 Những mâu thuẫn trong thương mại dịch vụ 61
Chương 3: Xu hướng giải quyết mâu thuẫn giữa các nước
phát triển và đang phát triển
66
3.1 Xu hướng giải quyết những bất đồng trong nông nghiệp 65
3.1.1 Những nỗ lực của WTO về vấn đề nông nghiệp 66
3.1.2 Những đề xuất trên quan điểm của
các nước đang phát triển

70
3.2 Xu hướng giải quyết tranh chấp
đối với sản phẩm phi nông nghiệp
75
3.2.1 Những nỗ lực của WTO trong việc giải quyết những mâu
thuẫn về sản phẩm phi nông nghiệp
76
3.2.2 Một số đề xuất trên quan điểm
của các nước đang phát triển
77
3.3 Xu hướng giải quyết những mâu thuẫn
trong thương mại dịch vụ
79
3.3.1 Những nỗ lực của WTO nhằm giải quyết những mâu
thuẫn trong thương mại dịch vụ
80
3.3.2 Một số đề xuất trên quan điểm
của các nước đang phát triển
81

4
3.4 Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO 83


5
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, ngày càng có
nhiều quốc gia nhận thức được những lợi ích do mở cửa, hội nhập kinh tế
mang lại, do đó, tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Những năm gần đây, thương mại thế giới, cả thương mại hàng hoá và

thương mại dịch vụ, đều phát triển mạnh mẽ về khối lượng cũng như giá trị.
Sự phát triển của thương mại, một mặt đem lại nhiều lợi ích cho các quốc
gia, nhưng mặt khác cũng làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa các nước, đặc
biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trong những năm qua, với chức
năng là diễn đàn đàm phán cho các quốc gia thành viên, đã có nhiều cố gằng
nhằm rút ngắn khoảng cách và xoa dịu mâu thuẫn giữa các nước giàu và các
nước nghèo. Mặc dù WTO cũng đã có những thành công nhất định, những
bất đồng trong thương mại giữa các nước này vẫn còn rất sâu sắc, đặc biệt
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Việc
tìm hiểu những bất đồng trong thương mại giữa các nước trong khuôn khổ
của tổ chức này sẽ giúp xác định được tình hình thị trường thế giới, nhận
biết những cơ hội và thách thức mà mở cửa mang lại. Do đó, em chọn đề tài
“ Những bất đồng trong thương mại giữa các nước phát triển và đang phát
triển trong khuôn khổ WTO” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Phúc Khanh đã tận tình
hướng dẫn em trong suốt thời gian viết khoá luận, để em có thể hoàn thành
tốt khoá luận tốt nghiệp.

Sinh viên thực hiện

6
Hoa Lan Hương
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
VÀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
1.1 Tổng quan về thương mại quốc tế
1.2 Những nét chính trong thương mại quốc tế
Trong những năm 90, kinh tế và thương mại thế giới nhìn chung khá ổn

định. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm trong giai đoạn 1990-1998 đạt 2%,
của xuất khẩu hàng hoá là 6%, nhập khẩu hàng hoá là 5,9%. Thương mại
dịch vụ cũng tăng trưởng mạnh với mức tăng xuất khẩu bình quân hàng năm
trong cùng thời kỳ là 7%, nhập khẩu là 6%.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu thương mại thế giới
giai đoạn 1998-2002
(Đơn vị: tỉ USD và %)

1997 1998 1999 2000 2001 2002
Giá trị xuất khẩu 6697 6590 6800 7634 7602 7840
Mức tăng hàng năm -2 3 12 -1 3
Nguồn: Báo cáo thường niên WTO 1999-2002
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, kinh tế thế giới nói chung
và thương mại nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề. Trong năm 1998, giá trị xuất

7
khẩu của thế giới giảm 2%. Sản lượng và tăng trưởng thương mại toàn cầu
giảm mạnh do nhập khẩu của Nhật Bản và Đông á giảm lần đầu tiên kể từ
năm 1974 (khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất). Tất cả các khu vực và các
nhóm sản phẩm đều bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái. Lần đầu tiên trong hơn
một thập kỷ, thị phần của các nước đang phát triển bị giảm xuống. Gần hai
phần ba các nước trên thế giới ghi nhận sự suy giảm trong thu nhập xuất
khẩu, là tình trạng tồi tệ nhất kể từ năm 1990.
Sự tăng trưởng sản lượng toàn cầu trong năm 1999 đã giúp đảo ngược
chiều hướng suy thoái của thương mại trong 6 tháng đầu năm và khiến
thương mại toàn cầu tăng nhanh trong 6 tháng cuối năm. Giá trị xuất khẩu
tăng 3% so với mức –2% năm 1998. Nhân tố chính góp phần vào sự phục
hồi này là tốc độ tăng cầu mạnh ở Bắc Mỹ và sự khôi phục kinh tế của các
nước châu Á sau khủng hoảng. Sự tăng trưởng kinh tế trong năm 1999 có
một ảnh hưởng tích cực tới các nước đang phát triển, những nước có tốc độ

