Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn " Giải pháp Marketing cho việc phát triển xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt Nam những năm tới " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.74 KB, 89 trang )


1





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP



Giải pháp Marketing cho việc
phát triển xuất khẩu thuỷ sản
của các doanh nghiệp Việt
Nam những năm tới


GVHD : PGS TS NGUYỄN TRUNG VĂN
SVTH : NGÔ QUÝ HIỆP

2
MỤC LỤC.

Lời nói đầu 6
Chương 1 : Tổng quan thị trường thuỷ sản thế giới và lý luận chung về Marketing xuất
khẩu 7
1. Tổng quan thị trường thuỷ sản thế giới. 7
1.1. Tình hình tiêu thụ thuỷ sản của thế giới 7
1.1.1. Mức tiêu thụ của toàn thế giới những năm qua 7
1.1.2. Mức tiêu thụ của những nước chủ yếu. 8
1.2. Sản xuất hàng thuỷ sản của thế giới 9


1.2.1. Mức sản lượng của toàn thế giới. 9
1.2.2. Những nước sản xuất chủ yếu. 10
1.3. Tình hình nhập khẩu thuỷ sản của thế giới. 11
1.3.1. Mức nhập khẩu của thế giới 11
1.3.2. Mức nhập khẩu và cơ cấu nhập khẩu của những nước nhập khẩu chủ yếu.
12
1.4. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. 14
1.4.1. Khả năng cung cấp của các nước xuất khẩu. 14
1.4.2. Khả năng cạnh tranh của các nước xuất khẩu 15
1.5. Diễn biến giá quốc tế hàng thuỷ sản. 16
1.6. Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới trong những năm tới. 17
1.6.1. Tình hình sản xuất 17
1.6.2. Tình hình tiêu thụ 18
1.6.3. Tình hình buôn bán hàng thuỷ sản 19
1.6.4. Diễn biến giá cả. 20
2. Lý luận chung về Marketing xuất khẩu 21
2.1. Bản chất của Marketing xuất khẩu. 21
2.1.1. Khái niệm về Marketing 21
2.1.2. Khái niệm và bản chất của Marketing quốc tế trong hoạt động xuất khẩu.
21
2.2. Chiến lược Marketing xuất khẩu. 23
2.2.1. Chiến lược Marketing. 23
2.2.2. Chiến lược Marketing trong hoạt động xuất khẩu. 24
3. Các bước tư duy và hành động của Marketing quốc tế trong xuất khẩu. 24
3.1. Nghiên cứu thị trường, nắm vững nhu cầu và cầu. 24
3.2. Phân tích SWOT và lựa chọn thị trường xuất khẩu mục tiêu 25
3.3. Quyết định chiến lược Marketing hỗn hợp hướng tới thị trường xuất khẩu. .26
3.3.1. Chiến lược sản phẩm xuất khẩu. 27
3.3.2. Chiến lược giá trên thị trường xuất khẩu 28
3.3.3. Chiến lược phân phối sản phẩm. 29

3.3.4. Chiến lược xúc tiến hỗn hợp trong xuất khẩu 30
3.4. Chọn phương pháp thâm nhập thị trường xuất khẩu mục tiêu 31
Chương 2: Đánh giá thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam những năm qua 33

3
1. Khái quát tình hình sản xuất và chế biến thuỷ sản 33
1.1. Tình hình sản xuất thuỷ sản 33
1.2. Tình hình chế biến thuỷ sản 33
2. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam thời gian qua 34
2.1. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu 34
2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu. 35
2.3. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 38
2.4. Giá cả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 39
3. Đánh giá năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 40
3.1. Nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu 40
3.2. Chất lượng sản phẩm xuất khẩu. 42
3.3. Giá mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu 43
3.4. Vị thế xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam so với các nước xuất khẩu chủ yếu.
44
4. Những vấn đề đang đặt ra cho xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian
tới 45
4.1. Những khó khăn và thách thức 45
4.2. Cơ hội phát triển 47
5. Đặc điểm các thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam. 48
5.1. Thị trường Nhật Bản. 48
5.1.1. Một số thách thức khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. 48
5.1.2. Nhu cầu về nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản 49
5.1.3. Đặc điểm tiêu dùng của người dân Nhật Bản. 49
5.2. Thị trường Mỹ 51
5.2.1. Khái quát chung 51

5.2.2. Nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ 51
5.2.3. Đặc điểm khách hàng và người tiêu dùng Mỹ. 52
5.2.4. Các vấn đề cản trở trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ 53
5.3. Thị trường EU 54
5.3.1. Một số đặc điểm chung về nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của thị trường EU.
54
5.3.2. Sản phẩm thuỷ sản sinh thái đối với thị trường Châu Âu 55
5.3.3. Sơ lược diện mạo một số thị trường thủy sản lớn của EU 56
5.4. Thị trường Trung Quốc. 57
5.4.1. Một số đặc điểm khái quát. 57
5.4.2. Đặc điểm và nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của Trung Quốc 58
5.4.3. Xu hướng tiêu thụ thuỷ sản ở Trung Quốc trong những năm tới. 59
Chương 3: Định hướng và giảI pháp Marketing trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt
nam những năm tới 61
1. Kinh nghiệm xuất khẩu thuỷ sản thành công của một số nước 61
1.1. Quản lý và kiểm tra chất lượng thuỷ sản xuất khẩu ở Thái Lan – Một mô hình
thành công có thể áp dụng cho các nước đang phát triển 61

4
1.2. Sự chuẩn bị cho tương lai của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu
Trung Quốc 64
2. Định hướng chiến lược xuất khẩu thuỷ sản của việt nam trong thời gian tới 65
2.1. Mục tiêu chiến lược Marketing trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 65
2.2. Những định hướng cơ bản trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 66
2.2.1. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu 66
2.2.2. Tiếp tục đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. 67
2.2.3. Phát triển thêm nhiều mặt hàng thuỷ sản mới cho xuất khẩu 71
2.2.4. Nâng cao vị thế cạnh tranh trong xuất khẩu thuỷ sản. 71
3. Giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản 73
3.1. Giải pháp về chiến lược sản phẩm đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản ở

Việt Nam. 73
3.1.1. Giải pháp về chất lượng sản phẩm. 73
3.1.2. Giải pháp về chủng loại sản phẩm 75
3.2. Giải pháp về chiến lược giá cả trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam 77
3.3. Giải pháp về chiến lược phân phối trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam. 79
3.4. Giải pháp về chiến lược yểm trợ xuất khẩu thủy sản của Việt Nam 81
3.5. Giải pháp về chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
82
4. Một số kiến nghị về chính sách phát triển xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 83
4.1. Đẩy mạnh hệ thống xúc tiến thương mại quốc tế cấp Nhà nước, hỗ trợ người
sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu 83
4.2. Tăng cường vai trò của các trung tâm thông tin nhằm cập nhật tốt thông tin thị
trường. 85
4.3. Thực hiện chính sách đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại. 86
4.4. Đa dạng hoá các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu và vận dụng linh hoạt các
phương thức mua bán quốc tế. 86
Kết luận 88
Nguồn tài liệu tham khảo 88


5
DANH SÁCH CÁC BẢNG

Bảng 1 : Sản lượng thuỷ sản của thế giới qua nh
ững năm gần đây
Đơn vị : triệu tấn 10
Bảng 2 : 10 nước nhập khẩu thuỷ sản đứng đầu thế giới 13
Bảng 3: 10 nư

ớc xuất khẩu thuỷ sản đứng đầu thế giới
Đơn vị : tỷ USD 14
Bảng 4 : Dự báo xuất nhập khẩu thuỷ sản của thế giới vào đ
ầu thế kỷ XXI
Đơn vị: tỷ USD 19
Bảng 5 : Giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam thời gian qua 35
Bảng 6: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam năm 2002 37
Bảng 7 : Cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam năm 2002 38
Bảng 8 : Giá trị các nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực trong thời gian tới (Tỷ
USD) 66


