Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo NHÀ nước và xã hội NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.07 KB, 27 trang )

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. 83
năm qua, với bản lĩnh của một Đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm,
luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức
mạnh to lớn của toàn dân tộc, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945 đập tan ách thống trị của thực dân
phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ
nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà
đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc
tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành CNH-HĐH và hội nhập quốc tế tiếp
tục đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH với nhận thức và tư duy mới, đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Lịch sử đã khẳng định, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng duy nhất tổ chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong,
không sợ hy sinh gian khổ trong sự nghiệp cách mạng đấu tranh giành độc lập dân
tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Công cuộc đổi mới đất nước
do Đảng khởi xướng, lãnh đạo hơn 27 năm qua tạo nên vị thế mới của Việt Nam
trong cộng đồng quốc tế. Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập được vị trí
lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua uy tín của Đảng và của nhân dân.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
1.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

1


Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ


trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra,
giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống
chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các
tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả
lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã khẳng định: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”, “..Đảng lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát
huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội” 1. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn không
ngừng được củng cố, phát triển từ trong bản chất cách mạng, khoa học và tư tưởng,
lý luận của Đảng, từ sự đúng đắn và không ngừng hoàn thiện Cương lĩnh, đường
lối chính trị, từ sự không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, từ sự rèn luyện, không ngừng theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ
yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm,
chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức
thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, H.2011, tr4,5

2


Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần

chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể
chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương
trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy
của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn
vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức
chính trị - xã hội. Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục
và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế
dân chủ...
1.2. Xuất phát từ lịch sử lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội từ
khi thành lập đến nay.
Những công lao to lớn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân
và dân tộc Việt Nam, ảnh hưởng và uy tín của Đảng trong lòng dân, trong dân tộc
và trong phong trào cách mạng thế giới là không có gì phủ nhận được.Thực tiễn
cho thấy, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước đã
phát triển rất mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại, nhiều nhà yêu nước muốn tìm
đường cứu nước, cứu dân tộc nhưng không thành. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đáp ứng sự đòi hỏi của lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam được lãnh tụ
Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện; được lý luận cách mạng- chủ nghĩa
Mác- Lênin soi đường thực sự là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam; quá trình lãnh đạo cách mạng được cả
dân tộc Việt Nam tin yêu đùm bọc, cả nhân loại yêu chuộng hòa bình ngưỡng mộ
trước những thành tựu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ,

3



hàng vạn đảng viên cộng sản đã hy sinh trong ngục tù của thực dân, đế quốc, nhưng
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách
mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với lợi ích của giai cấp
công nhân, lợi ích của dân tộc, của nhân dân, kiên quyết một lòng lãnh đạo nhân
dân làm cách mạng, trong khi các đảng phái của các giai cấp khác, các lưc lượng
chính trị khác đều tự tan rã.
Sự ra đời của Đảng năm 1930 là bước ngoặt vĩ đại đối với lịch sử dân tộc;
với ý thức hệ tiêu biểu của thời đại, với Cương lĩnh và đường lối cách mạng đúng
đắn do Đảng vạch ra dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng về tư tưởng lý luận và
đường lối chính trị cứu nước từ giữa thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX.
Đảng đã vạch ra con đường cách mạng để giải phóng dân tộc, đưa dân tộc từ nô lệ
tới độc lập tự do.
Cách mạng tháng Tám, 1945 do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã
giành được thắng lợi, đã đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến, giành lại độc lập
chủ quyền, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Đây là một trong những cuộc cách
mạng điển hình của thế kỷ XX, Đảng lãnh đạo cả dân tộc làm nên kỳ tích đó khi
Đảng mới có 15 tuổi với lực lượng chưa đầy 5.000 đảng viên.
Lịch sử và truyền thống cách mạng của Đảng đã gắn liền với lịch sử và
truyền thống dân tộc, làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam bởi khai sinh ra một thời đại
mới - thời đại Hồ Chí Minh, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên Độc lập tự do, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ mới ngay khi nước Cộng hòa non trẻ mới ra
đời, thù trong giặc ngoài, tình thế hiểm nguy, ngàn cân treo trên sợi tóc, vượt qua
mọi thác ghềnh để bảo vệ thành quả cách mạng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc
trong suốt chín năm trường kỳ chống Pháp, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, lập
lại hòa bình ở miền Bắc và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam,
đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc với Điện Biên Phủ