tăng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ gấp hai lần mức trung bình của thế giới.
Trong năm 1999, các nước đang phát triển chiếm 27,5% giá trị xuất khẩu
hàng hoá và 23% giá trị xuất khẩu dịch vụ của thế giới. Toàn cảnh thương
mại trong năm nhìn chung khá khả quan, mặc dù những cơ hội trong thương
mại đối với những nước nghèo chưa thực sự bình đẳng và bị giới hạn bởi sự
hạn chế về nguồn lực.
Trong năm 2000, hoạt động kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các ngành
khiến sản lượng và thương mại thế giới đạt mức tăng trưởng cao nhất trong
hơn một thập kỉ, giá trị xuất khẩu toàn cầu đạt 7634 tỉ USD, tăng 12% so với
năm trước. Nguyên nhân khiến thương mại thế giới phát triển vượt bậc trong
năm này là sự tăng trưởng sản lượng ở những nước vốn đã có nền kinh tế

8
phát triển năng động như Bắc Mỹ và các nước châu Á, sự phục hồi kinh tế
của Nga và các nước Nam Mỹ, cùng với sự phát triển kinh tế ở các khu vực
khác. Bắc Mỹ và Tây Âu, hai khu vực chiếm tới 60% sản lượng và thương
mại toàn cầu, trong năm 2000 đạt tốc độ tăng GDP hàng năm cao nhất trong
thập kỉ 90. Năm nước châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cũng bắt đầu khôi phục kinh tế bằng mức
trước khủng hoảng. Bên cạnh việc tốc độ tăng trưởng thương mại cao,
khoảng cách về tăng trưởng kinh tế giữa các khu vực trong năm 2000 rất
thấp, cho thấy sự phát triển kinh tế đã đem lại lợi ích cho tất cả các khu vực.
Từ giữa năm 2000, các chỉ số kinh tế đều cho thấy sự tăng trưởng kinh tế
toàn cầu bắt đầu chậm lại. Tuy nhiên, sự suy giảm trong thương mại và sản
lượng còn tồi tệ hơn những gì được dự đoán từ đầu năm 2001. Sản lượng
toàn cầu tăng không đáng kể còn thương mại giảm nhẹ, giá trị xuất khẩu
giảm 1%, trái hẳn với sự phát triển mạnh mẽ trong năm trước, năm mà cả
sản lượng và thương mại quốc tế đều tăng trưởng ở mức kỉ lục. Một điểm
nổi bật trong sự suy giảm kinh tế toàn cầu là sự suy thoái gần như đồng thời
ở cả ba nền kinh tế mạnh chủ chốt kể từ quý III năm 2000. Trái với xu

hướng phát triển từ năm 1998 đến năm 2001, khi nhập khẩu của Mỹ và Tây
Âu vẫn tiếp tục tăng, bất chấp xuất khẩu giảm đáng kể, do sự phục hồi kinh
tế của các nước châu Á, xuất khẩu và nhập khẩu của các nước này hầu như
cùng suy giảm kể từ mùa thu năm 2000. Nhập khẩu của Nhật Bản bắt đầu
giảm muộn hơn song giảm với tốc độ bằng tốc độ giảm của Mỹ trong 6
tháng cuối năm 2001.

9
Nguyên nhân chính khiến kinh tế trong năm 1999 suy giảm mạnh hơn dự
đoán là sự bùng nổ của bong bóng công nghệ thông tin toàn cầu, sự trì trệ
trong nền kinh tế Tây Âu và, ở một mức độ nào đó, sự kiện ngày 11/9.
Sự bùng nổ của bong bóng công nghệ thông tin khiến đầu tư vào công
nghệ thông tin giảm, làm giảm tổng vốn đầu tư của các nước phát triển. Vốn
đầu tư vào công nghệ thông tin giảm cùng với sự chững lại trong tiêu dùng
cá nhân về các sản phẩm công nghệ thông tin khiến thương mại quốc tế về
thiết bị viễn thông và văn phòng bị thu hẹp, ảnh hưởng lớn đến các nước
châu Á. Sản lượng của một số nước đã giảm xuống mức thấp nhất trong 30
năm qua.
Sự trì trệ trong nền kinh tế Tây Âu, khu vực chiếm 1/3 thương mại thế
giới, phần lớn do những nhân tố chủ quan. Cầu nội địa của khu vực sử dụng
đồng euro thậm chí còn yếu hơn Mỹ trong năm 2001 và xuất khẩu của Mỹ
sang châu Âu giảm còn mạnh hơn so với nhập khẩu của nước này từ Tây
Âu.
Sự kiện ngày 11/9 đã làm xói mòn thêm nhu cầu vốn đã yếu của cá nhân
và doanh nghiệp, làm giảm tạm thời giá cổ phiếu, giảm nhập khẩu hàng hoá
của Mỹ trong ngắn hạn và giảm vận tải hàng không trong quý IV. Hậu quả
nghiêm trọng nhất của sự kiện ngày 11/9 đối với thương mại là ảnh hưởng
tiêu cực của nó lên ngành hàng không và những ngành du lịch phụ thuộc vào
hàng không. Các nước vùng Caribê, những nước có hơn 1/3 thu nhập ngoại
tệ từ ngành du lịch, là những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất do cuộc tấn

công khủng bố.
Trong năm 2002, thương mại thế giới tăng trưởng trở lại, xuất khẩu toàn
cầu tăng 3% so với năm 2001. Từ quý I đến quý III, thương mại thế giới