6
LỜI NÓI ĐẦU
Để thực hiện thắng lợi chiến lược Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hướng mạnh
vào xuất khẩu của nước nhà, Việt Nam đã, đang và còn phải nỗ lực rất nhiều trong lộ
trình hội nhập kinh tế khu vực cũng như thế giới. Để xuất khẩu tăng nhanh trong thời
gian tới, Việt Nam chủ trương kết hợp xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như
hàng nông, lâm, thuỷ sản, khoáng sản, hàng giày dép, dệt may, và một số hàng có hàm
lượng kỹ thuật công nghệ cao như ôtô, xe máy, hàng điện tử và dịch vụ phần mềm.
Hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, có
khả năng cạnh tranh và triển vọng phát triển, đồng thời góp phần tăng trưởng kinh tế
đất nước, xuất khẩu thu ngoại tệ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu
hàng thuỷ sản năm 2002 đạt 2,014 tỷ USD, tăng 0,7% so với kế hoạch và 13,31% so
với năm 2001, nộp ngân sách nhà nước 1400 tỷ đồng, tiếp tục đứng vị trí thứ 3 về giá
trị kim ngạch xuất khẩu của Đất nước. Trong thời gian trung hạn tới, nhiều khả
năng sẽ có những thay đổi thứ hạng các mặt hàng xuất khẩu chính yếu của Việt Nam.
Tuy nhiên có thể khẳng định rằng, thuỷ sản sẽ vẫn là một trong những mặt hàng xuất
khẩu hàng đầu của Đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản cả về số lượng và chất
lượng đang là yêu cầu cấp thiết của Nhà nước ta, là vấn đề cập nhật cao đang được

nhiều người quan tâm. Ý thức được tình hình thực tế đó, em đã quyết định chọn
đề tài “Giải pháp Marketing cho việc phát triển xuất khẩu thuỷ sản của các doanh
nghiệp Việt Nam những năm tới” cho khoá luận tốt nghiệp của mình. Đề tài được bố
cục thành 3 chương như sau : Chương 1 : Tổng quan thị trường thuỷ sản thế
giới và lý luận chung về Marketing xuất khẩu. Chương 2 : Đánh giá thực trạng
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam những năm qua. Chương 3 : Định hướng và
giải pháp Marketing trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam những năm tới.
Do những hạn chế về tài liệu, về thời gian và khả năng của người viết, đề tài khoá luận
khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn kịp
thời của các thầy cô giáo trong trường cùng ý kiến đóng góp của đông đảo độc giả.
Nhân dịp này, người viết xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với tất cả các thầy cô đã
tận tình truyền đạt kiến thức trong các năm học vừa qua. Đặc biệt, người viết xin chân

7
thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Trung Vãn-người thầy đã trực tiếp hướng dẫn và giúp
đỡ người viết thực hiện đề t
ài này.
Hà Nội, năm 2003






CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN THẾ GIỚI
VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MARKETING XUẤT KHẨU.


1. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN THẾ GIỚI.
1.1. Tình hình tiêu thụ thuỷ sản của thế giới.

1.1.1. Mức tiêu thụ của toàn thế giới những năm qua.
Từ năm 1994 trở đi, mức tiêu thụ thuỷ sản có khuynh hướng tăng, chủ yếu là
dành làm thức ăn cho con người. Theo số liệu thống kê của FAO, năm 1998, 36% sản
lượng thuỷ sản thế giới được bán làm thức ăn tươi, 64% được tiêu thụ cho các dạng
chế biến khác, 79,6% sản lượng phục vụ con người tiêu dùng, 20,4% còn lại được
dùng vào các mục đích khác. Theo số liệu năm 2001, lượng tiêu thụ thuỷ sản trung
bình trên thế giới là 13,1 kg thuỷ sản/người/năm. Khu vực Đông và Đông Nam Á
chiếm tới 50% tổng tiêu thụ thuỷ sản của thế giới, trong đó Nhật Bản và Trung Quốc
là những nước tiêu thụ lớn nhất, các nước như Philippin, Malaysia và Singapor có
mức tiêu thụ thuỷ sản tính trên đầu người cao. Các nước phát triển ở Tây Âu, Bắc
Mỹ là những trung tâm tiêu thụ thuỷ sản đạt mức cao nhất về bình quân theo đầu
người hàng năm. Năm 2002, mức tiêu thụ thuỷ sản của toàn thế giới đạt khoảng 20
triệu tấn. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tăng sản lượng thuỷ sản
thế giới thời gian qua là do sự kích thích của nhu cầu tiêu thụ. Tuy nhiên tiêu thụ thuỷ

8
sản lại chịu tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó phải kể tới là do tăng dân số, tăng thu
nhập và yếu tố giá cả. Tăng dân số là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tăng tiêu thụ
thuỷ sản ở các nước đang phát triển, 80% dân số thế giới là thuộc các nước đang phát
triển-nơi có nhu cầu thuỷ sản năng động nhất. Trong khi đó tăng thu nhập có tác động
rất lớn tới sự phồn vinh của thị trường thuỷ sản thế giới. Điều này được phản ánh rất
rõ qua việc thay đổi nhu cầu từ thịt gia cầm sang thuỷ sản. Sự thay đổi này rất nhạy
cảm với yếu tố giá cả và chịu ảnh hưởng lớn của hoạt động tuyên truyền quảng cáo.
Nói tóm lại, tiêu thụ thuỷ sản của thế giới thời gian qua chịu ảnh hưởng rất lớn của sản
xuất thuỷ sản thế giới cùng với sự tiến bộ của Khoa học và Công nghệ.
1.1.2. Mức tiêu thụ của những nước chủ yếu.
Nhật Bản là nước có mức tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới trong thời gian qua.
Hằng năm, người Nhật tiêu thụ một lượng thực phẩms thuỷ sản khổng lồ, trên 8 triệu
tấn cùng với khoảng 600 nghìn tấn bột cá. Theo số liệu năm 2001, mức tiêu thụ của
Nhật Bản chiếm 22% tổng sản lượng của toàn thế giới, giảm so với mức 30% của năm

2000 do suy thoái kinh tế, bình quân mỗi năm tiêu thụ khoảng 40kg/người. Trung
Quốc là nước tiêu thụ thuỷ sản đứng thứ hai trên thế giới với mức tăng 10% mỗi năm
kể từ năm 1995 và đến năm 1997 Trung Quốc đã chiếm 36% tiêu thụ thuỷ sản toàn
cầu. Mức tiêu thụ thuỷ sản nội địa của Trung Quốc trong những năm gần đây đã tăng
lên qua từng năm, cụ thể, sản lượng tiêu thụ thuỷ sản năm 1999 là 7,33 triệu tấn, năm
2000 là 8,528 triệu tấn, và năm 2001 là 9,923 triệu tấn. Mỹ là nước tiêu thụ thuỷ
sản đứng thứ 3 trên thế giới, sau Nhật Bản và Trung Quốc. Mức tiêu thụ thuỷ sản của
Mỹ trung bình trong những năm 1994 đến 1997 là 5,78 triệu tấn/năm. Trong các năm
tiếp theo mức tiêu thụ còn cao hơn. Theo số liệu năm 2002, mức tiêu thụ thuỷ sản bình
quân của quốc gia này là 7k/người/năm, với tổng giá trị tiêu thụ đạt 26,7 tỷ USD. Cá
hộp là mặt hàng thuỷ sản được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ và ở mức khá ổn định trong
những năm gần đây là 2-2,5 kg/người/năm, trong đó mặt hàng cá ngừ đóng hộp là mặt
hàng chính với mức tiêu thụ là 1,8 kg/người/năm. Mặt hàng tiêu thụ lớn thứ hai là tôm
đông lạnh với mức tiêu thụ bình quân trên đầu người năm 1996 là 1,48 kg và năm
1998 là 1,63 kg. Ngoài ra các mặt hàng tiêu thụ nhiều ở Mỹ nữa là cá hồi, cá tuyết và