4


trên không đã đi vào lịch sử như một huyền thoại ở thế kỷ XX, tiến đến giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đánh thắng hai đế quốc to, cả chủ nghĩa
thực dân cũ lẫn chủ nghĩa thực dân mới.
Những chặng đường và những mốc son chói lọi đó là bằng chứng lịch sử về
sức mạnh, sức sống của dân tộc Việt Nam, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt đầy
bản lĩnh của Đảng, của Hồ Chí Minh. Dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác
Hồ vĩ đại đã làm cho Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế
giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Và từ sau ngày đại thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc đến nay,
vượt qua bao khó khăn thử thách, có lúc sóng gió hiểm nghèo, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân vượt qua khủng hoảng, tiến hành đổi mới thành công, tạo nên Thế và Lực
của Việt Nam như hiện nay.
Có được những thành tựu và chiến công như thế, là nhờ có công sức đóng
góp hy sinh của toàn dân và toàn Đảng, thậm chí cả máu xương của biết bao anh
hùng chiến sỹ, lớp lớp thế hệ nối tiếp nhau, sự hy sinh cả sức người sức của của
đồng bào trọn lòng tin theo Đảng. Không một lực lượng nào, ngoài Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đóng được vai trò lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc Việt Nam trên con
đường giải phóng để phát triển và hiện đại hóa như vậy. Cũng không có một lực
lượng nào tỏ rõ đức hy sinh phấn đấu trung thành với dân tộc và nhân dân như
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng tồn tại và hoạt động chỉ vì độc lập tự do hạnh phúc
của nhân dân. Không một lực lượng tổ chức nào tỏ rõ sức chiến đấu, năng lực trí
tuệ và bản lĩnh chính trị như Đảng Cộng sản Việt Nam để theo đuổi đến cùng lý
tưởng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nêu cao chân lý “không có gì
quý hơn độc lập tự do,” làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và
làm chủ của nhân dân như Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một Đảng cách mạng
chân chính, là đạo đức, là văn minh.
Lịch sử và nhân dân đã thừa nhận sự thật ấy. Thực tiễn cũng cho thấy, nhân

dân tin cậy và ký thác cho Đảng cả cuộc sống, tương lai, triển vọng của mình. Uy

5


tín và ảnh hưởng của Đảng là rộng lớn, sâu sắc và bền chặt trong lòng dân, trong ký
ức của lịch sử đã thành truyền thống, trong hiện tại và tương lai với quan hệ máu
thịt giữa Đảng với dân làm nên sức mạnh bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và bảo vệ
dân. Nhân dân gần gũi, gắn bó với Đảng, thừa nhận và tin cậy Đảng, coi Đảng là
Đảng của mình.
Cách mạng không chỉ có thuận lợi và thành công mà cũng có không ít khó
khăn, thất bại. Đảng như một cơ thể sống, cũng có khi vấp phải khuyết điểm sai
lầm. Mặc dù vậy, nhân dân vẫn thừa nhận Đảng, vẫn tin và theo Đảng, bởi Đảng có
đủ dũng khí và bản lĩnh sửa chữa sai lầm, vượt qua yếu kém, tự phê phán, tự đổi
mới để tự phát triển. Và, Đảng dựa vào dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền Nhà nước, xây dựng các đoàn thể, xây dựng và phát triển dân chủ. Nhân dân
đoàn kết một lòng, nhân dân giúp Đảng trong xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc đi
tới, thực hiện lý tưởng và mục tiêu đã vạch ra.
Qua mọi thời kỳ lịch sử, Đảng vững mạnh trưởng thành là nhờ có dân, dân
có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, dân tộc có tương lai triển vọng, vượt qua tình
trạng lạc hậu kém phát triển, từng bước chấn hưng và hiện đại hóa là nhờ có Đảng.
Đảng tin dân và vì dân nên dân theo Đảng, tin Đảng, thừa nhận Đảng là lực lượng
tiên phong, dẫn dắt, lãnh đạo cả dân tộc đi tới tương lai.
Đảng làm cho dân giác ngộ và Đảng lãnh đạo để nhân dân thực sự trở thành
chủ thể, làm chủ xã hội. Bởi thực tế lịch sử đó, Đảng thực hiện vai trò lãnh đào Nhà
nước và xã hội như thực hiện một trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao
phó, ủy thác.
Đảng đã lãnh đạo và cầm quyền với tất cả sự xứng đáng và chính đáng, được
thừa nhận, được ủng hộ, được giúp đỡ, được bảo vệ, được tin tưởng bởi tuyệt đại

đa số nhân dân. Phẩm chất xứng đáng và có tất cả tính chính đáng để lãnh đạo, cầm
quyền - đó là ưu thế nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam.

6


Từ đó, có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và xã hội được đảm bảo về địa vị pháp lý, được quy định bởi trách nhiệm
pháp lý, được tạo dựng, phát triển và bảo vệ bởi sức mạnh đoàn kết, dân chủ, đồng
thuận của toàn dân, cho nên Đảng xứng đáng và chính đáng đảm nhận trọng trách
lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của Đảng là hợp hiến, hợp pháp.
1.3. Xuất phát từ bản chất giai cấp và lập trường tính đảng của hiến pháp
Lý luận và thực tiễn đều không thể phủ nhận bản chất hiến pháp là sự thể
hiện tập trung ý chí của giai cấp thống trị, bản chất giai cấp của Nhà nước.
Đối với hiến pháp của nhiều nước tư bản chủ nghĩa hầu như không có quy
định nào nói về đảng cầm quyền. Đây là hành vi của giai cấp tư sản cố tình che
giấu tính đảng, tính giai cấp của hiến pháp để dễ dàng hơn trong việc nhân danh
quyền lực chung (Nhà nước) để duy trì địa vị thống trị của giai cấp tư sản đối với
toàn xã hội. Việc hiến pháp của Nhà nước tư sản không có quy định nào về đảng
cầm quyền, không có nghĩa là phủ nhận vai trò của đảng cầm quyền đối với Nhà
nước và toàn xã hội. Bởi nội hàm chủ yếu của sự cầm quyền (hay lãnh đạo) được
hiểu là phương thức đạt được các mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
thông qua việc biến cương lĩnh, đường lối, chính sách của đảng thành chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Đối với các quốc gia theo chế độ tư bản chủ nghĩa thực
hiện chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng thì các đảng chính trị tư sản đều có quan
điểm giống nhau trên các vấn đề căn bản, nhất là quan điểm về thiết kế hệ thống
chính trị và lập hiến.
Khác với quan điểm tư sản, sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam được quy định trong hiến pháp nước ta chính là công khai tính đảng,
khẳng định hiến pháp nước ta là sự thể hiện ý chí, lợi ích cơ bản của giai cấp công

nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân. Ý chí, lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và cả dân tộc, đó là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