10

tăng trưởng mạnh, song chững lại ở quý IV. Do đó, tốc độ tăng trưởng
thương mại hàng hoá hàng năm chỉ ở mức 3%, bằng một nửa so với mức
tăng trưởng trong giai đoạn 1990-2000. Nguyên nhân chính khiến thương
mại tăng trưởng là cầu tăng mạnh trong các nước đang phát triển ở châu Á
và Mỹ.


1.2.1 Thương mại hàng hoá
Thương mại hàng hoá chiếm một phần lớn trong thương mại quốc tế nói
chung và ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng thương mại toàn cầu. Trong giai
đoạn 1990-2000, tăng trưởng thương mại hàng hoá thế giới nhìn chung khá
tốt với mức tăng bình quân trong thời kì này là 6,5%/năm
(1)
.
Bảng 2: Giá trị xuất khẩu hàng hoá thế giới
giai đoạn 1998-2002
(Đơn vị: tỉ USD và %)
90-00 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
(2)

Giá trị xuất khẩu 5377 5270 5460 6180 6162 6270
Mức tăng hàng năm

6,5 10,5 -2 3,5 13 -4 4 15

Nguồn: Báo cáo thường niên WTO 1999-2002


(1)
Thống kê thương mại thế giới- WTO-2003
(2) 6 tháng đầu năm
(3)

11

Xu hướng tăng trưởng trong thương mại hàng hoá bị gián đoạn ở năm
1998, tốc độ tăng trưởng giảm 2% sau khi tăng ở mức 10,5% so với năm
1997. Giá trị xuất khẩu nông sản, quặng và khoáng chất giảm gần 10%, xuất
khẩu nhiên liệu giảm 25%, mức giảm kỉ lục kể từ năm 1986. Tuy nhiên, giá
trị thương mại của ngành sản xuất ô tô tăng gần 6%, là ngành duy nhất có
doanh số tăng trong năm 1998. Tốc độ tăng xuất khẩu của tất cả các khu vực
đều chậm lại, đặc biệt là Nhật Bản, giảm 1,5%. Các nước châu Á bị ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã cắt giảm nhập khẩu 20%,
Nhật Bản 5%. Khu vực giảm giá trị xuất khẩu mạnh nhất trong năm 1998 là
châu Phi và Trung Đông, những nước mà cơ cấu xuất khẩu dựa nhiều vào
dầu thô.
Tuy nhiên, trong năm 2000, giá trị xuất khẩu toàn cầu tăng 13%, là mức
tăng mạnh nhất trong hơn một thập kỉ. Xuất khẩu của châu Á tăng 18,4%,
nhập khẩu tăng 23,5%. Tốc độ tăng trưởng này là điều đáng ngạc nhiên do
sản lượng của khu vực chỉ đạt dưới mức trung bình của thế giới. Trong năm
2000, ảnh hưởng của giá dầu đến thương mại rõ nét đến mức vị trí của các
nước theo tốc độ tăng trưởng cũng như vị trí theo tỉ trọng của nhiên liệu
trong cơ cấu xuất khẩu. Các nước Trung Đông, những nước mà dầu mỏ
chiếm hơn 2/3 giá trị xuất khẩu, có tốc độ tăng xuất khẩu hàng hoá 54,1%.
Các nước xuất khẩu dầu chủ yếu ở châu Phi

(1)
đạt tốc độ tăng xuất khẩu là
62,1%, khiến thu nhập từ xuất khẩu tăng 25%.




(1)
Angola, Algeria, Cộng hoà Công-gô, Gabon, và Nigeria

12







Bảng 3: 10 nước đứng đầu trong thương mại hàng hoá
thế giới năm 2000
(Đơn vị : %)
Xuất khẩu Nhập khẩu
Tên nước Tỉ trọng Tên nước Tỉ trọng
Mỹ 12,3 Mỹ 18,9
Đức 8,7 Đức 7,5
Nhật Bản 7,5 Nhật Bản 5,7
Pháp 4,7 Anh 5,0
Anh 4,4 Pháp 4,6
Canada 4,4 Canada 3,7


13

Trung Quốc 3,9 Ý 3,5
Ý 3,7 Trung Quốc 3,4
Hà Lan 3,3 Hong Kong 3,2
Hong Kong 3,2 Hà Lan 3,0
Nguồn: Báo cáo thường niên WTO-2001
Mỹ là nước đứng đầu về thương mại hàng hoá, cả về xuất khẩu và nhập
khẩu, chiếm tương ứng là 12,3 và 18,7% trong thương mại thế giới. Trong
năm 2000, xuất khẩu của Mỹ tăng 12%, nhập khẩu tăng 19%. Tuy có tốc độ
tăng xuất khẩu và nhập khẩu thấp, tương ứng là 1% và 5%, Đức vẫn là nước
chiếm tỉ trọng lớn thứ hai trong 10 nước đứng đầu thế giới về thương mại
hàng hoá. Trong số này, Trung Quốc và Hong Kong là nước đang phát triển
duy nhất. Trung Quốc đứng thứ 7 về xuất khẩu và thứ 8 về nhập khẩu. Hong
Kong đứng thứ 10 về xuất khẩu và thứ 9 về nhập khẩu.

