Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tại Tổng công ty Bao bì Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.36 KB, 89 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều
cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế
và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá
và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt.
Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên
biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát
triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức
to lớn của quá trình này. Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế
trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự
phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế
đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong
chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền
kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng
trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian qua đã đặt
được một số thành tựu hết sức to lớn, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt khoảng 48.38 tỷ USD và
kim ngạch nhập khẩu đạt 60.83 tỷ USD, đạt mức kỷ lục từ trước tới nay. Kim
ngạch nhập khẩu ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng
hoá các nước, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng tăng cao, đặc biệt là
những mặt hàng có mẫu mã và chất lượng tốt. Cùng với xu thế đó thì tình hình kinh
doanh các mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam cũng ngày càng
Kinh tế quốc tế 46 Trang 1
được tăng cao và ngày càng phát triển mạnh hơn với những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, triển vọng kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu của Công ty vẫn còn rất
lớn, vì vậy Công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa hoạt động nhập khẩu để đảy mạnh
lĩnh vực kinh doanh của mình.


Xuất phát từ tinh thần và tính cấp thiết của những vấn đề nêu trên em đã
quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tại Tổng
công ty Bao bì Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn tốt nghiệp là trên cơ sở phân tích thực trạng
hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam để đề xuất kiến nghị một
số giải pháp nhằm thực hiện và hoàn thiện tốt hơn hoạt động nhập khẩu của Công
ty trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của
Tổng công ty Bao bì Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành tập
trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam trong
giai đoạn 2004 - 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn tốt nghiệp được viết bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp
và công cụ chủ yếu là thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp nhằm làm sáng tỏ
các vấn đề có liên quan.
5. Kết cấu
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba phần chính như sau:
Kinh tế quốc tế 46 Trang 2
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nhập khẩu và sự cần thiết để đẩy mạnh
hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty Bao bì Việt
Nam trong thời gian qua
Chương 3: Triển vọng và các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để
đẩy mạnh kinh doanh của Tổng công ty Bao bì Việt Nam
Kinh tế quốc tế 46 Trang 3
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỂ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG

NHẬP KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm
Trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh quốc tê, vấn đề mở rộng
và phát triển thương mại quốc tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên tất yếu và cấp
bách đối với các quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế giúp các quốc gia có thể
đáp ứng một cách đầy đủ hơn những nhu cầu đa dạng của con người. Mặt khác,
thương mại quốc tế còn giúp các quốc gia phát huy được tối đa khả năng, tận dụng
một cách có hiệu quả nhất nguồn lực sẵn có của quốc gia mình.
Với ý nghĩa như vậy, nhập khẩu trong lý luận thương mại quốc tế, là việc
quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính
là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú
trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của
IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào
mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi
thương mại.
Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu
Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi,
nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc
trọng lượng (cái, tấn, v.v...)
Kinh tế quốc tế 46 Trang 4
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá
hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối
với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng
nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu
Nhập khẩu có rất nhiều hình thức đa dạng mà từ đó các doanh nghiệp có thể
tìm cho mình một hình thức nhập khẩu phù hợp nhất, có hiệu quả nhất trước sự thay
đổi của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh tế. Có thể nói đến một số hình
thức nhập khẩu mà các doanh nghiệp thường lựa chọn sau:

1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp (hay còn gọi là nhập khẩu tự doanh) là hoạt động nhập
khẩu độc lập của một doanh nghiệp. Từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường trong
và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, thiết lập phương án kinh doanh hợp lý,
đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của quốc gia
cũng như quốc tế, doanh nghiệp tiến hành hoạt động nhập khẩu trực tiếp với đối tác
nước ngoài.
Đặc điểm của nhập khẩu trực tiếp: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh
nghiệp nhập khẩu phải tự chịu trách nhiệm tất cả mọi rủi ro, cho nên cần phải có sự
xem xét kỹ lưỡng từ bước thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, rồi ký kết hợp
đồng… Vì nhập khẩu tự doanh nghĩa là doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để kinh
doanh, phải chịu mọi chi phí giao dịch, chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí giao
nhận hàng hoà, chi phí lưu kho, chi phí tiêu thụ hàng hoá, thuế,… Do đó, doanh
nghiệp phải tính toán rất thận trọng ngay từ việc chọn mặt hàng, nghiên cứu thị
trường, marketing,…
Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương với bên
nước ngoài, còn hợp đồng bán trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc không
cần lập một hợp đồng nào khác khi bán với hình thức như: bán lẻ, trao tay.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 5
1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một
doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng
nhập khẩu nhưng không được phép xuất nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho doanh
nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá
theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài
để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng hoa hồng
gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ
thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác: trong hoạt động này, doanh nghiệp xuất
nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn

ngạch (nếu có) không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ
hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng
nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá cũng như thay mặt cho
bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này phải lập hai hợp
đồng:
- Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài.
- Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
1.1.2.3. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết
kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất có một doanh
nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và
đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy
hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi, lỗ thì
cùng nhau chịu.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 6
Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh: ở hoạt động nhập khẩu này thì các
doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh sẽ phải chịu rủi ro ở mức thấp hơn so với nhập
khẩu trực tiếp vì trường hợp này doanh nghiệp chỉ phải góp một số vốn nhất định,
quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia tăng theo vốn góp, việc phân chia
chi phí, thuế doanh thu dựa theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả
thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là
doanh nghiệp của Nhà nước).
1.1.2.4. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của
buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán
trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà chính bằng hàng hoá. Ở đây mục đích

chính của hoạt động nhập khẩu hàng hoá không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập
khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu đổi hàng: hoạt động này có lợi vì cùng một hợp
đồng có thể tiến hành cả hoạt động xuất và hoạt động nhập, do đó có thể thu lãi từ
hai hoạt động. Hoạt động xuất phải tương đương về giá trị; bạn hàng bán cũng
chính là bạn hàng mua; doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim
ngạch nhập và xuất, doanh số tiêu thụ tính trên số hàng nhập và xuất.
1.1.2.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng
không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi
nhuận, tuy nhiên những hàng nhập khẩu này không được chế biến tại nước tái xuất.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 7
Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước
nhập khẩu và nước tái xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất: doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toàn
bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ, bàn bạc mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo
sao cho số tiền thu được lớn hơn chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh
nghiệp nước tái xuất phải tiến hành hai hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng
nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng kinh doanh.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất, cả nhập,
doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu do đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. Để
đảm bảo thanh toán hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lừng; hàng
hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất, mà chuyển thẳng sang nước thứ
ba nhưng tiền thanh toán phải do người tái xuất thu từ người nhập khẩu giao cho
người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do
chênh lệch giữa thời điểm thu tiền từ người nhập khẩu và thời điểm trả tiền cho
người xuất khẩu.
1.1.3. Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương. Nhập
khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong

nước; nhập khẩu để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được, hoặc sản
xuất không đáp ứng đủ nhu cầu; nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu
những hàng hoá mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai
mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động
tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước,
đuổi kịp các nước tiên tiến, bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh
tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 8
Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân, vì nhập
khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo
đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Nhập khẩu có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này
thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường
thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng sản xuất được trong nước ra nước ngoài, đặc biệt
là nước đối tác mà mình đã nhập hàng của họ.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào”
và tiêu thụ các “yếu tố đầu ra” cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc
tế.
1.2. Nội dung của hoạt động nhập khẩu
1.2.1. Nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác
Khi tiến hành hoạt động nhập khẩu, các doanh nghiệp luôn phải chú trọng
đến thị trường của nước mà mình sẽ nhập khẩu. Có thể cùng một mặt hàng nhưng
chất lượng cũng như giá cả của từng hãng (từng nước) sẽ khác nhau. Mặt khác, từ
những yếu tố của thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu ở
từng thị trường, từ đó sẽ có kế hoạch nhập khẩu một cách có hiệu quả nhất. Bên
cạnh đó, nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá để kinh doanh thì còn phải nghiên
cứu thị trường mà mình sắp kinh doanh mặt hàng đó. Doanh nghiệp nào có khả

năng phản ứng một cách linh hoạt, nhanh nhạy với thị trường thì chắc chắn doanh
nghiệp đó sẽ thành công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, lựa chọn thị trường, đối tác
đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng là cực kỳ
quan trọng. Việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu đối với một doanh nghiệp bao
gồm các bước sau:
+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường.
+ Xác định mức giá nhập khẩu đối với từng thị trường.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 9
+ Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu, giá sẽ bán ra trên thị trường nội
địa (nếu có).
+ Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường ( cung,
cầu hàng hoá trên thị trường, …).
Trên cơ sở phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá nhập
khẩu, doanh nghiệp sẽ có thể nắm chắc xu hướng biến động về giá của loại hàng
hoá mà doanh nghiệp sẽ nhập để từ đó có thể lên phương án nhập khẩu đối với từng
mặt hàng cũng như từng thị trường. Thêm vào đó doanh nghiệp còn phải tính đến
các chi phí như: cước vận tải, lãi suất ngân hàng,… để quyết định tăng hay giảm giá
thành nhập khẩu hàng hoá.
1.2.2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
* Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp
Phương thức giao dịch thông thường trực tiếp là phương thức giao dịch trong
đó mối quan hệ giữa người bán và người mua được liên hệ một cách trực tiếp với
nhau bằng cách gặp gỡ hay qua thư tín để thoả thuận về các điều kiện giao dịch
(phương thức vận tải, phương thức thanh toán,…). Phương thức giao dịch này có
thể được thực hiện ở mọi nơi, vào bất kỳ thời điểm nào và việc thực hiện nội dung
của lần giao dịch này là tự nguyện, không phụ thuộc vào lần giao dịch trước. Đối
với phương thức giao dịch này thì cả người mua và người bán đều cùng tiết kiệm
được thời gian, chi phí, hạn chế được những sai lệch giữa hai bên tuy nhiên thì
phương thức giao dịch này không hiệu quả bằng việc sử dụng bên trung gian am