7


Việt Nam thành quy định trong hiến pháp chính là thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và bản sửa
đổi bổ sung 2001 đều dành hẳn một điều trong chương chế độ chính trị, để nói về
vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Toàn văn điều 4 ghi rõ: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng gắn bó mật thiết
với nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3.
Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật.”2
Tinh thần và lời văn của điều nói trên cho thấy: Vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định và hiến định trong Hiến pháp, trong
chương đầu tiên nói về chế độ chính trị ở Việt Nam. Cùng với Lời nói đầu, điều
quy định nêu trên đã thể hiện rõ tính chất của chính thể Việt Nam là chính thể xã
hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu của cách
mạng Việt Nam, đang tiếp tục được thực hiện trong sự nghiệp đổi mới vì dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
chính là thực hiện trọng trách lịch sử đó trước nhân dân và dân tộc.
Điều 4 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng, làm rõ bản chất, tính chất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà

còn của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích không
chỉ của giai cấp công nhân mà còn của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng, ý thức hệ của xã hội. Làm rõ mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng đối với nhân dân,
2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 1992, tr.4

8


vai trò và trách nhiệm của nhân dân đối với hoạt động của Đảng. Sự hiến định vai
trò của Đảng không chỉ ở địa vị pháp lý mà còn là trách nhiệm pháp lý của Đảng
đối với nhân dân, với Nhà nước và xã hội (chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình, chịu sự giám sát của nhân dân, lấy khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật làm giới hạn hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên). Những
chế định đó đảm bảo cho Đảng tồn tại và hoạt động của Đảng là hợp hiến, hợp
pháp.
Đây thực sự là một bước tiến trong tư duy chính trị - pháp lý của Đảng ở thời
kỳ đổi mới cũng đồng thời là một bước tiến trong xây dựng luật pháp, trong lập
hiến của Nhà nước pháp quyền, làm sáng tỏ mối quan hệ chi phối, chế ước lẫn nhau
giữa chính trị và pháp luật, thể hiện ở vai trò, chức năng và nhiệm vụ, ở thẩm
quyền và trách nhiệm giữa các chủ thể: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ.
Mục đích cao nhất của việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến
pháp cũng như các vấn đề về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, về cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà nước… là xây dựng và phát triển nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, là thực hiện dân chủ, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Nhân dân là những người chủ và làm chủ xã hội. Đó là địa vị chủ thể của dân
với tư cách là chủ thể gốc của mọi quyền lực. Quyền lực mà Đảng và Nhà nước
thực thi theo thẩm quyền và trách nhiệm của mình, xét đến cùng chỉ là thực hiện

quyền lực nhân dân, do dân ủy thác trao cho mà thôi. Hơn nữa, việc thực thi quyền
lực đó nhằm mục đích cao nhất và duy nhất là phục vụ dân, là vì dân chứ không vì
mình. Các thiết chế quyền lực (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội) cũng
như đảng viên của Đảng, công chức của Nhà nước và những người hoạt động trong
các tổ chức, đoàn thể của hệ thống chính trị đều phải thực hiện mục đích vì dân.
Hoạt động và hành vi thực hiện quyền đều phải được kiểm soát, giám sát lẫn
nhau trong hệ thống, đều do luật quy định và luật điều tiết. Đòi hỏi, yêu cầu này là

9


cần thiết, tất yếu, vừa tự giác, xét về mặt tự ý thức về trách nhiệm và đạo đức, vừa
là bắt buộc, xét về mặt nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý. Chính nhận rõ điều ấy mà Hồ
Chí Minh vừa nhấn mạnh phải thực hiện dân chủ chứ không biến dân chủ thành
“quan chủ,” phải là đầy tớ, công bộc trung thành, tận tụy của dân chứ không được
lên mặt “quan cách mạng.”
Người cũng đòi hỏi luật pháp phải nghiêm minh, “trăm điều phải có thần
linh pháp quyền,”3 phải nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai.
“Quốc lệnh” là một văn kiện chính trị - pháp lý, kết hợp chặt chẽ đức trị với pháp
trị, thưởng phải hậu để ghi công và tôn vinh xứng đáng người có công tận trung với
nước, tận hiếu với dân và phạt phải đúng, phải nghiêm, phải nặng, đủ sức mạnh
trừng trị những kẻ hại dân và răn đe, cảnh báo mọi người không được mắc vào lỗi
lầm sai trái, bất minh, bất chính.
Nói tóm lại, quyền lực nhân dân là tối cao, quyền lực Nhà nước là của dân,
tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, là thống nhất, không phân chia, chỉ
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đảng lãnh đạo Nhà nước không chỉ là
lãnh đạo hoạt động thể chế hóa quan điểm, đường lối chính trị của Đảng thành ra
luật pháp và chính sách Nhà nước để thực hiện trong cuộc sống mà còn lãnh đạo,
bao hàm cả kiểm tra, giám sát hoạt động cũng như hành vi của tổ chức và cá nhân

(các đảng viên làm việc trong các tổ chức công quyền), đảm bảo cho dân chủ và
pháp luật được thực hiện, được tôn trọng, được bảo vệ.
Nhất quán với mục đích vì dân, vì xây dựng và phát triển dân chủ, vì thực
hiện đầy đủ quyền con người (nhân quyền), quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
(dân quyền) để có dân chủ thực chất, quyền làm chủ thực chất của nhân dân-đó là
sứ mệnh lãnh đạo của Đảng đối với xã hội mà trực tiếp là lãnh đạo Nhà nước trên
tư cách một Đảng cầm quyền.