9
nhuyễn thể 2 vỏ. Một số quốc gia và khu vực khác có mức tiêu thụ thuỷ sản lớn
trên thế giới như Singapo, EU, cũng là nhân tố quan trọng làm gia tăng mức tiêu thụ
thuỷ sản thế giới thời gian qua. Năm 2002, tiêu thụ thuỷ sản bình quân của EU đạt
17kg/người/năm với tổng mức tiêu thụ đạt 650.000 tấn. Cũng trong năm này, con số
tiêu thụ thuỷ sản bình quân ở quốc gia Singapor là 24kg/người/năm.
1.2. Sản xuất hàng thuỷ sản của thế giới.
1.2.1. Mức sản lượng của toàn thế giới.
Mặc dù trong thời gian qua, thế giới đã có nhiều biến động về chính trị, kinh tế,
xã hội, thậm chí trong thời kì khủng hoảng kinh tế ở Châu Á 1997-1998, nhưng tổng
sản lượng thuỷ sản thế giới vẫn tăng đáng kể. Đến thời điểm năm 2001, tổng sản
lượng thuỷ sản thế giới đạt 129,3 triệu tấn, giảm nhẹ so với năm 2000 là 141,7 triệu
tấn, nhưng chủ yếu là do giảm sản lượng cá nổi nhỏ ở khu vực Nam Mỹ. Sản lượng
khai thác đạt 91,8 triệu tấn, giảm 3 triệu tấn, trong khi đó sản lượng nuôi trồng tiếp tục

tăng lên 37,5 triệu tấn và chiếm 29% tổng sản lượng. Như vậy, một điều đáng lưu
ý trong sản xuất thuỷ sản thế giới là xu hướng gia tăng của sản lượng thuỷ sản nuôi
trồng trong khi sản lượng đánh bắt thuỷ sản tự nhiên ổn định hay có dấu hiệu giảm sút.
Thuỷ sản nuôi trồng toàn cầu liên tiếp tăng với tốc độ trung bình 9,2% mỗi năm, so
với chỉ 1,4% ở sản lượng thủy sản tự nhiên. Trong khi dân số thế giới tiếp tục tăng với
tốc độ khá nhanh, đặc biệt là ở khu vực các nước đang phát triển thì khả năng đánh bắt
thuỷ sản tự nhiên không tăng một cách tương ứng. Do vậy, có thể nói sản phẩm
khai thác là căn cứ bền vững, sản phẩm nuôi trồng mới là điều kiện để phát triển.
Một điều quan trọng hơn nữa là phần lớn sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của thế giới là
do các nước đang phát triển sản xuất. Theo công bố mới nhất của Viện Nghiên cứu
chính sách lương thực quốc tế (IFPRI) các nước đang phát triển, nhất là ở Châu Á,
đang thống trị nguồn đánh bắt thuỷ sản thế giới. Hiện các nước đang phát triển chiếm
khoảng 70% sản lượng thuỷ sản của thế giới. Trong rất nhiều lý do có lý do quan trọng
phải kể tới là nuôi trồng thuỷ sản thực phẩm chi phí thấp và dễ thực hiện hơn so với
chăn nuôi gia súc lấy thịt. Sự tăng, giảm sản lượng thuỷ sản thế giới và từng nước
cụ thể thời gian qua phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó có các nhân tố : -

10
Nhu cầu về thuỷ sản tăng mạnh trên thế giới do tăng nhanh dân số, do tăng thu nhập
và thay đổi thói quen tiêu thụ. - Thành tựu khoa học kỹ thuật tác động đến việc
đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản. - Sự tương đối ổn định của giá năng lượng
trong phần lớn thời gian qua. Mặt khác, cũng có những nguyên nhân làm giảm sản
lượng thuỷ sản thế giới trong các năm qua, đó là : - Do những đặc trưng của
ngành thuỷ sản, cũng giống như các nguồn tài nguyên khác, mức độ rủi ro của đầu tư
là rất lớn. - Chi phí đánh bắt tăng, bao gồm mọi chi phí vận hành từ chi phí
nguyên nhiên liệu, đào tạo, hậu cần và bến bãi,
- Nguồn tài nguyên thuỷ sản của thế giới đã bị khai thác quá công suất, cùng với
nạn ô nhiễm môi trường ngày càng tăng và điều kiện sinh thái thay đổi.
- Các nước đang phát triển với những vấn đề đang cần phải giải quyết trong việc
quản lý nguồn tài nguyên biển trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình.

1.2.2. Những nước sản xuất chủ yếu.
Năm 1998, Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Nga, Pêru, Inđônêxia, Chilê và Ấn Độ
theo thứ tự là những nước sản xuất thuỷ sản lớn nhất thế giới. Trung Quốc được coi là
nước sản xuất thuỷ sản lớn nhất thế giới trong những năm 1990 và vẫn giữ được vị trí
này trong 2 năm đầu của thiên niên kỉ mới. Ngoài ra tuyệt đại bộ phận các nước đang
phát triển sản xuất thuỷ sản lớn khác như Inđônêxia, Thái Lan, Việt Nam, đều đạt
mức tăng sản lượng cao qua các năm.
Bảng 1 : Sản lượng thu
ỷ sản của thế giới qua những năm gần đây
Đơn vị : triệu tấn
Quốc gia 1999 2000 2001
Trung Quốc 40.029 41.600 42.580
Pêru 8.437 10.665 7.996
Ấn Độ 5.593 5.689 5.689
Nhật Bản 5.961 5.752 5.405
Mỹ 5.228 5.173 5.402
Inđônêxia 4.736 4.929 5.117

11
Chilê 5.325 4.692 4.363
Nga 4.210 4.048 3.718
Thái Lan 3.621 3.631 3.631
Nauy 3.096 3.191 3.199
Nước khác 40.415 41.095 42.200
Tổng cộng 126.651 130.433 129.300
Nguồn : Tạp chí Thương Mại Thuỷ Sản 5-
6/2003 Qua bảng số liệu trên ta có thể nhận thấy, Trung Quốc là quốc gia có sự
đóng góp rất lớn trong việc tăng trưởng sản lượng thuỷ sản thế giới thời gian qua. Sản
lượng thuỷ sản của đất nước này lớn hơn rất nhiều các quốc gia sản xuất thuỷ sản lớn
khác trên thế giới. Năm 2001, sản lượng của riêng Trung Quốc đã chiếm tới 42.580

triệu tấn, trong khi đó đất nước có sản lượng đứng thứ 2 là Pêru chỉ đạt 7.996 triệu tấn.
Ngoài ra, trong 10 nước có sản lượng thuỷ sản lớn nhất thế giới ta thấy có mặt rất
nhiều quốc gia thuộc khu vực các nước đang phát triển như Pêru, Ấn Độ, Inđônêxia,
điều này chứng tỏ khả năng vươn lên của các quốc gia này trong lĩnh vực thuỷ sản
toàn cầu.
1.3. Tình hình nhập khẩu thuỷ sản của thế giới.
Khác với những mặt hàng thực phẩm khác, trong thời gian qua thị trường thuỷ
sản thế giới vẫn khá năng động với những đặc trưng riêng của mình. Hàng trăm dạng
sản phẩm đã được trao đổi và mua bán trên nhiều thị trường và khu vực khác nhau.
Tuy nhiên có thể phân ra 7 nhóm sản phẩm buôn bán chính trên thị trường thế giới, đó
là : Cá tươi, ướp đông, đông lạnh; Giáp xác và nhuyễn thể tươi ướp đông, đông lạnh;
Cá hộp; Giáp xác và nhuyễn thể hộp; Cá khô, ướp muối, hun khói; Bột cá; Dầu cá.
Ba khu vực nhập khẩu lớn nhất đó là : Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu.
1.3.1. Mức nhập khẩu của thế giới.
Trong nhập khẩu thuỷ sản của thế giới, các nước phát triển chiếm tỷ lệ áp đảo
(85-90%) nhập khẩu của thế giới trong khoảng thời gian 10 năm qua. Cụ thể là giá trị
nhập khẩu thuỷ sản của 50 nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu thuỷ sản (như Nhật
Bản, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Italia…) tăng từ 53,4 tỷ USD năm 1998 lên 56,04 tỷ