hiểu thông tin rõ về thị trường.
* Phương thức giao dịch qua trung gian
Phương thức giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch trong đó
mối quan hệ giữa người mua và người bán và các điều kiện liên quan được thực
Kinh tế quốc tế 46 Trang 10
hiện qua một khâu trung gian, khâu trung gian này có thể là một cá nhân hay một tổ
chức. Có hai hình thức trung gian chủ yếu là đại lý và môi giới.
Đại lý có thể là thể nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều công việc
theo sự ủy thác của người ủy thác. Quan hệ giữa bên uỷ thác và đại lý (bên nhận uỷ
thác) được xác định bằng một hợp đồng gọi là hợp đồng đại lý (thường là hợp đồng
dài hạn).
Môi giới có thể là thể nhân hoặc pháp nhân làm trung gian liên hệ giữa
người mua và người bán. Khi thực hiện các ngiệp vụ, người môi giới không đứng
tên mình, họ không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm trong việc các
bên có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Việc trung gian của người môi giới
thường theo từng lần, từng hợp đồng chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng phương thức giao dịch qua trung gian mang lại cho doanh
nghiệp những thuận lợi nhất định vì người trung gian có những năng lực về nghiệp
vụ, tận dụng được các mối quan hệ sẵn có, các kinh nghiệm, hiểu biết về thị trường,
luật pháp, phong tục tập quán của địa phương,… chính vì vậy, doanh nghiệp sẽ
giảm bớt được những chi phí, thời gian trong khâu nghiên cứu thị trường. Thế
nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp sẽ không có được sự liên hệ trực tiếp với khách
hàng, với thị trường cũng như việc phải chia sẻ lợi nhuận với bên trung gian.
* Phương thức giao dịch tại sở giao dịch
Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt mà tại đó, người ta mua bán các loại
hàng hoá có khối lượng lớn, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau. Việc mua
bán tại sở giao dịch được thực hiện thông qua những người môi giới do sở giao
dịch chỉ định, giá cả hàng hoá được công bố ở sở giao dịch có thể coi là giá tham
khảo trong việc xác định giá quốc tế của loại hàng hoá đó.
* Phương thức giao dịch tại hội chợ, triển lãm

Hội chợ là hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian nhất định, tại
đó người bán trưng bày và bán sản phẩm, hàng hoá của mình thông qua việc tiếp
xúc trực tiếp với người mua tại hội chợ.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 11
Triển lãm là hoạt động mang tính chất trưng bày thành tựu của một nền kinh
tế hay của một tổ chức, một ngành nào đó. Nhưng đến nay, triển lãm còn là nơi mà
các cá nhân hay tổ chức kinh doanh có thể tiếp xúc để tiến hành việc giao dịch , ký
kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
1.2.3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu
1.2.3.1. Đàm phán trong kinh doanh quốc tế
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, các bên đối tác thường có
quốc tịch khác nhau nên việc tiến hành đàm phán sẽ gặp những hạn chế nhất định
về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp giữa các bên. Do đó, khi tiến hành đàm phán trong
kinh doanh quốc tế phải rất chú trọng đến những vấn đề này để tránh việc hiểu
nhầm, xâm phạm đến những nét văn hoá truyền thống cũng như luật pháp của bên
đối tác. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể thành công trong quá trình đàm phán,
đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Để tránh việc hiểu nhầm ý do khác nhau về ngôn ngữ giữa các bên, nên
chọn một loại ngôn ngữ để sử dụng trong quá trình đàm phán cũng như ký kết hợp
đồng, điều này đòi hỏi phải có chuyên gia về ngôn ngữ trong quá trình đàm phán.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế là đàm phán trong lĩnh vực kinh doanh
nên nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh,…Vì thế, muốn thành công, doanh nghiệp cần phải nắm
chắc, am hiểu các quy luật kinh tế và vận dụng nó một cách hợp lý.
Đàm phán trong kinh doanh quốc tế chịu sự ảnh hưởng của các quan hệ
chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia, nếu như quan hệ ngoại giao giữa các nước
này tốt đẹp thì sẽ tạo thuận lợi cho việc đàm phán.
1.2.3.2. Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Khi tiến hành ký kết hợp đồng nhập khẩu, các doanh nghiệp cần chú ý đến
những điều khoản sau:

* Điều khoản về hàng hoá
Kinh tế quốc tế 46 Trang 12
Khiếu nại và
giải quyết khiếu
nại (nếu có)
Tên hàng: Cần ghi đầy đủ tên hàng ( tên thông dụng, tên thương mại, tên
khoa học nếu có) để tránh nhầm lẫn.
Số lượng, chất lượng: quy định chất lượng hàng hoá một cách chính xác, tỉ
mỉ. Ghi rõ số lượng hàng hoá theo từng đơn vị, không ghi bằng cách ước chừng số
lượng.
Quy cách đóng gói, trọng lượng hàng hoá: ghi rõ hàng hoá được đóng gói
theo phương thức nào, nếu theo bao thì trọng lượng mỗi bao là bao nhiêu.
* Điều khoản về thanh toán
Đồng tiền tính giá: quy định đồng tiền nào sẽ được sử dụng để tính giá hàng
hoá, giá của mỗi đơn vị hàng hoá và giá của toàn bộ số hàng. Nếu có giảm giá thì
phải ghi rõ giảm giá theo hình thức nào, số lượng giảm giá là bao nhiêu.
Đồng tiền thanh toán: có thể là đồng tiền tính giá hoặc cũng có thể là một
đồng tiền khác nhưng phải được quy định trước (nếu là đồng tiền khác thì phải quy
định tỷ giá quy đổi).
Phương thức thanh toán: ghi rõ thanh toán bằng phương thức nào (đổi hàng,
bằng tiền mặt, thông qua tín dụng, hay thanh toán ứng trước); bằng hình thức nào
(nhờ thu, bằng L/C, bằng séc, hối phiếu, …)
Thời hạn thanh toán: có thể trả ngay, trả trước, trả chậm nhưng phải ghi rõ
trong hợp đồng.
Ngoài ra khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải xem xét lại
một cách cẩn thận những điều khoản đã ghi trong hợp đồng chính, đối chiếu lại với
những thoả thuận trước để tránh những sai sót do bên đối tác vô ý hay cố tình đưa
vào hoặc bỏ qua. Hợp đồng đã được ký kết thì việc sửa chữa lại là rất khó khăn nên
văn phạm dùng trong hợp đồng phải có ý nghĩa trong sáng, từ ngữ phải được theo
một ý thống nhất, tránh việc mập mờ, có thể hiểu theo nhiều cách.

Hợp đồng mà hai bên ký kết có thể là một văn bản, một hợp đồng do hai bên
thoả thuận, đàm phán với nhau tạo nên, cũng có thể là văn bản xác nhận của người
Kinh tế quốc tế 46 Trang 13
Khiếu nại và
giải quyết khiếu
nại (nếu có)
mua (người bán) đối với thư chào hàng tự do của người bán (đơn đặt hàng của
người mua đã được thoả thuận giữa hai bên.
1.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một trong những công việc đòi hỏi
phải thực hiện theo trình tự một cách lần lượt để tránh xảy ra những sai sót dẫn tới
việc khiếu nại của các bên. Tổ chức thực hiện hợp đồng một cách cẩn thận sẽ giảm
bớt những chi phí phát sinh không đáng có, tiết kiệm thời gian cho cả hai bên. Việc
thực hiện hợp đồng nhập khẩu gồm những bước sau:
Sơ đồ 1.1 - Các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu
* Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có)
Xin giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý
xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy
phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Ngày nay, do xu thế tự do hoá mậu dịch,
Việt Nam đã giảm bớt số mặt hàng cần xin giấy phép xuất nhập khẩu xuống còn 9
mặt hàng, bao gồm: Hàng xuất - nhập khẩu mà nhà nước quản lý bằng hạn ngạch;
Hàng tiêu dùng nhập khẩu theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ duyệt; Máy
móc thiết bị nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách; Hàng của doanh nghiệp được
thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Hàng phục vụ thăm dò, khai
Kinh tế quốc tế 46 Trang 14
Thuê phương
tiện chuyên chở
(thường là tàu)
Mua bảo hiểm
hàng hoá