1.2.2 Thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ của thế giới nhìn chung ít biến động hơn thương mại
hàng hoá. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1990-2000 là 6,5%.
Trong năm 1998, khi thương mại hàng hoá giảm mạnh thì thương mại dịch
vụ vẫn duy trì được ở mức gần như không đổi so với năm trước.
Bảng 4: Giá trị xuất khẩu dịch vụ thế giới
giai đoạn 1998-2002

14

(Đơn vị: tỉ USD và %)
90-00 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Giá trị xuất khẩu 1320 1320 1340 1454 1440 1570
Mức tăng hàng năm 6,5 4 0 2 5 -1 6

Nguồn: Báo cáo thường niên WTO 1999-2002
Giá trị xuất khẩu thương mại thế giới đình trệ trong năm 1998, đạt 1320
USD. Đây là tình trạng tồi tệ nhất kể từ năm 1980. Sự đình trệ trong thương
mại dịch vụ có thể nhận thấy ở cả 3 ngành chính. Dịch vụ vận tải giảm 2%
so với năm 1997. Dịch vụ du lịch, sau khi tăng trưởng với tốc độ 8% trong
năm 1996, đã rơi vào trạng thái trì trệ trong hai năm liên tiếp. Nhóm “các
dịch vụ khác” tuy có tăng 1% nhưng là không đáng kể so với tốc độ tăng 9%
năm 1996 và 8% năm 1997. Sự tăng trưởng ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Tây Âu
chỉ đủ bù đắp cho sự suy giảm ở khu vực châu Á và châu Phi. Xuất khẩu của
châu Phi giảm 3%, châu Á giảm 15%. Trong đó, Nhật Bản giảm 9%, 5 nước
châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
giảm tới 24%.
Giá trị xuất khẩu dịch vụ toàn cầu năm 1999 tăng 2% so với năm trước.
Tất cả các ngành dịch vụ đều tăng. Dịch vụ vận tải tăng gần 1,5% bất chấp
việc giá dầu lên cao. Dịch vụ du lịch và các ngành dịch vụ khác đều tăng ở
mức 2-3%. Khu vực phát triển năng động nhất là Bắc Mỹ và châu Á. Nhập
khẩu dịch vụ ở Bắc Mỹ tăng vượt xuất khẩu, do đó giảm thặng dư cán cân
thương mại trong dịch vụ vốn là truyền thống ở khu vực này. Xuất khẩu và
nhập khẩu dịch vụ của châu Á tăng với tốc độ gần bằng nhau, tương ứng là
4% và 5%. Trong đó, 5 nước châu Á bị ảnh hưởng nặng nhất do cuộc khủng

15

hoảng tài chính tiền tệ tăng xuất khẩu tới 3% so với mức –24% năm 1998,
nhập khẩu tăng 5%.
Trong năm 2000, do sự phát triển kinh tế toàn cầu nói chung, thương mại
dịch vụ tăng 5%, tốc độ tăng nhanh nhất kể từ năm 1997. Trong hai năm liên
tiếp, giá trị thương mại dịch vụ tăng chậm hơn thương mại hàng hoá, song
tính chung giai đoạn 1990-2000, tốc độ tăng của dịch vụ và hàng hoá cùng
tương đương nhau ở mức 6,5%/năm. Hầu hết các khu vực đều tăng xuất

khẩu dịch vụ, trừ Tây Âu. Sự suy giảm trong xuất nhập khẩu dịch vụ của
Tây Âu phần lớn do sự sụt giá của đồng euro. Tính theo euro, giá trị xuất
khẩu và nhập khẩu của khu vực này tăng tương ứng là 13,5% và 14,5%. Do
Tây Âu chiếm tới 44% xuất khẩu dịch vụ thế giới, sự suy giảm giá trị tính
bằng USD của thương mại dịch vụ trong khu vực ảnh hưởng đáng kể tới
tăng trưởng thương mại dịch vụ toàn cầu.
Thương mại dịch vụ trong năm 2001 giảm 1%, lần suy giảm đầu tiên kể
từ năm 1983 và ảnh hưởng đến tất cả các ngành dịch vụ. Thu nhập từ xuất
khẩu dịch vụ vận tải và du lịch giảm tương ứng 3% và 2%. Xuất khẩu của
nhóm “các dịch vụ khác” ( bao gồm viễn thông, bảo hiểm, dịch vụ tài chính,
bản quyền và đăng ký phát minh) bị đình trệ trong năm 2001. Chỉ 3 năm sau
sự suy giảm mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ,
xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ của châu Á lại giảm tương ứng là 2% và
3%. Riêng xuất khẩu của Nhật Bản giảm 7%, nhập khẩu giảm 8%.