3 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, H.2000, t.3, tr 438

10


Chính từ bản chất ấy của dân chủ mà lãnh đạo của Đảng phải là lãnh đạo dân
chủ, không độc đoán, chuyên quyền, quản lý của Nhà nước cũng bắt buộc phải là
quản lý dân chủ, không lợi dụng, lạm dụng quyền lực, không lộng quyền, lạm
quyền, phải trọng dân và trọng pháp. Các tổ chức đảng và các đảng viên thông qua
hoạt động của mình mà thể hiện và thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng.
Quyền lực Nhà nước thống nhất ở chủ thể là nhân dân cho nên chính nhân
dân là chủ sở hữu Nhà nước của mình và vì thế “dân chủ là của quý báu nhất trên
đời của dân” (Hồ Chí Minh). Dân chủ ví như một tài sản chính trị đặc biệt của dân,
do dân xây dựng, thực hiện và bảo vệ. Là chủ sở hữu tài sản ấy, dân có quyền sở
hữu và quyền sử dụng dân chủ - đó là quyền và lợi ích, quyền và nghĩa vụ của dân,
thể hiện ý chí, lợi ích, nguyện vọng của dân. Nó là một chỉnh thể toàn vẹn, thống
nhất, không ai có quyền phân chia ra, không ai được chiếm đoạt quyền đó của dân.
Nó chỉ thuộc về một chủ thể là nhân dân. Các chủ thể được dân ủy quyền thay mặt
dân mà thực hiện quyền lực nhân dân để vì dân. Phục vụ dân là nghĩa vụ đạo đức,
là trách nhiệm chính trị đồng thời là trách nhiệm pháp lý.
Phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước để thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm ấy có hiệu quả hơn. Thước đo hiệu quả ấy là dân có được thụ hưởng thực

chất quyền và lợi của họ hay không, dân có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu
hạnh phúc, quyền làm chủ, tự quyết, phúc quyết, quản lý và giám sát hay không.
Để ngăn chặn những biến dạng “phản dân chủ,” “phản quyền” (quyền bị vi phạm)
và cả “hư quyền” (hư ảo, hình thức) thì cùng với phân công, phối hợp phải hết sức
chú trọng, tăng cường sức mạnh kiểm soát quyền lực bởi nhân dân, từ nhân dân, do
nhân dân, cả trực tiếp và đại diện. Đó là những phương thức của dân chủ và cũng là
logic cấu tạo nên Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Phân công là theo chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm, gắn liền với phối hợp theo các quan
hệ, theo tính chất hợp tác, cộng đồng, chia sẻ trách nhiệm phục vụ dân. Phân cấp,
phân quyền là sự bổ trợ của tập quyền Trung ương với tản quyền xuống địa phương
và các lĩnh vực quản lý, để giảm thiểu quan liêu, tăng cường dân chủ trong việc

11


thực thi quyền lực Nhà nước của dân chứ không phải làm phân tán, biệt lập, suy
yếu quyền lực nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước đòi hỏi Đảng phải am hiểu lý
luận và thực tiễn quản lý của Nhà nước pháp quyền, không buông lỏng lãnh đạo
nhưng cũng không làm thay, bao biện, càng không can thiệp trái luật vào hoạt động
độc lập của Nhà nước, nhất là của Tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm sát).
Mặt khác, thước đo hiệu quả lãnh đạo Nhà nước của Đảng phải nhìn vào sức
mạnh, hiệu quả của Nhà nước, đó là một Nhà nước mạnh, thực lực, thực quyền.
Phải cơ chế hóa, luật hóa quan hệ giữa Đảng với Nhà nước để phân biệt, phân định
sự khác biệt giữa Đảng với Nhà nước, nhằm khắc phục những sự lẫn lộn, chồng
chéo, trùng lắp, cản trở lẫn nhau giữa những thực thể chính trị này. Nó cũng làm
tăng cường sự thống nhất, Đảng mạnh đồng thời có Nhà nước mạnh, mặt khác Nhà
nước mạnh để Đảng mạnh. Có sự đồng thuận này mới làm tăng sức mạnh của dân
chủ và sự thụ hưởng lợi ích của dân.
Bản chất xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa của chính thể ở Việt
Nam đòi hỏi Đảng và Nhà nước trong mô hình tổ chức, trong phương thức hoạt