Xin giấy phép
nhập khẩu
(nếu có)
Mở L/C
(nếu thanh toán
bằng L/C)
Nhận hàng
Làm thủ tục hải
quan
Khiếu nại và
giải quyết khiếu
nại (nếu có)
Làm thủ tục
thanh toán
thác dầu khí; Hàng dự hội chợ, triển lãm; Hàng gia công; Hàng tạm nhập tái xuất;
Hàng xuất - nhập khẩu thuộc diện cần điều hành để đảm bảo cân đối cung cầu trong
nước.
* Mở thư tín dụng L/C
Khi hợp đồng nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C thì một
trong những việc đầu tiên mà bên mua phải làm để thực hiện hợp đồng là mở L/C.
Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định gì thì sẽ phụ thuộc vào thời gian
giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 20 - 25 ngày trước khi đến thời gian
giao hàng (nếu khách hàng ở Châu Âu). Căn cứ để mở L/C là các điều khoản của
hợp đồng nhập khẩu.
* Thuê tàu lưu cước
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành
dựa vào ba căn cứ sau: Những điều khoản của hợp đồng, đặc điểm hàng hoá, điều
kiện vận tải. Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin
về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong
nhiều trường hợp, chủ hàng xuất - nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu lưu cước

cho một công ty hàng hải.
* Mua bảo hiểm
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất, chính vì
thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại
thương. Thường có hai loại hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp
đồng bảo hiểm chuyến. Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện
bảo hiểm. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo
hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C);
ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm phụ, bảo hiểm đặc biệt khác. Việc lựa
chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên bốn căn cứ sau: Điều khoản hợp đồng; Tính
chất hàng hoá; Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng; Loại tàu chuyên chở.
* Làm thủ tục hải quan
Kinh tế quốc tế 46 Trang 15
Tất cả xuất - nhập khẩu khi đi qua biên giới quốc gia đều phải làm thủ tục
hải quan gồm 3 bước:
- Khai báo hải quan: Phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ
quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ, tờ khai hải quan phải được xuất trình
kèm một số chứng từ khác.
- Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất - nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự,
thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở,
đóng các kiện hàng. Yêu cầu của việc xuất trình hàng hoá là sự trung thực của chủ
hàng. Để thực hiện thủ tục kiểm tra và giám sát, chủ hàng phải nộp thủ tục phí hải
quan.
- Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng
hoá, hải quan sẽ đưa ra quyết định: cho hàng hoá được thông quan; cho hàng hoá đi
qua một cách có điều kiện; cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế; lưu kho
ngoại quan; không cho hàng hoá đi qua; … Chủ hàng buộc phải thực hiện nghiêm
túc các quyết định đó.
* Nhận hàng
Doanh nghiệp nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ

thác giao nhận để tiến hành thủ tục nhận hàng, gồm các bước:
- Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu từng
năm, từng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận
chuyển, giao nhận.
- Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá (như vận đơn,
lệnh giao hàng,…)nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
- Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu (nếu hàng
nhập khẩu cho đơn vị trong nước) về dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở
hàng về đến cảng.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 16
- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp,
bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu.
- Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản (nếu
cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong
việc giao nhận.
* Làm thủ tục thanh toán
Việc thanh toán bằng hình thức nào được quy định rõ trong hợp đồng nên
doanh nghiệp phải kiểm tra chứng từ một cách kỹ lưỡng, việc lập chứng từ đòi hỏi
độ chính xác rất cao để tránh những tổn thất không đáng có cho các bên.
* Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khi chủ hàng phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, thiếu hụt,… thì cần
lập hồ sơ khiếu nại ngay (trong thời hạn khiếu nại). Đối tượng khiếu nại là người
bán nếu hàng kém phẩm chất, thiếu hụt về số lượng, bao bì không phù hợp, thanh
toán nhầm lẫn, thanh toán chậm,… Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng
bị tổn thất trong quá trình chuyên chở hoặc tổn thất do lỗi của người vận tải. Đối
tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá (đối tượng của bảo hiểm) bị tổn
thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên khi những rủi
ro này đã được mua bảo hiểm.
Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên

bản giám định, COR, ROROC hay CSC, …), hoá đơn, vận đơn, đơn bảo hiểm (nếu
khiếu nại công ty bảo hiểm) …
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
1.3.1. Nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh tế có liên quan đến các quốc gia
khác nhau nên sẽ chịu sự chi phối của luật pháp quốc tế, các điều ước và công ước
quốc tế. Luật pháp quốc tế sẽ bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia vào hoạt động
Kinh tế quốc tế 46 Trang 17
kinh tế quốc tế này một cách công bằng, không phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, hoạt
động nhập khẩu còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh
tế quốc tế. Nếu doanh nghiệp nắm vững luật pháp quốc tế thì chắc chắn rằng hiệu
quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được sẽ rất cao.
Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế nhằm
thu lợi nhuận vì vậy không thể không tránh khỏi sự cạnh tranh do môi trường kinh
tế mang lại. Trong điều kiện hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt do sự phát
triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Điều này là một trong những nguyên nhân
quan trọng, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình, nâng
cao trình độ sản xuất cũng như trình độ quản lý. Chính vì lý do trên, các doanh
nghiệp cần phải luôn luôn tìm cách thích nghi với thị trường, luôn cải tiến sản xuất,
học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ quản lý cũng như nghiệp vụ để có thể tồn
tại được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Bên cạnh ảnh hưởng của môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp quốc tế thì
doanh nghiệp còn phải chịu sự tác động không nhỏ của môi trường kinh tế, chính
trị, luật pháp của quốc gia mình. Điều này buộc các doanh nghiệp phải nắm chắc
luật pháp cũng như những tập quán của quốc gia để đảm bảo quyền lợi của chính
bản thân doanh nghiệp mình cũng như bên đối tác. Từ đó, doanh nghiệp có thể
tránh khỏi những sai phạm không đáng có như: buôn bán hàng cấm mà luật pháp
quốc gia không cho phép, …
1.3.2. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Một nhân tố nữa cũng không kém phần quan trọng đó chính là năng lực (hay