1.2. Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới ( WTO)

16

1.2.1 Sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới và những nguyên tắc
của hệ thống thương mại quốc tế
Tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là Hiệp định chung
về Thương mại và Thuế quan (GATT) được thành lập năm 1947, trụ sở tại
Geneva, Thuỵ Sĩ. Mục tiêu của GATT là nhằm xúc tiến quá trình tự do hoá
thương mại thông qua các thoả thuận đa phương. Thông qua 5 vòng đàm
phán trong giai đoạn 1947-1962 với sự can thiệp của GATT, thuế quan trong
thương mại quốc tế giảm 35%, là thắng lợi lớn trong quá trình tự do hoá
thương mại.
Song cùng với sự phát triển của thương mại thế giới nảy sinh những vấn
đề mới, bộc lộ rõ những khuyết điểm của GATT. Vượt khỏi qui định của

GATT, nhiều quốc gia tăng cường sử dụng các chính sách thương mại phi
thuế quan, cản trở sự tự do hoá thương mại và chuyên môn hoá sản xuất.
Những vấn đề mới như thương mại dịch vụ, nông sản…đang ngày càng trở
nên quan trọng trong khi GATT lại chưa quan tâm tới.
Tại vòng đàm phán Uruguay, vòng đàm phán cuối cùng của GATT, các
nước đã đi đến thống nhất thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là
thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế- thương mại quốc tế mang
tính toàn cầu.
Các hiệp định của WTO rất dài và phức tạp do chúng điều chỉnh nhiều
hoạt động: nông nghiệp, dệt, ngân hàng, viễn thông, mua sắm chính phủ, các
tiêu chuẩn công nghiệp, các qui định về vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ…
Tuy nhiên, những hiệp định này đều có những nguyên tắc cơ bản. Những
nguyên tắc này là nền tảng cho hệ thống thương mại quốc tế. Những nguyên
tắc đó là: không phân biệt đối xử, tự do hoá thương mại, dễ dự đoán, cạnh
tranh hơn, và mang lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển.

17


 Không phân biệt đối xử
Theo nguyên tắc này, một quốc gia không được phân biệt đối xử giữa các
nước mà nó có quan hệ thương mại cũng như giữa hàng hoá, dịch vụ sản
xuất trong nước và hàng hoá, dịch vụ nước ngoài. Để thực hiện được mục
tiêu này, WTO áp dụng hai nguyên tắc là nguyên tắc Tối huệ quốc và
nguyên tắc Đối xử quốc gia.

Nguyên tắc Tối huệ quốc
Nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia phải đối xử công bằng giữa các
thành viên của WTO. Nếu một quốc gia muốn cho một thành viên khác
hưởng một ưu đãi ( ví dụ giảm thuế nhập khẩu đối với một sản phẩm), quốc

gia đó cũng phải cho tất cả các thành viên khác hưởng ưu đãi như vậy. Tên
của nguyên tắc Tối huệ quốc nghe có vẻ như một sự đối xử đặc biệt đối với
một quốc gia nào đó. Nhưng trong WTO, điều đó có nghĩa là không phân
biệt đối xử, mỗi quốc gia thành viên đều đối xử với các thành viên khác một
cách bình đẳng. Nếu một nước muốn cho một thành viên khác hưởng nhiều
ưu đãi hơn trong thương mại, nó sẽ phải cho tất cả các thành viên còn lại
hưởng ưu đãi như vậy.
Nguyên tắc này là điều khoản quan trọng đầu tiên của Hiệp định chung
về Thương mại và Thuế quan(GATT). Tối huệ quốc cũng được qui định
trong Hiệp định chung về Thương mại trong dịch vụ (GATS) và Hiệp định
chung về Quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại(TRIPS), mặc dù mỗi Hiệp
định có cách qui định khác nhau.
Cũng có những trường hợp ngoại lệ. Ví dụ như khi các nước trong một
khu vực có thể thành lập một hiệp định tự do thương mại mà không áp dụng

18

cho hàng hoá từ bên ngoài khu vực đó. Hay một quốc gia có thể dựng lên
những rào cản đối với hàng hoá từ các nước mà bị coi là đang có những
hành vi thương mại bất bình đẳng. Trong thương mại dịch vụ, các quốc gia,
trong những tình huống cụ thể nhất định, còn có thể phân biệt đối xử. Tuy
nhiên, những ngoại lệ như vậy được qui định rất chặt chẽ. Nhìn chung,
nguyên tắc Tối huệ quốc có nghĩa là khi một nước nới lỏng các rào cản
thương mại hay mở cửa thị trường, nước đó phải áp dụng đối với tất cả các
thành viên WTO khác- không phân biệt giàu hay nghèo, mạnh hay yếu.