động, trong đặc trưng thiết chế và quyền lực, nhất là nhân lực... là khác biệt của
thống nhất, khác biệt để thống nhất, thống nhất ở mục đích vì dân, không được để
xảy ra những mâu thuẫn, xung đột, phân liệt, bè phái làm phương hại tới chính thể
dân chủ xã hội chủ nghĩa .
Mọi xu hướng và biểu hiện “Đảng hóa Nhà nước” và “Nhà nước hóa Đảng”
dẫn tới “hình thức hóa Nhà nước” (thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp, hành chính
mệnh lệnh, song trùng...) hoặc “hình thức hóa Đảng” với những biểu hiện vượt
quyền, lộng quyền, lạm quyền có nguy cơ xảy ra trong những diễn biến phức tạp
của lợi ích nhóm với cơ chế thị trường và kinh tế thị trường... làm suy yếu cả Đảng
lẫn Nhà nước đều gây tổn hại tới xã hội, tới nền dân chủ, quyền và lợi ích của nhân
dân. Chỉ có luật hóa và pháp chế hóa các hoạt động tham chính trong thể chế dân
chủ-pháp quyền mới khắc phục được những biểu hiện không lành mạnh đó.

12


Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra những nhận xét, kết
luận về sự cần thiết, tất yếu của việc khẳng định và hiến định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội.
Thứ nhất, tính chất chính thể xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đòi hỏi phải
khẳng định và hiến định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và xã hội. Đó là sự thống nhất giữa xu thế khách quan của sự phát triển nước
ta với nguyện vọng, khát vọng của nhân dân, của toàn xã hội, muốn có độc lập tự
do hạnh phúc thì phải lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Do đó phải thừa nhận địa vị pháp lý của Đảng trong Hiến pháp.
Thứ hai, bản chất dân chủ của quyền lực nhân dân, địa vị vai trò người chủ
và làm chủ của dân chỉ có thể được thực hiện, được bảo vệ khi nhân dân làm chủ
chế độ và Nhà nước của mình, do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo và cầm quyền để
nhân dân làm chủ bằng Nhà nước và các thiết chế xã hội ngoài Nhà nước. Đảng
lãnh đạo, cầm quyền là chính đáng, hợp hiến, hợp pháp.

Thứ ba, địa vị pháp lý gắn liền với trách nhiệm pháp lý - chính trị của Đảng,
trước nhân dân, dân tộc và xã hội. Đảng lãnh đạo dân nhưng dân giám sát, kiểm tra
Đảng. Đảng chịu trách nhiệm trước dân và dân có nghĩa vụ thực hiện quyền xây
dựng Đảng của mình. Mọi sự phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội đều là không phù hợp với thực tế khách quan,
không nhận thức đúng quan hệ giữa Đảng với dân, không thấy được mục đích lãnh
đạo của Đảng là để vì dân và dân chủ, cũng không thấy trách nhiệm của Đảng với
dân và dân với Đảng. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, lầm tưởng rằng nhờ đó
dân chủ sẽ phát triển, nhân dân sẽ tự do là một ảo tưởng chính trị, nếu không vì hạn
chế, sai lầm nhận thức chủ quan thì cũng là một thiên kiến, ở bên ngoài thiện chí
xây dựng chính thể, không vì dân và dân chủ mà làm phương hại tới dân chủ và đi
ngược lại ý nguyện, ý chí, lợi quyền của dân. Lý luận khoa học về dân chủ, về
Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội cũng như thực tiễn lịch sử của cách mạng nước
ta, của dân tộc Việt Nam, tự nó sẽ bác bỏ những ý đồ, mưu toan phủ nhận đó.

13


Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và
Mỹ, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội; lãnh đạo công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều thành tựu to lớn:
Chính trị ổn định, kinh tế từng bước phát triển, đời sống nhân nhân ngày càng được
nâng lên, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định, quan
hệ với các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Chúng ta cũng thừa nhận
rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta có vấp phải một số sai lầm,
khuyết điểm, nhưng sau mỗi lần như vậy Đảng ta đã nghiêm khắc sửa chữa, được
nhân dân ủng hộ và uy tín của Đảng được củng cố vững chắc thêm. Tuy nhiên, các
thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, thổi phồng những sai lầm, khuyết
điểm, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải rất cảnh giác, tỉnh táo

trước những luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực phản động, không chỉ
nhìn vào một số khuyết điểm, tiêu cực xã hội mà mất lòng tin vào Đảng, vào chế
độ. Những hạn chế khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội là cái khó tránh khỏi trong quá trình phát triển của đất nước. Không vì một số
khuyết điểm, tiêu cực mà oán trách, quay lưng lại với Đảng; không vì một số cán
bộ, đảng viên hư hỏng mà phủ nhận cả một sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng.
Đó là thái độ đúng đắn của chúng ta.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn
biến phức tạp với nhiều thách thức khó lường, để Đảng ta xứng đáng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam,
củng cố địa vị và nâng cao vai trò lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và toàn xã
hội, đòi hỏi Đảng phải có những giải pháp cụ thể để tiếp tục khẳng định vị thế lãnh
đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: “
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