12
USD năm 1999 và 58,5 tỷ USD năm 2000 chiếm khoảng 97,5% tổng giá trị nhập khẩu
thuỷ sản của thế giới. Nhập khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ nhưng có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây. Tổng giá trị nhập khẩu
thuỷ sản toàn thế giới năm 2001 đạt hơn 59,3 tỷ USD, có giảm nhẹ so với năm 2000,
trong đó các nước phát triển chiếm trên 80%.
1.3.2. Mức nhập khẩu và cơ cấu nhập khẩu của những nước nhập khẩu chủ yếu.
Nhật Bản tiếp tục là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới (chiếm 35,9%),
mặc dù khối lượng nhập khẩu đã giảm do suy thoái kinh tế kéo dài. Vào khoảng thời
gian cuối thập kỷ 80 và đầu những năm 90, khi sản lượng thuỷ sản luôn đạt được con
số rất lớn là 10-11 triệu tấn/năm, Nhật Bản vẫn phải nhập khẩu hằng năm khoảng 3

triệu tấn thuỷ sản thực phẩm với giá trị khoảng 10 tỷ USD để đảm bảo cho mỗi người
Nhật sử dụng trung bình 72 kg thuỷ sản/người/năm. Gần đây do nguồn lợi hải sản cạn
kiệt, sản lượng khai thác sụt xuống rất nhanh, cứ mỗi năm giảm khoảng nửa triệu tấn,
từ 11 triệu tấn năm 1989, tới năm 1997 chỉ còn 6,7 triệu tấn. Điều này bắt buộc Nhật
Bản phải tăng cường nhập khẩu thuỷ sản và gần đây, quốc gia này vẫn phải nhập khẩu
tới 3,6 - 3,7 triệu tấn thực phẩm thuỷ sản và 600 nghìn tấn bột cá. Mỹ là nước
nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai thế giới, đạt 10,2 tỷ USD, chiếm khoảng 16%. Mặt
hàng nhập khẩu nhiều nhất vào Mỹ là tôm đông lạnh với khối lượng nhập khẩu trung
bình những năm gần đây đạt trên 300.000 tấn, trị giá trên 3 tỷ USD. Mặt hàng nhập
khẩu lớn thứ hai là cá ngừ đóng hộp, chủ yếu là từ các nước Đông Nam Á gồm Thái
Lan (57%), Philippin (25%), Inđônêxia (11%). Cá ngừ đóng hộp chiếm 37% tổng tiêu
thụ hải sản ở Mỹ, chủ yếu là ở các hộ gia đình (95%). Mặt hàng nhập khẩu lớn thứ ba
ở Mỹ là Cá hồi (chủ yếu là cá hồi nuôi ở Đại tây dương) với giá trị nhập khẩu gần đây
là hơn 727 triệu USD. Tiếp theo là tôm hùm với giá trị nhập khẩu là 719 triệu USD.
EU bao gồm 15 quốc gia với 376 triệu người tiêu dùng. Đây là một trong 3 thị trường
nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới, nhu cầu nhập khẩu hằng năm rất lớn và không
ngừng tăng lên. Giá trị nhập khẩu thuỷ sản của EU những năm gần đây chiếm khoảng
35% tổng giá trị thuỷ sản nhập khẩu của thế giới, đáng kể nhất là các nước Tây Ban
Nha, Pháp, Italia, Đức và Anh. Điều này cho thấy các nước Tây Âu đang ngày càng

13
phụ thuộc vào thuỷ sản nhập khẩu. Cơ cấu nhập khẩu các mặt hàng thuỷ sản của thị
trường này là cực kỳ đa dạng, có thể tiêu thụ rất nhiều mặt hàng thực phẩm thuỷ sản từ
khắp nơi trên thế giới. Trong những năm gần đây, hai nước Nhật Bản, Mỹ và các
nước EU (tính cả khối lượng sản phẩm buôn bán trong khối) đã nhập khẩu tới 75%
tổng giá trị thuỷ sản trên thế giới. Từ đầu những năm 1990, trong số 15 nước nhập
khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay, người ta thấy có tên của các lãnh thổ và các
nước đang phát triển như Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc, Từ năm 1995 đến
nay, tiêu thụ thuỷ sản của mỗi gia đình Trung Quốc tăng lên gấp 3,5 lần. Hơn thế nữa
Trung Quốc được coi là thị trường dễ tính. Thị trường này chấp nhận tiêu thụ cả

những sản phẩm xuất khẩu đi EU bị trả lại do bao bì hư. Có thể nói đây là thuận lợi
căn bản cho các doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam đối
với Trung Quốc và các nước xuất khẩu khác.
Bảng 2 : 10 nước nhập khẩu thuỷ sản đứng đầu thế giới
Đơn vị : tỷ USD
Tên nước 1999 2000 2001
Nhật Bản 14,7 15,5 13,5
Hoa Kỳ 9,4 10,5 10,3
Tây Ban Nha 3,3 3,4 3,7
Pháp 3,3 3,0 3,1
Italia 2,7 2,5 2,7
Đức 2,3 2,3 2,4
Anh 2.3 2,2 2,2
Trung Quốc 1,1 1,8 1,8
Hồng Kông 1,6 1,9 1,8
Đan Mạch 1,8 1,8 1,7
Các nước khác 15,1 15,2 16,1
Tổng cộng 57,6 60 59,3
Nguồn : Tạp chí Thương Mại Thuỷ Sản 5-
6/2003 Qua bảng số liệu trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy phần lớn các quốc gia

14
nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu trên thế giới là các nước có nền kinh tế phát triển như
Mỹ, Nhật Bản, và các quốc gia Châu Âu. Trong số 10 nước này, nếu không tính Nhật
Bản, chỉ có Trung Quốc là quốc gia thuộc khu vực Châu Á.
1.4. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của thế giới.
1.4.1. Khả năng cung cấp của các nước xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê của FAO, tính đến năm 2001, sản lượng thuỷ sản xuất khẩu của
những nước đứng đầu thế giới được thể hiện như sau :
Bảng 3: 10 nư

ớc xuất khẩu thuỷ sản đứng đầu thế giới
Đơn vị : tỷ USD
Tên nước 1999 2000 2001
Thái Lan 4,1 4,4 4,0
Trung Quốc 3,0 3,6 4,0
Nauy 3,8 3,5 3,4
Hoa Kỳ 2,9 3,1 3,3
Canađa 2,6 2,8 2,8
Đan Mạch 2,9 2,8 2,7
Chilê 1,7 1,8 1,9
Tây Ban Nha 1,6 1,6 1,8
Đài Loan 1,7 1,8 1,8
Việt Nam 0,9 1,5 1,8
Các nước khác 27,6 28,5 28,1
Tổng cộng 52,8 55,3 55,6
Nguồn : Tạp chí Thương Mại Thuỷ Sản 5-
6/2003 Thông qua những số liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng tỷ trọng trong
cung cấp hàng thuỷ sản ra thị trường thế giới của các nước đang phát triển có xu
hướng ngày càng cao. Trong thời gian gần đây cũng như trong tương lai gần, nhịp độ
tăng xuất khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển sẽ nhanh hơn các nước công
nghiệp phát triển. Đồng thời, không nước nào có thể duy trì vị trí độc tôn trong việc