Nguyên tắc Đối xử quốc gia
Theo nguyên tắc này, một quốc gia thành viên phải đối xử bình đẳng giữa
hàng hoá nội địa và hàng hoá từ nước ngoài. Nguyên tắc này cũng được áp
dụng đối với dịch vụ, thương hiệu, bản quyền và sáng chế. Nguyên tắc Đối

xử quốc gia (đối xử với hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài như hàng hoá, dịch
vụ trong nước) được qui định trong tất cả các hiệp định chính của WTO (
điều 3 của GATT, điều 17 của GATS và điều 3 của TRIPS), mặc dù mỗi
hiệp định qui định khác nhau. Nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ được áp dụng
khi một hàng hoá, dịch vụ, hoặc một đối tượng sở hữu trí tuệ đã thâm nhập
vào thị trường. Do đó, việc thay đổi mức thuế nhập khẩu không phải là vi
phạm nguyên tắc này ngay cả khi các sản phẩm được sản xuất trong nước
không bị đánh thuế tương đương.

 Từng bước tự do hoá thương mại thông qua đàm phán
Dỡ bỏ các rào cản thương mại là một trong những biện pháp khuyến
khích thương mại rõ ràng nhất. Các rào cản thương mại ở đây là thuế nhập
khẩu và các biện pháp như cấm nhập khẩu hay áp dụng hạn ngạch nhập

19

khẩu. Đôi khi tệ quan liêu hay chính sách tỉ giá cũng được đưa vào đàm
phán. Từ khi GATT được thành lập vào năm 1947-1948 đã có 8 vòng đàm
phán thương mại. Các vòng đàm phán này ban đầu tập trung vào việc cắt
giảm thuế nhập khẩu. Kết quả là đến cuối những năm 80, thuế đánh vào các
mặt hàng công nghiệp của các nước công nghiệp đã giảm xuống còn khoảng
6,3%. Từ cuối những năm 80, các vòng đàm phán đã mở rộng thảo luận về
các biện pháp phi thuế quan áp dụng cho hàng hoá và về các lĩnh vực mới
như dịch vụ và sở hữu công nghiệp.
Mở cửa thị trường có thể đem lại nhiều lợi ích, song nó cũng đòi hỏi phải
có những điều chỉnh. Các hiệp định của WTO cho phép các quốc gia tiến
hành điều chỉnh dần dần qua việc “từng bước tự do hoá”. Các nước đang
phát triển thường được ưu tiên thời gian điều chỉnh dài hơn.

 Nâng cao tính dễ dự đoán

Đôi khi việc cam kết không siết chặt các rào cản thương mại cũng có ý
nghĩa quan trọng như việc dỡ bỏ những rào cản đó do những cam kết như
vậy giúp cho các doanh nghiệp có khả năng nhận biết được những cơ hội
của họ trong tương lai. Việc duy trì được tính ổn định và dễ dự đoán có thể
khuyến khích đầu tư, tạo thêm việc làm và người tiêu dùng có thể được
hưởng mức giá cạnh tranh hơn. Hệ thống thương mại đa phương là nỗ lực
của các chính phủ nhằm làm cho môi trường kinh doanh trở nên ổn định và
dễ dự đoán. Trong WTO, khi các thành viên đồng ý mở cửa thị trường, họ đã
ràng buộc mình vào những cam kết. Đối với hàng hóa, những cam kết này
có nghĩa là qui định mức thuế nhập khẩu tối đa. Đôi khi các nước đánh thuế
nhập khẩu ở mức thấp hơn mức thuế đã cam kết, thường là các nước đang
phát triển. Tại các nước phát triển, mức thuế cam kết và mức thuế thực tế

20

thường bằng nhau. Một nước có thể thay đổi những cam kết, nhưng chỉ sau
khi đàm phán với các thành viên khác. Điều này có thể mang ý nghĩa là bồi
thường cho những nước này về những tổn thất trong thương mại.
Trong nông nghiệp, 100% nông sản giờ đây đã được qui định mức thuế
tối đa. Điều này đảm bảo độ an toàn trên thị trường cho những người xuất
nhập khẩu và các nhà đầu tư. Ngoài ra, các biện pháp khác cũng đang được
áp dụng nhằm nâng cao tính ổn định và dễ dự đoán của hệ thống thương
mại quốc tế. Một trong số đó là giảm việc sử dụng hạn ngạch nhập khẩu và
các biện pháp khác để hạn chế số lượng nhập khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch
nhập khẩu có thể dẫn tới tệ quan liêu và gia tăng những vụ kiện về thương
mại bất bình đẳng. Một biện pháp khác là làm cho luật thương mại của các
nước càng rõ ràng, minh bạch càng tốt. Nhiều hiệp định của WTO yêu cầu
các chính phủ công bố những chính sách của mình trong nước hoặc thông
báo cho WTO.