14


2. Những giải pháp để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội trong tình hình hiện nay.
2.1. Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và cả dân tộc. Thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản chất giai cấp
công nhân, Đảng dễ bị sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử thách, trở ngại để đi
tới thành công. Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu những kinh nghiệm, tri thức của nhân loại, tham khảo
kinh nghiệm các Đảng Cộng sản trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng
nước ta. Biểu hiện cụ thể ở việc hiểu sâu sắc về bản chất cách mạng và khoa học,

phương pháp luận, nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không phải là thuộc lòng các câu chữ trong các tác
phẩm kinh điển.
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Mọi hoạt động gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, buông lỏng kỷ luật đều dẫn tới
nguy cơ làm mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Tăng cường thành phần công nhân trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ chủ
chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Cấp ủy, cán bộ lãnh đạo quản
lý các cấp tiêu biểu cho bản lĩnh chính trị của Đảng và của mỗi tổ chức Đảng. Do
vậy phải tăng cường giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, quan điểm của giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của
dân tộc cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, tranh
quyền, ham tiền, vụ lợi. Xây dựng cấp ủy các cấp thực hiện tốt vai trò là hạt nhân
lãnh đạo chính trị vững vàng.
2.2. Nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết
thực tiễn của Đảng

15


Tầm trí tuệ của Đảng chính là trình độ trí tuệ của Đảng gắn với mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định, là sự kết hợp chặt chẽ của bốn yếu tố: năng lực tư duy, tri thức
tích lũy được, sự sáng tạo phát hiện ra cái mới, sự vận dụng các yếu tố của trí tuệ
vào cuộc sống. Nâng tầm trí tuệ của Đảng, trình độ lý luận của Đảng là phương
thức hiệu quả nhất để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Đảng ta cần quan tâm
tập trung một số nội dung sau:
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về đảng, chống lại những quan điểm bôi nhọ, những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan tâm tổng kết, rút ra những bài học kinh
nghiệm, thành công và không thành công từ thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của

Đảng ta cũng như các Đảng Cộng sản trên thế giới để bổ sung, phát triển học thuyết
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra
trong quá trình cầm quyền của Đảng ta, từ đó tìm ra bản chất, quy luật vận động cơ
bản của thực tiễn cách mạng nước ta trong thời kỳ đổi mới. Mặt khác, đấu tranh
chống biểu hiện bảo thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận vào thực tiễn. Kịp thời thay
đổi những chủ trương, chính sách không phù hợp.
Phát huy tiềm năng, sáng tạo trong công tác nghiên cứu lý luận, nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các Viện nghiên cứu trong công tác nghiên
cứu lý luận của Đảng. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lý luận của Đảng
trong đó trọng tâm là nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về
CNXH, con đường đi lên CNXH ở nước ta và những vấn đề nảy sinh trong quá
trình đổi mới như mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng
XHCN, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện toàn cầu hóa …
Nâng cao năng lực nghiên cứu dự báo xu thế khách quan của sự phát triển xã
hội, của thế giới và khu vực, những nhân tố ảnh hưởng, tác động tới sự lãnh đạo
của Đảng và công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong những thập

16


niên tới. Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ trí
tuệ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt các cấp không những giỏi trong chỉ đạo thực tiễn mà còn có
tư duy lý luận độc lập, sáng tạo, có tầm nhìn xa trông rộng, chủ động triển khai có
hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của đảng trong thực tiễn.
2.3. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới
Đổi mới, chỉnh đốn là việc Đảng quyết tâm từ bỏ những lạc hậu, lỗi thời,
khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối liên hệ máu

thịt với nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới
đến thắng lợi. Đây là bài học lớn nhất, cũng là vấn đề sống còn, có quan hệ đến sự
ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và vận mệnh của bản thân Đảng. Đổi
mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, đảm bảo cho Đảng có tổ chức chặt
chẽ, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao. Xa rời nguyên tắc tập trung dân
chủ, đảng sẽ mất quyền lãnh đạo, bị suy yếu nhanh chóng, thậm chí biến chất và
tan rã. Do vậy, phải kịp thời bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy trình để đảng
viên được tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Có cơ chế để cán
bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của đảng viên,
cán bộ dưới quyền, kể cả những ý kiến trái chiều; trong những trường hợp cần thiết
cần tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các trung tâm, viện nghiên cứu trước
khi đưa ra quyết định. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, các biểu hiện
kèn cựa, tranh giành địa vị, lợi lộc, cục bộ, bản vị.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi cấp thiết phải
phòng chống nguy cơ thoái hóa, biến chất, tự diễn biến từ trong nội bộ Đảng. Hồ
Chí Minh coi mỗi sai lầm, khuyết điểm như một chứng bệnh, là kẻ địch từ bên
trong phát hoại Đảng, như “ giặc ở trong lòng”. Do vậy, Đảng cần huy động sức
mạnh của cả hệ thống chính trị trong đấu tranh phòng chống suy thoái, quan liêu,

17


tham nhũng trong bộ máy Đảng, chính quyền; hoàn thiện hệ thống pháp luật, các
quy định của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tham nhũng; phát
huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của
các phương tiện thông tin và dư luận xã hội trong xây dựng Đảng và Nhà nước.
Cấp ủy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cần nêu gương trong việc rèn luyện
về đạo đức lối sống, giữ gìn bản thân trong sạch, trong sáng; kiên quyết chống lại