tiềm lực) của chính bản thân doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc
tế. Năng lực của doanh nghiệp nói chung chính là vốn, tài sản, công nghệ, nhân sự,
… của doanh nghiệp đó. Một doanh nghiệp có quy mô lớn, có lượng vốn lớn, có
lực lượng nhân sự tốt cũng như những công nghệ hiện đại thì chắc chắn rằng doanh
nghiệp đó sẽ rất phát triển, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác trên thế
giới. Điều này không có nghĩa là những doanh nghiệp nhỏ không thể tồn tại được
Kinh tế quốc tế 46 Trang 18
trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Những doanh nghiệp nhỏ cũng phải tìm cho
mình những thế mạnh riêng, hoặc có thể tự tạo cho mình những thế mạnh đó để có
thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Điều này có thể hiểu được vì số
lượng công ty lớn trên thế giới là không nhiều mà đa phần là những công ty vừa và
nhỏ, những công ty này đều có những lợi thế nhất định về một lĩnh vực, họ tự tìm
cho mình những lối đi riêng để tạo ra sự khác biệt với các công ty khác để từ đó có
thể kiếm được lợi nhuận kinh doanh một cách hợp pháp. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cần phải nắm bắt lấy những cơ hội kinh doanh ở mọi nơi, mọi lúc do các
yếu tố chủ quan hay khách quan mang lại.
Mỗi doanh nghiệp cần phải hiểu rõ năng lực của chính mình để có thể lượng
sức mình trên thương trường, có kế hoạch đầu tư, xây dựng chiến lược kinh doanh
dài hạn để ngày càng nâng cao tiềm lực bản thân, từ đó mới có thể mở rộng tầm
hoạt động, kiếm được những lợi nhuận lớn do kinh doanh quy mô lớn mang lại.
1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu để phát triển sản
xuất kinh doanh ở Tổng công ty Bao bì Việt Nam (VPC)
Có thể nói rằng, việc phát triển cơ sở sản xuất, nâng cao nghiệp vụ, công
nghệ, trình độ quản lý của các doanh nghiệp không những cần thiết mà còn phải
được tiến hành một cách liên tục trong tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
cần phải luôn tự đổi mới mình để thích nghi với môi trường kinh tế luôn thay đổi.
Việt Nam là một nước đang phát triển nên nhu cầu nhập khẩu để phục vụ cho tiêu
dùng trong nước rất lớn, chính vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu đối với
các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC)
là một trong những doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực

nhập khẩu, góp phần phục vụ tốt hơn cho nhu cầu sản xuất cũng như tiêu dùng
trong nước. Do đó, việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu để đẩy mạnh kinh doanh
đối với Tổng công ty Bao Bì Việt Nam (VPC) là một việc làm cần thiết, quan trọng
để đưa Tổng công ty trở thành một trong những công ty đi đầu trong lĩnh vực nhập
khẩu ở Việt Nam.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 19
Tổng công ty chuyên nhập những nguyên vật liệu dùng cho sản xuất bao bì
như giấy, màng, hạt nhựa … với chất lượng rất cao, đáp ứng một cách tương đối
đầy đủ cho nhu cầu sản xuất của thị trường cũng như nhu cầu kinh doanh của Tổng
công ty. Việt Nam là một nước đang phát triển với nhu cầu sản xuất cũng như tiêu
dùng rất lớn. Hàng hoá ngày càng nhiều, chủng loại ngày càng phong phú đòi hỏi
các doanh nghiệp sản xuất phải thay đổi sản phẩm về mẫu mã cũng như chất lượng
một cách liên tục. Điều này đã làm cho nhu cầu về nguyên liệu sản xuất bao bì cũng
tăng theo nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, mảng thị trường về
nguyên vật liệu sản xuất bao bì ở Việt Nam là một mảng thị trường rất rộng lớn,
một mảng thị trường vô cùng tiềm năng cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập
khẩu như Tổng Công ty Bao Bì Việt Nam (VPC). Việc đáp ứng được một cách đầy
đủ nhu cầu của thị trường trong nước về nguyên liệu này là một việc làm tương đối
khó khăn, chỉ có những doanh nghiệp lớn như Tổng Công ty Bao Bì Việt Nam
(VPC) mới đủ tiềm lực về vốn cũng như con người để thực hiện tốt điều này.
Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thuế
nhập khẩu giảm là một tiến trình tất yếu. Với góc độ là một doanh nghiệp, VPC có
thể tận dụng xu hướng này để đẩy mạnh các hoạt động nhập khẩu hơn nữa đáp ứng
nhu cầu đa dạng trong nước. Với tiến trình tự do hóa thương mại, nền sản xuất
trong nước vẫn còn nhiều yếu kém thì việc đẩy mạnh nhập khẩu sẽ mang đến
những lợi thế nhất định cho VPC. Nhập khẩu với chi phí ngày càng thấp sẽ tạo lợi
thế cạnh tranh cho VPC khi kinh doanh những sản phẩm nhập khẩu và sản xuất từ
nguyên liệu nhập khẩu ở thị trong nước và mở rộng ra tầm quốc tế.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 20
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU

CỦA TỔNG CÔNG TY BAO BÌ VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Tổng công ty Bao bì Việt
Nam
2.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của Tổng công ty
Ngày 02/04/1976 Hội đồng chính phủ quyết định thành lập Công ty Bao bì xuất
khẩu theo quyết định 1079/BNg - TCCB của Bộ ngoại thương (nay là Bộ Công
Thương).
Tổng công ty Bao bì xuất khẩu là đơn vị Kinh doanh vật tư nhiên liệu cho sản
xuất bao bì xuất khẩu và tổ chức sản xuất cung ứng bao bì, gia công các loại bao bì
phục vụ xuất khẩu, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập có tư cách pháp
nhân, có tài khoản ngân hàng, có con dấu riêng, Tổng công ty đặt trụ sở tại Hà Nội.
Tổng công ty có chi nhánh ở thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh, các xi nghiệp sản xuất bao bì và các phòng ban nghiệp vụ.
Năm 1989, một số đơn vị trực thuộc gồm: chi nhánh thành phố Hồ Chí
Minh, Xí nghiệp bao bì xuất khẩu I, Xí nghiệp Bao bì xuất khẩu II tách ra trực
thuộc Bộ Kinh tế Đối ngoại đổi tên thành Tổng công ty Xuất Nhập Khẩu và Kỹ
thuật Bao bì, tên giao dịch quốc tế là: “ The VietNam National Packing Technology
and Import- Export Corp”, viết tắt là Packexport” ( quyết định số 812/KTBN –
TCCB ngày 13/12/1989).
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tháng 4 năm
2005 Tổng công ty Xuất Nhập Khẩu và Kỹ thuật Bao bì chuyển thành Công ty Cổ
phần Bao bì Việt Nam - VPC. Tổng công ty đã tiến hành đạ hội cổ đông và chính
Kinh tế quốc tế 46 Trang 21
thức hoạt động theo điều lệ Công ty Cổ phần từ 1/4/2005. Với khẩu hiệu “ Hợp tác
- Phát triển cùng hội nhập”, Tổng công ty Bao bì Việt Nam - VPC luôn hướng tới
mục tiêu phát triển dài hạn, ổn định, trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của Doanh
nghiệp, của Khách hàng và của cả Cộng đồng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
Cơ cấu tổ chức có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hoạt động của

doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận có quan hệ
chặt chẽ với nhau và được phân thành các cấp quản lý với chức năng và quyền hạn
nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Tổng công ty. Để đáp ứng
ngày càng tốt hơn những yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, bộ máy của
Tổng công ty không ngừng được hoàn thiện.
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty theo mô hình cơ cấu trực tuyến - chức
năng. Tính tập trung của cấu trúc rất cao, thể hiện ở mọi quyền lực quản lý được tập
trung vào người cao nhất. Tổng công ty có rất ít cấp quản trị trung gian với rất ít
đầu mối quản lý. Mọi thông tin đều được tập trung cho người quản lý cao nhất và
mọi quyết định được đưa ra từ đó nhằm phát huy tối đa những ưu điểm, hạn chế
những nhược điểm để đảm bảo cho bộ máy quản lý vừa tinh giản, vừa gọn nhẹ lại
có hiệu quả.
2.1.2.1. Sơ đồ tổ chức của Tổng công ty
Sơ đồ 2.1 - Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
Kinh tế quốc tế 46 Trang 22
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Tổng công ty Bao bì Việt Nam)
2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
Kinh tế quốc tế 46 Trang 23
HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM
ĐỐC
BAN KIỂM
SOÁT
TTV.Tư
Nông
nghiệp
Tổng
kho Cổ
Loa