 Đẩy mạnh cạnh tranh công bằng
Tổ chức thương mại thế giới đôi khi được coi là một tổ chức “thương mại
tự do”, nhưng điều này không hoàn toàn đúng. Hệ thống cho phép việc áp
dụng các biện pháp thuế quan, và trong những trường hợp nhất định, các
hình thức bảo hộ khác. Chính xác hơn, đây là một hệ thống các qui định
nhằm tạo ra sự cạnh tranh cởi mở, công bằng và không bị bóp méo. Những
qui định về không phân biệt đối xử- nguyên tắc Tối huệ quốc và nguyên tắc
Đối xử quốc gia- được sử dụng để đảm bảo một môi trường thương mại
công bằng. Những qui định về bán phá giá ( xuất khẩu hàng hoá với giá thấp

21

hơn giá thành sản xuất nhằm mở rộng thị phần) và về trợ cấp xuất khẩu cũng
nhằm mục đích như vậy. Đây là những vấn đề rất phức tạp, và các qui định
cố gắng xác định đâu là công bằng và đâu là không công bằng, và các chính
phủ có thể phản ứng như thế nào, đặc biệt là áp dụng thêm thuế nhập khẩu
để bù đắp những tổn thất do thương mại bất bình đẳng gây ra.
Bên cạnh đó, WTO cũng có nhiều hiệp định nhằm khuyến khích cạnh
tranh công bằng trong nông nghiệp, sở hữu trí tuệ, dịch vụ… và nhiều lĩnh
vực khác.

 Khuyến khích cải cách kinh tế và phát triển
Nhiều nhà kinh tế học và các chuyên gia trong lĩnh vực thương mại đánh
giá cao đóng góp của WTO vào sự phát triển. Các nước đang và chậm phát
triển thường cần có sự linh hoạt về thời gian thi hành các hiệp định. Bản
thân các hiệp định này, kế thừa tinh thần của GATT, dành cho các nước
đang phát triển những nhượng bộ nhất định. Hơn 3/4 số thành viên của
WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong giai đoạn quá độ

sang nền kinh tế thị trường. Trong suốt bảy năm rưỡi của vòng đàm phán
Uruguay, hơn 60 nước trong số này đã tự tiến hành các chương trình tự do
hoá thương mại. Đồng thời, trong vòng đàm phán Uruguay, các nước đang
phát triển cũng trở nên năng động và có ảnh hưởng hơn bất kỳ vòng đàm
phán nào trước đó.

1.2.3 Các hiệp định trong khuôn khổ WTO
Các hiệp định trong khuôn khổ WTO bao gồm hàng hoá, dịch vụ và
quyền sở hữu trí tuệ. Những hiệp định này qui định các nguyên tắc của quá
trình tự do hoá thương mại và những ngoại lệ cho phép. Chúng bao gồm cam

22

kết của các quốc gia trong việc cắt giảm thuế, dỡ bỏ các rào cản thương mại
khác, và mở rộng thị trường dịch vụ; qui định thủ tục giải quyết tranh chấp;
qui định những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển; đòi hỏi các chính
phủ phải làm cho các chính sách thương mại của nước mình trở nên minh
bạch rõ ràng bằng việc thông báo cho WTO biết những luật được áp dụng và
các biện pháp thực hiện.

1.2.3.1 Hiệp định chung về Thương mại và thuế quan (GATT)
Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan đầu tiên, gọi là GATT
1947, đưa ra những qui tắc cơ bản của hệ thống thương mại quốc tế từ tháng
1/1948 đến khi Tổ chức Thương mại thế giới được thành lập vào ngày
1/1/1995. Những qui tắc này chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá, được cụ
thể và chi tiết hoá qua rất nhiều văn bản luật được thông qua trong suốt 47
năm từ năm 1948 đến năm 1995 tại các cuộc đàm phán đa phương. Các điều
khoản của GATT điều chỉnh những vấn đề như tiếp cận thị trường, tư vấn và
giải quyết các khiếu nại của các thành viên, cho phép GATT hoạt động một
cách có hiệu quả với tư cách là một tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, một đặc

điểm quan trọng hơn của GATT nằm trong Nghị định thư về áp dụng tạm
thời, qui định rằng những điều khoản trong phần III của GATT 1947, về cơ
bản điều chỉnh những biện pháp thương mại phi thuế quan, chỉ được áp dụng
khi nó không mâu thuẫn với luật pháp của một nước khi nước đó phê chuẩn
GATT. GATT 1947 giờ đây không còn hiệu lực nữa.
GATT 1994 đưa ra những qui định chủ yếu của WTO về thương mại
hàng hoá và có nhiều điểm khác biệt so với GATT 1947. Nhiều điều khoản
quan trọng của GATT 1994 được lấy từ GATT 1947 và từ những văn bản
được ban hành sau năm 1948, ví dụ qui định về nguyên tắc Tối huệ quốc

23

(được qui định trong điều I của cả GATT 1947 và GATT 1994) và các điều
khoản trong phần IV, điều chỉnh về thương mại và phát triển. Các điều
khoản khác được đưa vào GATT 1994 đã được sửa đổi một phần hoặc hoàn
toàn. Một số điều khoản không còn hiệu lực nữa và được thay thế bằng các
điều khoản của Hiệp định WTO. Nghị định thư về áp dụng tạm thời đã bị
loại khỏi GATT 1994.

