BÀI THU HOẠCH
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1
MỞ ĐẦU
Từ khi thành lập Đảng đến nay, trong suốt 88 năm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi
mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng
Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan,
là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất
nước, có nhiều tìm tịi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi
mới. Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu to lớn là
Đảng và nhân dân ta nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn. Xuất phát từ những lý do trên, em lựa
chọn xây dựng bài thu hoạch hết mơn của mình là "Dân chủ xã hội chủ nghĩa
và xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam".
2
NỘI DUNG
I. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Quan niệm về dân chủ
- Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm: trong q trình phát triển của xã hội
lồi người, khi xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước xuất hiện, quyền tự
do của mỗi cá nhân đều mang tính giai cấp, phản ánh lợi ích giai cấp (trước hết
là lợi ích của giai cấp cầm quyền). Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, dân chủ,
lịch sử đã chứng minh rằng, trong xã hội có giai cấp, dân chủ bao giờ cũng biểu
hiện tính giai cấp rõ rệt, đại biểu cho lợi ích giai cấp, là cơng cụ và thủ đoạn của
giai cấp thống trị. Những giá trị dân chủ có tính nhân loại chính là kết quả cuộc
đấu tranh giai cấp của những lực lượng xã hội tiến bộ, những giai cấp tiên tiến,
giữ vai trò trung tâm của thời đại. Do vậy, dân chủ mang tính giai cấp sâu sắc,
khơng có dân chủ trừu tượng, phi giai cấp, ngoài giai cấp. Bản chất của dân chủ
được thể hiện ở tính giai cấp của nó.
Lênin đã chỉ rõ: khơng có “dân chủ nói chung”, “dân chủ phi giai cấp”.
Tính chất giai cấp của phạm trù dân chủ là tiêu chí để phân biệt bản chất khác
nhau của các nền dân chủ (dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản - dân
chủ xã hội chủ nghĩa). Mỗi dân tộc cụ thể mỗi chế độ và nhà nước dân chủ đều
do một giai cấp thống trị chi phối các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, tính
giai cấp thống trị cũng chi phối tính dân tộc, và tính chất của chế độ chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội. Lênin viết: “… Quan điểm dân chủ thuần t hình thức
chính là quan điểm của người dân chủ tư sản, là kẻ không thừa nhận rằng lợi
ích của giai cấp vơ sản và của cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản cao hơn hết”.
Do vậy, Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng, khi xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, không được qn trả lời câu hỏi có tính chất ngun tắc:
dân chủ cho ai và vì cái gì? tự do đối với ai, vì ai và vì cái gì?
Chủ nghĩa Mác - Lênin nêu rõ quá trình phát triển của dân chủ là “từ
chuyên chế đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản, từ dân
chủ vơ sản đến khơng cịn dân chủ nữa”.
3
- Quan niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ: Dân chủ là tài sản của
quý báu nhất của nhân dân.
+ Đây là một trong những luận điểm nổi bật trong tư tưởng dân chủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Dân chủ là "Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình dám nói, dám làm". Dân chủ là dân là chủ và dân làm
chủ. Người nhấn mạnh, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân, mọi lợi ích đều vì dân, mọi cơng việc đều do dân.
- Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam: Kế tục tư tưởng dân chủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Để tiến tới mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phải tiến
hành dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước; dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật,
được pháp luật đảm bảo; dân chủ là nguyên tắc tổ chức, hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội.
Từ đó, có thể hiểu: Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền
cơ bản của con người; là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm
quyền thành một chế độ chính trị xã hội mà ở đó những quyền cơ bản của con
người là tự do, bình đẳng, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Đồng thời,
những quyền này được thể chế thành các nguyên tắc để quy định quyền lợi,
trách nhiệm của nhân dân đối với nhà nước, cộng đồng và ngược lại (quyền lực
thuộc về nhân dân, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, thiểu số phục tùng
đa số, quyền tự do tư tưởng, ý chí, hành động, bầu cử tự do và công bằng…).
2. Dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về
nguyên tắc với dân chủ tư sản. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực hiện quyền lực của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Điều đó thể hiện trên những vấn đề chính yếu sau:
4
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giành được chính
quyền và ngày càng phát huy trong q trình xây dựng xã hội mới.
Thứ hai, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thứ ba, dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa số, của người lao động,
vì đa số và người lao động, khơng phải của thiểu số bóc lột, đặc quyền, đặc lợi.