15
cung cấp thuỷ sản. Trong thập kỷ 80 Mỹ luôn là nước có mức xuất khẩu thuỷ sản lớn
nhất, có năm vượt hẳn lên với mức kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 3 tỷ USD nhưng đến
năm 1993 thì Mỹ phải nhường vị trí đứng đầu cho một nước đang phát triển là Thái
Lan. Từ đó cho đến những năm gần đây Thái Lan vẫn duy trì được vị trí của mình
nhưng với khoảng cách không lớn so với các nước khác do hiện nay việc xuất khẩu cá
ngừ của Thái Lan đang gặp khó khăn cùng với việc sử dụng dầu thực vật biến đổi gien
(GMO) trong chế biến. Thái Lan và Trung Quốc vẫn là 2 nước xuất khẩu thuỷ

sản lớn nhất thế giới trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây,
Trung Quốc đã phát triển mạnh chế biến thuỷ sản xuất khẩu, và kể từ năm 2002 đã
chiếm ngôi đầu bảng của Thái Lan. Năm 2002, sản lượng thuỷ sản xuất khẩu của
Trung Quốc đạt 2,085 triệu tấn, trị giá 4,69 tỷ USD, tương ứng tăng 6,8% và 12,1% so
với năm 2001.
1.4.2. Khả năng cạnh tranh của các nước xuất khẩu.
Cũng giống như đa số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản thuộc khu vực các nước
đang phát triển, các nhà xuất khẩu Thái Lan đang phải đối phó với các biện pháp kiểm
tra vệ sinh nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu. Ngoài ra, kể từ năm 1991, xuất khẩu
tôm Thái Lan có dấu hiệu liên tục giảm sút do sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất
khẩu tôm khác như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ và các nước Nam Mỹ. Tuy
vẫn là nước xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, nhưng do giá tôm của Thái Lan đắt hơn
một số đối thủ cạnh tranh khác nên thị phần tôm đông lạnh của Thái Lan bị mất dần
sang tay Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, theo Trung tâm nghiên cứu Kasikorn,
xuất khẩu tôm gần đây của Thái Lan đã có triển vọng khả quan do sự hợp tác tốt giữa
thành phần kinh tế tư nhân và quốc doanh trong việc cải tiến hệ thống sản xuất, nâng
cao sự tin cậy của đối tác thương mại. Hơn thế nữa, Thái Lan có thế mạnh về chế biến
thuỷ sản xuất khẩu nói chung và tôm nói riêng. Cho tới nay, sản phẩm thuỷ sản của
Thái Lan, đặc biệt là tôm đã vươn tới hầu hết thị trường trên thế giới. Đây là một điểm
rất khả quan trong khả năng cạnh tranh của Thái Lan mà không phải quốc gia nào
cũng có thể có được trong thời điểm hiện nay. Hơn thế nữa, Tổ chức kiểm tra chất
lượng thuỷ sản của Thái Lan (FIQD) đã được hầu hết các nước nhập khẩu thuỷ sản

16
chính trên thế giới công nhận và tin tưởng. Đối với Trung Quốc, vấn đề dư lượng
kháng sinh trở thành nguyên nhân hàng đầu hạn chế sự phát triển xuất khẩu thuỷ sản
của quốc gia này. “Sự kiện chloramphenicol” trong sản phẩm thủy sản xuất khẩu
không những làm cho hàng thủy sản Trung Quốc không vào được thị trường EU, mà
còn ảnh hưởng nặng nề đến lòng tin của người tiêu dùng trong nước và hình ảnh quốc
tế về sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của nước này - điều không dễ gì khắc phục trong

thời gian tới. Theo thống kê năm 2000, Trung Quốc có hơn 6.900 nhà máy chế
biến nhưng chỉ có 120 nhà máy được phép xuất sang EU và 300 nhà máy được công
nhận đã áp dụng HACCP. Có thể nói sự phát triển công nghệ chế biến thuỷ sản của
Trung Quốc chưa theo kịp tốc độ điều chỉnh cơ cấu sản xuất nghề cá của nước ngoài,
và cũng chưa theo kịp sự tăng trưởng nhu cầu thuỷ sản của thị trường thế giới. Ngoài
ra, mâu thuẫn khá lớn giữa sản xuất thuỷ sản có tính mùa vụ Trung Quốc với nhu cầu
quanh năm của thị trường thuỷ sản thế giới, cùng với trình độ tổ chức ngành hàng còn
thấp, đã ảnh hưởng rất nhiều tới năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu
của quốc gia rộng lớn này. Tuy nhiên, do tài nguyên nước và nguồn lao động rất
dồi dào nên giá thành sản phẩm thuỷ sản nuôi của Trung Quốc rất thấp, tạo cho Trung
Quốc lợi thế rất mạnh trong cạnh tranh toàn cầu về các mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói,
Trung quốc vẫn là nước có tiềm lực rất lớn trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản thời
gian tới. Ngoài 2 quốc gia xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới này, chúng ta
cũng có thể nhận thấy gương mặt của các nước xuất khẩu lớn khác như Hoa Kỳ,
Canađa và một số nước thuộc khu vực Châu Âu. Điểm dễ dàng phân biệt, đây là
những quốc gia có nền kinh tế phát triển. Do vậy, năng lực cạnh tranh của các quốc
gia này trên thị trường thuỷ sản thế giới không phải ở khả năng xuất khẩu ồ ạt, mà
chính là ở năng lực chế biến hàng thuỷ sản nhằm phục vụ tốt nhất cho xuất khẩu.
Ngoài ra, khả năng cung cấp các mặt hàng thuỷ sản có chất lượng và đảm bảo an toàn
vệ sinh cũng là những lợi thế cạnh tranh rất mạnh đối với các quốc gia này suốt thời
gian qua cũng như trong tương lai.
1.5. Diễn biến giá quốc tế hàng thuỷ sản.

17
Những phân tích trên đây cho thấy, số lượng các quốc gia tham gia cung ứng trên
thị trường thuỷ sản là không nhiều, do vậy sự rút lui hay tham gia, sự tăng giảm sản
lượng thuỷ sản ở một trong những nước xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu đều có ảnh
hưởng trực tiếp đến giá cả trên thị trường. Các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn thường có
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản và được trợ giúp
bởi các phương tiện kỹ thuật tiên tiến. Các nước đang phát triển có ưu thế trong xuất