Hiệp định về nông nghiệp (Agreement on Agriculture- AoA)
Hiệp định về nông nghiệp (AoA) là một phần trong Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan (GATT). Thời gian thực hiện là 5 năm (tới năm
2000) với các nước phát triển và 9 năm ( tới năm 2004) với các nước đang
phát triển. Hiệp định về Nông nghiệp bao gồm 3 lĩnh vực: tiếp cận thị
trường, trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Những cam kết trong khuôn
khổ AoA yêu cầu các quốc gia thành viên mở rộng hơn khả năng tiếp cận thị
trường và giảm đồng thời cả trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu.

Trợ cấp trong nước
Mục đích chung của những quy định về trợ cấp trong nước là giảm số

tiền cho sản xuất những mặt hàng nhằm xuất khẩu. Có 3 loại trợ cấp trong
nước được đưa ra, mỗi loại được gán cho một màu khác nhau.
 Hộp màu vàng: bao gồm những khoản chi cho các nhà sản xuất và các
loại trợ cấp trong nước khác mà các chính phủ phải cắt giảm, nhưng không
cần xoá bỏ. Tất cả chi tiêu của chính phủ cho nông nghiệp đều được xếp vào
hộp màu vàng, trừ khi nó phù hợp với các tiêu chuẩn của những hộp khác.
AoA yêu cầu những trợ cấp trong hộp này giảm 20% sau 5 năm đối với các
nước phát triển và 13,3% sau 9 năm đối với các nước đang phát triển.

24

 Hộp xanh da trời: cho phép các nước chi tiêu không hạn chế một cách
trực tiếp cho nông dân nếu những khoản chi này liên quan tới sản xuất- giới
hạn các chương trình bằng những mức ranh giới cố định. Từ năm 1996, Mỹ
đã không sử dụng những chương trình được xếp vào hộp này.
 Hộp xanh lá cây: cho phép sử dụng những khoản chi có liên quan tới
các chương trình môi trường, kiểm soát bệnh dịch và sâu hại, phát triển cơ
sở hạ tầng và hỗ trợ lương thực trong nước.

Tiếp cận thị trường
AoA yêu cầu các nước phát triển giảm thuế trung bình là 36%, với mức
giảm tối thiểu cho một dòng thuế là 15%, trong vòng 5 năm. Các nước đang
phát triển phải giảm thuế trung bình 24%, với mức giảm tối thiểu cho một
dòng thuế là 10%, trong vòng 9 năm. Các nước chậm phát triển không phải
giảm thuế nhưng hoặc phải chuyển đổi các biện pháp phi thuế quan thành
thuế quan hay cam kết trong tương lai sẽ không tăng thuế cao hơn mức tối
đa đã định sẵn. Hàng rào phi thuế quan bao gồm các biện pháp hạn chế về số
lượng, đóng vai trò quan trọng trong những chương trình quản lý cung mà
các chính phủ sử dụng để hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu trên thị
trường nội địa để bình ổn giá.



Trợ cấp xuất khẩu
AoA yêu cầu các nước phát triển giảm trợ cấp xuất khẩu 35% về giá trị
trong vòng 5 năm, với mức giảm tối thiểu 21% cho một mặt hàng được trợ
cấp. Những cam kết cắt giảm này được dựa trên các sản phẩm cụ thể ( một
nước không thể giảm trợ cấp với mức lớn cho một sản phẩm để bảo vệ một

25

sản phẩm khác có mức giảm thấp hơn). Các nước đang phát triển phải cắt
giảm trợ cấp xuất khẩu 24% về giá trị và 14% về khối lượng trong 9 năm.
Các nước chậm phát triển được miễn khỏi những cam kết này.


1.2.3.2 Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) là một trong những
hiệp định quan trọng nhất của WTO, được đưa ra đàm phán trong vòng đàm
phán Uruguay. Hiệp định này có hiệu lực từ tháng 1/1995, là nguyên tắc đa
phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế trong dịch vụ. Giống như
hiệp định về thương mại hàng hoá, hiệp định GATS có ba phần: hiệp định
chính bao gồm những nguyên tắc và nghĩa vụ chung; phụ lục qui định những
qui tắc cho những ngành cụ thể và lộ trình của các quốc gia trong đó có
những cam kết cụ thể của từng nước trong việc mở cửa thị trường cho nước
ngoài. Ngoài ra, GATS còn có thêm phần thứ tư là danh sách những lĩnh
vực mà các nước tạm thời chưa áp dụng nguyên tắc Tối huệ quốc. Những
cam kết này- tương tự như lộ trình thuế trong GATT- là một phần không
tách rời của Hiệp định. Giám sát sự thi hành hiệp định là Hội đồng Thương
mại dịch vụ của WTO.
Hiệp định này điều chỉnh tất cả các dịch vụ trong thương mại quốc tế,

bao gồm các hình thức cung cấp dịch vụ quốc tế khác nhau. GATS định
nghĩa 4 hình thức dịch vụ sau:
 Các dịch vụ được cung cấp từ một quốc gia này đến một quốc gia
khác( ví dụ dịch vụ điện thoại quốc tế), gọi là “cung cấp dịch vụ qua biên
giới”
 Người tiêu dùng hay các công ty sử dụng dịch vụ tại một nước khác
(ví dụ dịch vụ du lịch), gọi là “sử dụng dịch vụ ở nước ngoài”

×