Thứ tư, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ, mà ở đó, nhân dân lao
động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm.
Thứ năm, dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng hệ thống tổ chức thể
hiện quyền lực chính trị - xã hội của nhân dân, tập trung và thông qua nhà nước.
Thứ sáu, không ngừng mở rộng dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương,
pháp luật là quy luật cơ bản của sự phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là bản
chất tốt đẹp của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là chế độ dân chủ “gấp triệu lần”
hơn bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử như V.I.Lênin từng khẳng định.
II. Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Quá trình hình thành, phát triển nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế độ dân chủ nhân dân được xác
lập. Đến năm 1976, tên nước ta được đổi thành Nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tại Đại hội VI, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhấn
mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước. Đại
hội khẳng định “trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”; Bài
học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” bao giờ cũng quan trọng.
Tại Đại hội VII, Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó đã rút ra bài học lớn “sự nghiệp
cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Cương lĩnh đã chỉ ra
6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đặc trưng đầu
tiên là: Do nhân dân lao động làm chủ. Cương lĩnh đã khẳng định: “Toàn bộ tổ
5
chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được
thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hố, xã hội thơng qua hoạt động của nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các
hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đơi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể
chế hố bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm”.
Đại hội VIII, Đảng nhấn mạnh việc phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
và chỉ rõ cần phải thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua đại diện
là các cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân
dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp của Nhà
nước. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá
trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định. Đại hội VIII đề ra mục
tiêu của cách mạng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Đại hội IX, thực tiễn sau 15 năm đổi mới làm xuất hiện nhu cầu dân chủ
hóa tồn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội (tư tưởng này đã được đề ra từ
Đại hội VI), Đảng đã quyết định bổ sung “dân chủ” vào hệ mục tiêu của đổi
mới, đồng thời là hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Từ đây, hệ mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội mà Việt Nam phấn đấu đã được hình thành một cách đầy đủ, đó là,
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây là một bước
tiến về nhận thức “dân chủ”.
Đại hội X, Đảng đã tổng kết 20 năm đổi mới đất nước và có bước phát
triển mới nhận thức về dân chủ: Đại hội bổ sung, phát triển mơ hình xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Trong đó đã bổ sung đặc trưng thứ nhất:
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh: đã phát triển đặc trưng thứ
hai là do nhân dân làm chủ. Đại hội chỉ rõ: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân"; Đại hội
đã khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân
6
dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của
nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân".
Đại hội XI, Đảng ta đã phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa các mục
tiêu, về vị trí, vai trị của các mục tiêu với tư cách là những giá trị của đổi mới,
của phát triển và bao trùm là của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, hệ mục tiêu được
diễn đạt một cách đầy đủ, hoàn chỉnh là xây dựng một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hệ mục tiêu được xác định
như vậy vừa đúng quy luật, vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, nhận được sự
đồng thuận của nhân dân và được cộng đồng quốc tế đồng tình, ủng hộ.
Đại hội XII, Đảng đã đưa vấn đề dân chủ vào chủ đề của Đại hội, đồng
thời trở thành một mục độc lập trong Phần XIII của Báo cáo chính trị với tiêu
đề: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân”. Đồng thời, bổ sung thành tố hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân trong mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội.
Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc, đầy đủ của Đảng không chỉ về bản chất
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn về vai trị to lớn của dân chủ, vì
khơng phát huy dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân sẽ khơng có chủ
nghĩa xã hội. Những điểm mới của Đại hội XII cho thấy, vấn đề dân chủ trở nên
cấp thiết, then chốt cần được quan tâm trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ đặt ra trong 5 năm tới ở nước ta.
Có thể thấy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được hình thành
và phát triển qua nhiều thời kỳ; qua mỗi kỳ đại hội Đảng, dân chủ, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện đúng đắn,
phù hợp hơn với điều kiện cụ thể của đất nước.
2. Yếu tố tác động tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2.1. Thuận lợi
- Học thuyết Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở lý
luận và phương pháp luận để xây dựng nền dân chủ và thực hiện quá trình dân
7
chủ hóa ở Việt Nam; góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh" và xây dựng nhà nước pháp quyền "của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân".
- Phát huy những giá trị của dân chủ trong lịch sử Việt Nam đã được xây
dựng ngay từ buổi đầu dựng nước và nâng lên một chất lượng mới trong thời đại
Hồ Chí Minh. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đất nước
độc lập, thống nhất, nhân dân được tự do và trở thành người chủ đất nước, được
tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình.
- Hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
đã mang lại nhiều thuận lợi rất quan trọng quá trình xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
- Cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây
dựng là đông đảo lực lượng, những người lao động được giải phóng, nịng cốt là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây chính
là những cơ sở quan trọng, những thuận lợi căn bản trong việc xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.2. Khó khăn
- Việt Nam vốn là một đất nước vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa
phong kiến, giai cấp công nhân đang lãnh đạo chính quyền phần lớn đều xuất
thân từ nơng dân, vì vậy, khơng tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi những tàn tích tư
tưởng tiểu nơng, sản xuất nhỏ.
- Nước ta không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội,
chưa trải qua nền dân chủ tư sản có lịch sử từ nhiều thế kỷ xây dựng và phát
triển, với pháp quyền tư sản, nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Cùng với
hạn chế đó, mặt bằng dân trí của xã hội cịn thấp, kết cấu hạ tầng còn rất lạc hậu,
8
thơng tin đến với người dân cịn chậm và khơng đầy đủ, nhất là ở khu vực nông
thôn, vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng hẻo lánh xa xôi, biển, đảo.
- Tác động của cơ chế thị trường, sự đan xen giữa cái mới và cái cũ làm
nảy sinh nhiều vật cản trên con đường tiến tới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Những vật cản trở đó là: Trình độ phát triển dân chủ cịn thấp và chưa đầy đủ, hệ
thống pháp luật thiếu và không đồng bộ, chưa tạo ra được khung pháp lý và cơ
chế đủ mạnh để thực hiện dân chủ. Sự suy thoái, biến chất của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức quyền; tệ tham nhũng,
bn lậu đã trở thành quốc nạn.
3. Phương hướng chủ yếu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay
3.1. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những đặc trưng
nêu trên, Đảng ta chỉ ra tám phương hướng cơ bản cần thực hiện, đó là:
Một là, Đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Hai là, Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hồ bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tám phương hướng vừa nêu chỉ là những phương hướng cơ bản, bảo
đảm tính tương ứng với tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
9
dân ta đang phấn đấu xây dựng. Các phương hướng này về cơ bản đã thể hiện
rõ phương thức, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hố, xã hội, các chủ trương trong đường lối đối nội, đối
ngoại của Đảng và nhà nước ta.
3.2. Định hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
- Xây dựng mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên ba trụ cột
chính: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân.
- Xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội cơ bản; nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là
quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính
khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống; tăng tính ổn định, bền vững của pháp luật.
- Tổng kết kinh nghiệm thực hiện dân chủ ở cơ sở để mở rộng phạm vi,
mức độ ở cấp cao hơn, rộng hơn,nhất là trong thực hiện quyền dân chủ trực tiếp
của nhân dân
- Củng cố, phát triển cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, nền tảng tư
tưởng cho hành động của cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách
mạng Việt Nam. Ðể tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HÐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện
thành công mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" mà
Ðảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lựa
10
chọn đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của xã hội
trong thời đại ngày nay. Đảng ta nhìn nhận: Thực tiễn đã khẳng định đường lối
đổi mới của Đảng ta hơn 30 năm qua là đúng đắn, sáng tạo; đường lối đổi mới
từng bước được bổ sung, phát triển và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Mỗi kỳ Đại hội đánh dấu một bước tiến trong nhận thức lý luận,
trong đường lối, chính sách phát triển đất nước, làm cơ sở cho những thành tựu
trong thực tiễn; nếu không đổi mới thì đất nước khơng thể có thành tựu như
ngày hơm nay. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới là điều kiện nền tảng để Việt
Nam tiếp tục thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp
cách mạng xây dựng, phát triển đất nước ta để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù
cịn khơng ít vấn đề cần giải quyết, nhưng khơng ai có thể phủ nhận được rằng,
nền dân chủ của chúng ta đã và đang phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế
chung của thời đại ngày nay. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển và
hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát
triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ
chưa hồn thiện đến hồn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Quá trình
này cần có thời gian và mơi trường ổn định, đặc biệt là ổn định chính trị, nếu
khơng có sự ổn định thì khơng thể làm được việc gì. Muốn duy trì ổn định xã
hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm động lực
thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội. Từ đó, khẳng định được vai trị lãnh đạo
của Đảng, hồn thiện thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa của đất nước, tiếp tục
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới hiện nay.
------------------