khẩu nguyên liệu thuỷ sản do họ chưa đủ khả năng cung ứng các mặt hàng tinh chế
đáp ứng nhu cầu của những thị trường khó tính. Cơ cấu nguyên liệu thuỷ sản xuất
khẩu của họ thường giống nhau, do vậy họ thường cạnh tranh với nhau về giá. Còn
trên thị trường sản phẩm tinh chế, các đối thủ cạnh tranh với nhau về chất lượng, sự
độc đáo và cá biệt của sản phẩm. Giá trên thị trường thuỷ sản phụ thuộc vào
chủng loại sản phẩm. Giá hàng thô, sơ chế thấp hơn nhiều so với hàng tinh chế. Ngoài
ra, giá cả trên thị trường này còn phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ cung cầu. Theo
thống kê, 80,9% thuỷ sản là hải sản đánh bắt từ biển, do vậy vào mùa vụ thì lượng
cung tăng đột biến làm giá nguyên liệu thuỷ sản ổn định và thấp hẳn. Nếu mất mùa do
ô nhiễm môi trường hoặc do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, giá sẽ tăng cao, khi đó giá
cả thuỷ sản thế giới thường tính bằng giá xuất khẩu của các nước sản xuất và xuất
khẩu chính như Thái Lan ,… Bên cạnh đó, các điều kiện xã hội, kinh tế cũng ảnh
hưởng đến giá cả. Giá sẽ biến động theo hướng giảm mạnh nếu vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm bị đe doạ hoặc suy thoái kinh tế xảy ra ở các nước nhập khẩu chính buộc
họ phải cắt giảm nhu cầu nhập khẩu. Trong trường hợp này, giá cả thuỷ sản thế giới sẽ
được căn cứ vào giá ở thị trường nước nhập khẩu chính như Mỹ, EU, hay Nhật Bản.
Giá thuỷ sản thế giới cũng sẽ được căn cứ vào giá ở các quốc gia này đối với các mặt
hàng thuỷ sản tinh chế.
1.6. Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới trong những năm tới.
1.6.1. Tình hình sản xuất.
Có thể nói rằng, hầu hết những yếu tố tác động đến tình hình sản xuất thuỷ sản
thời gian qua sẽ vẫn là các nhân tố chi phối sản xuất thuỷ sản thời gian tới, đặc biệt là
tác động của nhu cầu về thuỷ sản tăng mạnh do sức ép của tăng dân số và tăng thu

18
nhập, tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và những ràng buộc về môi trường sinh
thái là vô cùng quan trọng trong quá trình tăng sản lượng thuỷ sản của thế giới.
Dự báo trong thời gian tới : - Mức tăng sản lượng thuỷ sản hàng năm chỉ đạt
khoảng 1%-2%. Sản lượng thuỷ sản thế giới đến năm 2005 có thể đạt mức 125-135
triệu tấn. - Tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản có thể đạt mức 4%-5%/ năm để bù

đắp cho sản lượng đánh bắt ổn định hay giảm sút. - Tăng sản lượng thuỷ sản của
nhóm nước đang phát triển vẫn năng động trong khi tỷ trọng của các nước công
nghiệp phát triển trong sản xuất thuỷ sản của thế giới sẽ giảm sút tương đối. Mức tăng
sản lượng thuỷ sản của các nước đang phát triển dự báo có thể đạt được 2-2,5%/năm
trong thời gian tới, trong khi đó ở các nước phát triển tỷ lệ tăng trung bình ước tính
là1%-2%/năm.
1.6.2. Tình hình tiêu thụ.
Do ảnh hưởng của tăng dân số và tăng thu nhập, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển, tình hình tiêu thụ thuỷ sản của thế giới trong thời gian tới sẽ có những biến
đổi. Viện nghiên cứu Chính sách Lương thực thế giới dự đoán, nhu cầu thuỷ sản
thế giới sẽ tăng mạnh vào năm 2020, vậy lượng cung phải tăng để đáp ứng nhu cầu
tăng. Tiêu thụ thuỷ sản thế giới sẽ đạt 107,4 triệu tấn hoặc 121 triệu tấn vào năm 2010,
đạt 127,8 triệu tấn vào năm 2020, so với 90 triệu tấn năm 1997 và 45 triệu tấn năm
1973, trong đó tiêu thụ ở các nước đang phát triển trừ Trung Quốc sẽ tăng 57%, đạt
hơn 80 triệu tấn vào năm 2005 và đạt tới 98,6 triệu tấn vào năm 2020. Trong khi đó ở
các nước phát triển sẽ chỉ tăng 4%, đạt 29,2 triệu tấn vào năm 2020. Như vậy, nếu
lượng thuỷ sản thế giới tăng ở mức tối thiểu thì sản lượng cung cấp sau 14 năm sẽ phải
tăng 14 triệu tấn (từ 1997-2010) và nếu tăng tối đa thì mức tăng sẽ là 28 triệu tấn. Điều
này có nghĩa là mỗi năm lượng tiêu thụ thuỷ sản của thế giới phải tăng từ 1 tới 2 triệu
tấn (từ 1-2% sản lượng). Tuy nhiên mức tăng tiêu thụ thuỷ sản sẽ không đồng đều, khu
vực Châu Á và Châu Phi sẽ tăng mạnh nhất, trong khi châu Âu sẽ giảm. Thị hiếu
tiêu dùng thuỷ sản của thế giới thời gian tới dự báo sẽ thay đổi theo hướng sau : -
Tăng tiêu thụ các loại thuỷ sản tươi sống, đặc biệt là các loài có giá trị cao như : giáp
xác, nhuyễn thể, cá ngừ,

19
- Tăng nhu cầu về thực phẩm thích ứng “thế giới đang trong xu hướng muốn có
các thực phẩm có thể chế biến một cách nhanh chóng, thời gian chế biến là tối thiểu và
hương vị phải đặc sắc như thực phẩm được chế biến tại gia”. - Nhu cầu về thực
phẩm có giá trị gia tăng cao và những thực phẩm mới mà thủy sản là thành phần

chính. - Tăng yêu cầu an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng và yêu cầu về chất
lượng thuỷ sản của các thị trường nhập khẩu, đó là việc sản phẩm thuỷ hải sản nhập
khẩu vào EU hay Bắc Mỹ, phải thực hiện đúng quy trình HACCP trong kiểm tra và
giám sát chất lượng hàng thuỷ hải sản. - Do kết quả của việc cải cách hệ thống lưu
thông hàng thuỷ sản và do nhiều nguyên nhân khác, ở phần lớn các nước sẽ có xu
hướng tăng tiêu thụ thuỷ sản tại gia đình bên cạnh hệ thống dịch vụ ăn uống công cộng
ở các nhà hàng, khách sạn, Thị phần của kênh tiêu thụ gia đình sẽ tăng lên trong
tổng tiêu thụ thuỷ sản của một khu vực thị trường và bản thân điều này cũng thúc đẩy
những sáng kiến mới trong buôn bán hàng thuỷ sản.
1.6.3. Tình hình buôn bán hàng thuỷ sản.
Buôn bán thuỷ sản trên thế giới vốn đã rất nhộn nhịp kể từ năm 1985 đến nay với
mức tăng trị giá xuất khẩu hàng thuỷ sản hàng năm đạt khoảng 12%/năm. Xu hướng
mở rộng thị trường sẽ còn tiếp tục thời gian tới, một mặt là do đặc điểm riêng có của
thị trường này với tính chất quốc tế của ngành thuỷ sản và xu hướng cung lớn hơn cầu,
mặt khác, tác động của xu hướng toàn cầu hoá và xu hướng tự do mậu dịch có thể dẫn
đến sự mở rộng hơn nữa về thị trường thuỷ sản thế giới.
Bảng 4 : Dự báo xuất nhập khẩu thuỷ sản của thế giới vào đầu thế kỷ XXI

Đơn vị: tỷ USD
Năm 2005 2010
Nhập khẩu
Thế giới 70,0 90,0
Các nước phát triển 56,0 68,0
Các nước đang phát triển 14,0 22,0
Nhật Bản 20,0 25,0