XN
B.Bì Cổ
Loa
Các
cửa
hàng
XN In

Bao bì
HM
XN.
Hùng
Vương
CN.
Đà
Nẵng
CN.
Hải
Phòng
P. Tổ
chức
hành
chính
Phó Tổng Giám
Đốc
Phó Tổng Giám
Đốc
P. Kinh
doanh
1-2-3-4

P. Kế
hoạch
đầu tư
P.
Xuất
khẩu
P.Tài
chính
kế
toán
P.
Nhập
khẩu
ĐẠI HỘI ĐỒNG
CỔ ĐÔNG
* Đại hội đồng cổ đông
Là cơ quan quyền lực cao nhất trong Tổng công ty
Quyết định những vấn đề quan trọng nhất của Tổng công ty như: điều lệ Công
ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị, quyết định phương hướng phát triển của
Tổng công ty.
* Hội đồng quản trị
Là cơ quan quản lý của Tổng công ty
Toàn quyền nhân danh Tổng công ty quyết định đến mọi vấn đề liên quan đến
mục đích, quyền lợi của Tổng công ty như: chiến lược kinh doanh, phương án đầu
tư, bổ miễn nhiệm, cách chức Giám đốc, Phó giám đốc,...
* Tổng giám đốc: Là người trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động của Tổng công ty.
* Phó tổng giám đốc: Là người trợ giúp Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước
Tổng giám đốc những nhiệm vụ được giao.
* Ban kiểm soát: kiếm soát tính hợp lý, hợp pháp của mọi hoạt động kinh doanh
trong Tổng công ty.

* Phòng tổ chức - Hành chính
Chức năng
Giúp Giám đốc Tổng công ty những công việc thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy,
công tác cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo, phong trào thi đua, bảo vệ kinh tế
chính trị, an toàn lao động tại văn phòng Tổng công ty và giúp các chi nhánh thực
hiện các mặt hoạt động này và đảm bảo các công việc thuộc lĩnh vực hành chính
quản trị,đời sống, chăm sóc sức khoẻ CBCNV tại văn phòng Tổng công ty.
Nhiệm vụ
Nghiên cứu đề xuất việc tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ của Tổng công ty theo
hướng gọn nhẹ có hiệu lực.
Đề xuất thành lập đại diện của Tổng công ty ở những thị trường cần thiết trong
ngoài nước.
Kinh tế quốc tế 46 Trang 24
Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ cho hoạt động của các Tổng công ty theo chức
năng, nhiệm vụ được giao từ đó có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo tiêu
chuẩn đã định.
Giúp giám đốc Tổng công ty quản lý tốt số cán bộ hiện có, tuyển dụng số còn
thiếu khi có nhu cầu.
Quản lý tốt hồ sơ cán bộ, bổ sung kịp thời những thay đổi của cán bộ vào hồ sơ
gốc.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch lao động tiền lương hàng năm, quí, tháng, gửi
kế hoạch này để phòng kế hoạch tổng hợp thành kế hoạch chung của Tổng công ty
và phòng Tài chính kế toán để phối hợp thực hiện.
Phổ biến, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách quy định
của Nhà nước đối với cơ quan và CBCNV cơ quan.
Giúp giám đốc trong công tác thanh tra của chính quyền tham gia ban thanh tra
nhân dân hoạt động dưới sự chỉ đạo của thanh tra cấp trên.
Xây dựng các quy chế về thi đua khen thưởng, kỷ luật, nội quy cơ quan, đôn
đốc và theo dõi việc thực hiện các quy định này.
Thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự cho thanh niên cơ quan theo luật định,

là đầu mối chuyên trách về quân sự, dân quân tự vệ của cơ quan.
Thực hiện các công việc hành chính tiếp khách, văn thư, quản trị, sửa chữa nhỏ,
bảo vệ an toàn cơ quan, kể cả bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản, giữ gìn bí mật.
Theo dõi chương trình công tác tuần, tháng của các phòng là đầu mối xây dựng
lịch sinh hoạt tuần của Tổng công ty.
Quản lý, phân phối diện tích sử dụng làm việc của Tổng công ty tại khu vực Hà
nội. Thực hiện công việc trang trí khánh tiết, mua sắm cấp phát vật rẻ tiền mau
hỏng, bảo hộ lao động, khám chữa bệnh, tổ chức tiếp khách, thường trực cơ quan.
* Phòng Kế hoạch đầu tư
Chức năng
Kinh tế quốc tế 46 Trang 25

×