20
Bắc Mỹ 10,0 12,0
EU 22,0 27,0
Xuất khẩu

Thế giới 65,0 82,0
Các nước phát triển 30,0 35,0
Các nước đang phát triển 35,0 47,0
Mỹ 4,0 5,0
Thái Lan 6,0 8,2
Nauy 4,0 5,0
Đan Mạch 2,8 3,3
Canađa 2,4 2,6
Nguồn: FAO year book-2003/ C0ommodity stastistics glofish highlights infofish
International Bảng số liệu trên cho thấy, sự năng động trong xuất khẩu thuỷ sản
của thế giới thời gian tới sẽ tập trung nhiều vào các nước đang phát triển. Trong khi đó
nhập khẩu thuỷ sản của thế giới sẽ vẫn tập trung chủ yếu vào khu vực các nước công
nghiệp phát triển với khoảng trên dưới 80% nhập khẩu thuỷ sản của thế giới (con số
này hiện nay là 85-90%).
1.6.4. Diễn biến giá cả.
Trong thời gian tới, có thể dự báo về một mức tăng giá chung của hàng thuỷ sản quốc
tế là khoảng 2%-3%, sự tăng giá này có thể là kết quả của một trong số các yếu tố tác
động sau : - Sự mất cân đối cung cầu hàng thuỷ sản vẫn tiếp tục. - Sự tăng giá
thành sản xuất chế biến do tăng chi phí khai thác nguyên liệu và tăng giá lao động.
- Sự thay đổi cơ cấu sản phẩm thuỷ sản buôn bán trên thị trường thế giới với việc
nhiều nước muốn đầu tư để tăng giá trị sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu thay cho việc
xuất khẩu nguyên liệu thô trước đây cũng như yêu cầu tiêu thụ thuỷ sản sống ngày
càng phát triển. - Tuy nhiên giá thuỷ sản trong những năm tới không thể tăng cao
vì : 1/ Hàng thuỷ sản là nhóm hàng thực phẩm thiết yếu có khả năng thay thế lớn; 2/
Giá cả hàng thuỷ sản vẫn được các nhà cung cấp sử dụng như một vũ khí cạnh tranh
lợi hại để chiếm lĩnh thị trường; 3/ Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ cho

21
phép tăng năng suất đánh bắt cũng như nuôi trồng thuỷ sản làm giảm giá thành sản
phẩm,

2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MARKETING XUẤT KHẨU.
2.1. Bản chất của Marketing xuất khẩu.
2.1.1. Khái niệm về Marketing.
Hiện nay trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới, có đến 2000 định nghĩa
Marketing. Tuy nhiên các định nghĩa ấy về thực chất không khác nhau lắm và điều lý
thú là cũng chưa có định nghĩa nào được coi là duy nhất đúng, bởi lẽ các tác giả của
các định nghĩa về Marketing đều có quan điểm riêng của mình. Có thể nêu ra một vài
định nghĩa để tham khảo và rút ra những kết luận cần thiết. - Định nghĩa của
Hiệp hội Marketing Mỹ : “Marketing là tiến hành các hoạt động kinh doanh có liên
quan trực tiếp đến dòng vận chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người
tiêu dùng”. - Viện Marketing của Anh định nghĩa : “Marketing là quá trình tổ
chức và quản lý toàn bộ các hoạt động sản xuất - kinh doanh, từ việc phát hiện ra và
biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể, đến
việc sản xuất và đưa các hàng hoá đến người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đảm bảo cho
công ty thu được lợi nhuận dự kiến”. - Định nghĩa của Học viện Quản lý Malaisia
: “Marketing là nghệ thuật kết hợp, vận dụng các nguồn lực thiết yếu nhằm khám phá,
sáng tạo, thoả mãn và gợi lên những nhu cầu của khách hàng để tạo ra lợi nhuận”.
- Định nghĩa của Giáo sư Mỹ - Philip Kotler : “Marketing - đó là một hình thức hoạt
động của con người hướng vào việc đáp ứng những nhu cầu thông qua trao đổi”. -
Một Công ty của Anh quốc đã định nghĩa : “Marketing - đó là quy trình công nghệ
giúp cho Công ty thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng và thu được lợi nhuận
mong muốn”. - Năm 1957, John Mekiherick, lúc đó là chủ tịch Công ty General
Electric đã coi Marketing như một triết lý kinh doanh mà tiêu điểm của nó là người
tiêu dùng và lợi nhuận. Người ta cũng có thể nói : Marketing là bán cái thị trường
cần, chứ không phải bán cái mình có.
2.1.2. Khái niệm và bản chất của Marketing quốc tế trong hoạt động xuất khẩu.

22
Về Marketing quốc tế, có nhiều khái niệm khác nhau. Theo Gerald Albaum,
Marketing quốc tế là một hoạt động kinh doanh bao gồm việc lập kế hoạch, xúc tiến,

phân phối và quyết định giá những hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn những mong
muốn của các trung gian và người tiêu dùng cuối cùng ngoài biên giới chính trị. Còn
Joel Revans thì cho rằng Marketing quốc tế là Marketing về hàng hoá và dịch vụ ở bên
ngoài biên giới quốc gia của doanh nghiệp. Đối với Ld. Dahringer, Marketing quốc tế
là sự áp dụng cùng một Marketing hỗn hợp trên phạm vi hơn một thị trường quốc gia.
Một định nghĩa khác về Marketing quốc tế là hoạt động Marketing vượt qua phạm vi
biên giới của từng quốc gia cụ thể. Những định nghĩa và khái niệm trên về
Marketing quốc tế đều có một điểm chung là khẳng định sự giống nhau về nguyên tắc,
quy trình và nội dung cơ bản của Marketing nội địa và Marketing quốc tế, đồng thời
cũng chỉ rõ sự khác biệt cơ bản về phạm vi và môi trường mà ở đó chúng được áp
dụng. Marketing quốc tế bao gồm những hoạt động như nghiên cứu, phân tích
và dự báo tăng trưởng bên ngoài; làm thích ứng các công cụ với nhu cầu và mong đợi
của thị trường đó; tác động đến nhu cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu.
Trong hoạt động xuất khẩu, khái niệm về Marketing quốc tế được hiểu theo
nghĩa hẹp hơn là Marketing xuất khẩu. Có thể nói, Marketing xuất khẩu là sự phát
triển chuyên sâu của Marketing quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu. Marketing xuất
khẩu là tiến trình kế hoạch và thực hiện sự sáng tạo sản phẩm, dịch vụ, định giá, phân
phối, xúc tiến để đưa hàng hoá và dịch vụ của quốc gia và doanh nghiệp thâm nhập
vững chắc vào thị trường thế giới, qua đó thoả mãn những mục tiêu của các doanh
nghiệp ngoại thương. Từ những khái niệm về Marketing và Marketing xuất khẩu,
chúng ta có thể rút ra bản chất của Marketing xuất khẩu như sau : Một là,
Marketing xuất khẩu đáp ứng những nhu cầu và mong muốn của nhà nhập khẩu lẫn
nhà xuất khẩu. Hai là, các hoạt động Marketing xuất khẩu đều hướng đến khách
hàng nước ngoài. Cho nên khi ứng dụng Marketing xuất khẩu phải bắt đầu từ nghiên
cứu thị trường thế giới, nghiên cứu thị hiếu khách hàng để từ đó xây dựng chiến lược
Marketing xuất khẩu thích hợp. Ba là, môi trường hoạt động của Marketing xuất khẩu
ở từng nước khác nhau và khác với trong nước nên đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng

23
và điều đó cũng có nghĩa là không thể áp dụng Marketing ở thị trường trong nước cho

thị trường nước ngoài. Bốn là, khi nghiên cứu Marketing xuất khẩu, chủ yếu nhấn
mạnh đến xuất khẩu. Đó cũng chính là thể hiện bản chất của Marketing, hiểu khách
hàng để bán sản phẩm. Phần nhập khẩu được nghiên cứu như là phần hỗ trợ trong một
thể thống nhất của hoạt động ngoại thương. Vì xuất khẩu theo quan điểm của
Marketing, được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu và mong muốn của các thị
trường nước ngoài, sau đó tiến hành sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ để đáp
ứng những nhu cầu và mong muốn đó một cách có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh
tranh. Năm là, Marketing xuất khẩu nhấn mạnh đến hoạt động thâm nhập vững chắc
vào thị trường thế giới bằng các chiến lược sản phẩm bền vững, chiến lược giá, phân
phối và chiến lược xúc tiến. Qua đó các hoạt động xuất khẩu sẽ ngày càng phát triển
trên thị trường thế giới và đạt được mục tiêu đề ra. Nếu như Marketing xuất khẩu trở
nên cần thiết với tất cả các quốc gia, các công ty, hoạt động của Marketing xuất khẩu
cũng chịu tác động của nhiều nhân tố khác như thị trường và môi trường của nó; lĩnh
vực sản xuất; chiến lược xuất khẩu của quốc gia hay công ty với hai vấn đề trọng yếu
khác là lựa chọn thị trường và đánh giá mức độ thích ứng của sản phẩm.
2.2. Chiến lược Marketing xuất khẩu.
2.2.1. Chiến lược Marketing.
Chiến lược là tổng thể các quyết định, các hành động liên quan đến việc lựa
chọn các phương tiện và phân bổ nguồn lực nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
Chiến lược cũng có thể được định nghĩa thông qua một loạt các nhân tố như là các
nhiệm vụ, việc lựa chọn các lĩnh vực hoạt động, sự bổ sung giữa các nguồn lực, các
phương tiện hoạt động và chiến thuật, các ưu tiên và sự chuẩn bị cho các tình huống
bất ngờ nhằm hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Cấp độ chiến lược : có ba cấp độ chiến
lược là chiến lược cấp công ty, chiến lược cấp đơn vị kinh doanh và chiến lược chức
năng. Chiến lược Marketing là chiến lược chức năng. Chiến lược Marketing là một
hệ thống luận điểm logic, hợp lý, làm căn cứ chỉ đạo một đơn vị tổ chức tính toán cách
giải quyết những nhiệm vụ Marketing của mình. Nó bao gồm những chiến lược cụ thể
đối với các thị trường mục tiêu, đối với phức hệ Marketing và mức chi phí cho

24

Marketing. Mục tiêu hàng đầu của chiến lược Marketing là phân bổ có hiệu quả, phối
hợp các nguồn lực Marketing và các hoạt động để hoàn thành mục tiêu trong thị
trường – sản phẩm cụ thể. Do vậy, những quyết định về phạm vi chiến lược Marketing
liên quan đến xác định phân đoạn thị trường mục tiêu, dòng sản phẩm cung. Kế đến là
xác định lợi thế cạnh tranh và nguồn lực thông qua chương trình Marketing hỗn hợp
(sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến) được thiết kế cho phù hợp với nhu cầu của
khách hàng ở thị trường mục tiêu.
2.2.2. Chiến lược Marketing trong hoạt động xuất khẩu.
Các doanh nghiệp ngoại thương phải lập chiến lược Marketing xuất khẩu cho
sản phẩm thâm nhập thị trường nước ngoài. Quá trình hình thành, thực hiện và kiểm
tra chiến lược Marketing xuất khẩu cũng tuân thủ các bước : * Hoạch định chiến
lược Marketing xuất khẩu : Trên cơ sở phân tích môi trường bên trong, bên ngoài
mà hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu cho sản phẩm phù hợp với từng thị
trường mục tiêu đã chọn, cụ thể là : - Trước hết, đánh giá và chọn thị trường mục
tiêu xuất khẩu. - Kế đến, hoạch định phương thức thâm nhập thị trường mục tiêu
đó. - Sau cùng, hoạch định chiến lược Marketing hỗn hợp cho sản phẩm xuất khẩu
(sản phẩm, định giá, phân phối, xúc tiến). * Thực hiện và kiểm tra chiến lược
Marketing xuất khẩu : - Trên cơ sở chiến lược Marketing xuất khẩu được đề ra, các
doanh nghiệp tiến hành tổ chức thực hiện chiến lược thông qua các nguồn lực.
- Kiểm tra chiến lược Marketing xuất khẩu nhằm đánh giá những việc đã làm được và
chưa làm được của chiến lược, có đạt mục tiêu đề ra hay không, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm cho thời gian tới.
3. CÁC BƯỚC TƯ DUY VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA MARKETING QUỐC
TẾ TRONG XUẤT KHẨU.
3.1. Nghiên cứu thị trường, nắm vững nhu cầu và cầu.
Tuỳ vào ngành hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và lựa chọn thị trường của
doanh nghiệp có nội dung và đặc điểm khác nhau. Để đáp ứng được các yêu cầu trên
đòi hỏi việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu phải thực hiện được các nhiệm vụ cơ bản
sau : Một là, xác định được nước nào là thị trường có triển vọng nhất cho việc xuất


25
khẩu và đáp ứng được những yêu cầu về xuất khẩu của doanh nghiệp. Hai là, phải
đánh giá được tình hình cạnh tranh trong hiện tại và tương lai. Ba là, nên cải tiến và
xác định chất lượng, số lượng sản phẩm, bao bì, đóng gói, nhãn hiệu, như thế nào để
phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trư
ờng muốn thâm nhập.
Để cho việc nghiên cứu thị trường quốc tế trong xuất khẩu có kết quả, trước hết cần
làm rõ những điểm sau : xác định vấn đề nghiên cứu, việc nghiên cứu tại bàn (Desk
Research), nguồn thông tin cần thu thập, việc nghiên cứu tại hiện trường (Field
Research). Tiếp theo, việc nghiên cứu thị trường phải đề cập rõ tiềm năng thị trường
(nghiên cứu số lượng cầu, đặc điểm khách hàng, thu nhập, tuổi, hành vi và phong cách
sống, khác biệt văn hoá, ), khả năng bán sản phẩm tương ứng với chính sách
Marketing khác. Mặt khác, cần nghiên cứu khả năng thâm nhập thị trường bao gồm
nghiên cứu điều kiện địa lý, điều kiện thương mại, điều kiện luật pháp. Để thu
thập được những thông tin cần thiết về thị trường thế giới, người ta thường sử dụng
các kỹ thuật phân tích và nghiên cứu thông tin. Về địa điểm tiến hành, có hai
phương pháp nghiên cứu thị trường chủ yếu : nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu hiện
trường. Về nội dung tiếp cận, có hai phương pháp là nghiên cứu “định tính” và nghiên
cứu “định lượng”. Tuy nhiên, nghiên cứu thị trường xuất khẩu có những đặc điểm
khác so với việc nghiên cứu thị trường nội địa, như những đặc điểm của nghiên cứu
trong môi trường xuất khẩu có thể là : thiếu thông tin xác đáng; khó khăn trong việc
điều tra trực tiếp; sự khác nhau về khái niệm, chức năng và công cụ nghiên cứu thị
trường xuất khẩu, cách thức trả lời, dịch thuật. Nhu cầu thị trường xuất
khẩu có nhiều phức tạp : môi trường khác biệt, số liệu thứ cấp khó đầy đủ, chi phí thu
thập thông tin cao, đòi hỏi phối hợp nghiên cứu, khó so sánh và xác minh giá trị thông
tin, bởi lẽ nghiên cứu thị trường xuất khẩu đòi hỏi người làm Marketing xuất khẩu
phải có biện pháp khắc phục và lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với từng loại thị
trường nhằm đảm bảo hiệu quả và thực hiện mục tiêu của việc nghiên cứu.
3.2. Phân tích SWOT và lựa chọn thị trường xuất khẩu mục tiêu.
Thực chất của phương pháp SWOT là phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ

hội, đe dọa đối với hoạt động Marketing. SWOT được ghép từ các chữ Strenghts

×