các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các hiện tượng tiêu
cực, khắc phục hiện tượng nể nang, “dĩ hòa vi quý”. Đảng và Nhà nước cần có các
biện pháp xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến
chất, bất kể là ai, bất kể ở cương vị nào. Chống suy thoái bên trong phải đi đôi với
phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phê phán, bác bỏ mọi
luận điệu xuyên tạc, chống đối nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta và chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trọng tâm là phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở 3 điểm: Nội dung lãnh đạo; Phương
thức lãnh đạo; Lề lối làm việc, tác phong công tác. Ba điểm trên đây có quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó, phương thức lãnh đạo có vai trò rất quan trọng. Nhờ
có phương thức lãnh đạo thích hợp mới thực hiện được sự lãnh đạo của Đảng,
chuyển tải nội dung lãnh đạo đến đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện mục đích đề
ra. Phương thức lãnh đạo là một hệ thống các hình thức, biện pháp, phương pháp
mà Đảng sử dụng để tác động đến đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện nhiệm vụ
chính trị do Đảng đề ra. Phương thức lãnh đạo phụ thuộc trước hết vào đối tượng
lãnh đạo (quy luật vận động, đặc điểm, xu thế... của đối tượng), vào hoàn cảnh,
điều kiện lịch sử trong nước và thế giới, vào sự phát triển của khoa học và công
nghệ trong đó có khoa học và công nghệ lãnh đạo, vào nhiệm vụ chính trị thực tiễn
của Đảng trong từng giai đoạn... và cả vào chủ thể lãnh đạo là Đảng (trình độ, năng
lực, bản lĩnh, nghệ thuật lãnh đạo... của tổ chức Đảng và cấp ủy). Do đó, phương

18


thức lãnh đạo của Đảng không phải là bất biến mà cũng thay đổi theo thời gian,
theo từng giai đoạn cách mạng. Khi Đảng đã nắm chính quyền, phương thức lãnh
đạo của Đảng không thể không khác với khi Đảng chưa giành được chính quyền.
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề phương

thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong các Nghị quyết
của các Đại hội Đảng toàn quốc từ Đại hội VI đến Đại hội IX đều khẳng định yêu
cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết:
"Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ
trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Ban Chấp hành Trung ương, tập thể cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn thảo luận
dân chủ, biểu quyết và ra nghị quyết theo đa số những vấn đề quan trọng về đường
lối, chủ trương, chính sách, về tổ chức, cán bộ. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập
thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân"4
Trong những năm đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cùng với đổi mới về
kinh tế, về hệ thống chính trị, văn hóa - xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng
cũng được đổi mới, có những bước tiến, khác xa so với thời kỳ chiến tranh và thời
kỳ tập trung bao cấp. Bước tiến về đổi mới phương thức lãnh đạo thể hiện ở chỗ:
Đảng và các cấp ủy ngày càng coi trọng và quan tâm đến đổi mới phương
thức lãnh đạo - một yêu cầu cơ bản và cấp bách của đổi mới, chỉnh đốn Đảng cho
phù hợp với tình hình đã thay đổi.
Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các
"kênh", các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo. Cương lĩnh chính trị được
thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991), đã chỉ rõ: "Đảng lãnh đạo xã hội
bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công
tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra bằng
4 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 144, 145

19


hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và

các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị" 5.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được đổi mới
theo hướng không ngừng mở rộng dân chủ và công khai; các phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân
và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Đảng và các tổ chức đảng ngày càng coi trọng và tôn trọng vai trò các cơ
quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Tòa án
nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Vai trò của các
tổ chức Nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi mới về tổ chức và phương
thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được nâng cao.
Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà
nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo, lấn sân của nhau.
Đảng đã bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt
trong bộ máy chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và
tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị. Ngày càng xác định rõ hơn nội dung,
phạm vi lãnh đạo, mối quan hệ lãnh đạo của cấp ủy với cơ quan nhà nước, nhất là ở
Trung ương. Đã xây dựng được quy chế làm việc của Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và cấp ủy các cấp, cũng như xây dựng chương trình công tác của cấp ủy
toàn khóa, hằng năm.
Thông qua đó, xử lý đúng đắn hơn, rành mạch hơn (nhưng không phải cứng
nhắc, máy móc) mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, giữa cơ quan đảng và cơ
quan chính quyền, giúp cho cấp ủy tập trung trí tuệ và sức lực lãnh đạo những vấn
đề lớn và quan trọng.

5 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb CTQG, Hà Nội, H.1991, tr.37

20



Quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng đã được cải tiến (chú ý
hơn đến công tác tham mưu, tư vấn, sử dụng chuyên gia, làm thí điểm), việc phổ
biến nghị quyết cũng giảm bớt tính hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn, gắn
với chương trình hành động.
Tuy có những bước tiến quan trọng trên đây, song, những đổi mới về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của tình hình, yêu cầu cần đổi mới Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Trên vấn đề này, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc làm hạn
chế cả vai trò lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò làm
chủ của nhân dân. Vẫn còn tình trạng Đảng bao biện, làm thay, lấn sân công việc
của chính quyền, cơ quan Đảng chạy theo những việc sự vụ, "buông cái to nắm cái
nhỏ", can thiệp quá sâu vào công việc của chính quyền. Vẫn còn tình trạng cơ quan
chính quyền thụ động, ỷ lại vào cấp ủy, né tránh không dám chịu trách nhiệm, hoặc
đẩy các công việc đáng lẽ thuộc thẩm quyền mình giải quyết sang cho cấp ủy để
giữ "chốt an toàn"; vẫn còn tình trạng cấp trên ôm đồm nhiều việc của cấp dưới mà
không dám mạnh dạn phân cấp, nên cấp trên không còn thời gian và sức lực để đầu
tư suy nghĩ những vấn đề lớn, quan trọng hơn hoặc có tầm chiến lược. Đồng thời,
cũng vẫn còn tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo chính quyền, không phát huy
được vai trò lãnh đạo, thậm chí bị cơ quan chính quyền lấn sân v.v. và v.v..
Thực tế đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa
IX): "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm tránh cả hai khuynh
hướng: hoặc buông lỏng sự lãnh đạo, hoặc bao biện, làm thay, nhất là phương
thức Đảng lãnh đạo Nhà nước"6.
Để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cần
giải quyết một số vấn đề sau đây:

6 Văn kiện Hội nghị lần thứ 9, BCHTW khóa IX, Nxb CTQG, Hà Nội, H.2004, tr.158

21



Thứ nhất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về
phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Cần nghiên cứu sâu hơn, có hệ thống và toàn
diện hơn vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xác định rõ mô hình
của hệ thống chính trị làm cơ sở cho đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức theo Nghị quyết Trung
ương 7, khóa VIII, tiếp tục xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức
đảng và tổ chức nhà nước, tránh chồng chéo, lấn sân. Nâng cao vai trò công tác
tham mưu của ban đảng các cấp. Cần tiếp tục làm rõ vai trò ban cán sự đảng của
bộ, mối quan hệ giữa ban cán sự đảng của bộ và của tổng công ty với Ban Cán sự
đảng Chính phủ và Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Thứ ba, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Quốc hội, Chính phủ, sự
lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng đối với cơ quan chính quyền cùng cấp. Cần cụ
thể hóa và bổ sung một số quy định về quan hệ và lề lối làm việc của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ trong lãnh đạo
công tác an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tổ chức cán bộ,...
Thứ tư, cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ sao cho vừa giữ vững nguyên tắc này vừa bảo đảm
quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu các tổ chức chính quyền.
Cần có quy chế về trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu tổ chức về công
tác cán bộ.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao chất lượng và hiệu quả
kiểm tra, nhất là kiểm tra thường xuyên để phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng, đồng
thời kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi
phạm nguyên tắc...


22


Thứ sáu, tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ nội bộ
Đảng cho đến dân chủ ngoài xã hội, đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở,
xây dựng và thực hiện các cơ chế, quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trong bầu cử
và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Có cơ chế nhân dân
tham gia giám sát Đảng và chính quyền.
Thứ bảy, tích cực đổi mới phong cách lãnh đạo của các cấp ủy, hoàn thiện
quy trình xây dựng, ra nghị quyết và triển khai thực hiện nghị quyết; tăng cường
chế độ làm việc có tính khoa học, có quy chế, chương trình, kế hoạch; cán bộ lãnh
đạo cần sâu sát quần chúng, cơ sở, coi trọng tổng kết thực tiễn, coi trọng tính thiết
thực, hiệu quả, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích trong công tác.
2.5. Đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ trọng tâm là đội ngũ cán bộ
chủ chốt các cấp
Công tác tổ chức và cán bộ là hai nội dung trọng tâm trong nhiệm vụ đổi mới
Đảng về tổ chức. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới Đảng về tổ chức đòi hỏi phải
tập trung lãnh đạo tiếp tục kiện toàn tổ chức của Đảng các cấp trọng tâm là tổ chức
cơ sở Đảng, phân định rõ bộ máy tổ chức Đảng với tổ chức của Nhà nước cả về
quy mô và chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ; các quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng;
mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đổi mới về tổ chức phải gắn kết chặt chẽ với đổi mới công tác cán bộ.
Những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những
nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm của Đảng. Do vậy,
Đảng phải quan tâm xây dựng một đội ngũ cán bộ có tầm trí tuệ, dám nghĩ, dám
làm, dám đổi mới, được bố trí, sử dụng đúng để đường lối đổi mới của Đảng đi
vào cuộc sống và không ngừng được bổ sung, phát triển. Đội ngũ cán bộ nhất là
cán bộ chủ chốt các cấp phải vững vàng về tư tưởng chính trị, lành mạnh về đạo

đức lối sống, đủ bản lĩnh trong kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới... Đổi

23


mới công tác cán bộ nhất là đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp ở nước ta hiện
nay cần chú ý một số định hướng :
Đổi mới công tác cán bộ là trách nhiệm của toàn Đảng, các tổ chức đảng và
cán bộ lãnh đạo các cấp. Đổi mới phải trên cơ sở phương châm dân chủ, công khai,
minh bạch, có tầm chiến lược, tầm nhìn dài hạn trong đó chú trọng xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt. Tránh quan liêu, cửa quyền trong việc lựa chọn, bố trí cán bộ;
quan niệm đẳng cấp, chủ nghĩa cá nhân, đầu óc địa vị, tư lợi, cục bộ, địa phương...
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ, phải
đặc biệt quan tâm trẻ hóa đội ngũ cán bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận có tâm, có
tầm, có tài cho Đảng, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển trong đội ngũ cán
bộ; trọng dụng nhân tài cho sự phát triển đất nước. Cụ thể hóa những tiêu chuẩn đối
với cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt, lãnh đạo quản lý các cấp trên cơ sở chức danh,
cương vị công tác ( quan tâm những tiêu chuẩn hiện nay mới dừng lại ở định tính).
Tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy trình lựa chọn, đánh giá, đề bạt, điều động
cán bộ, nâng cao chất lượng quản lý cán bộ. Thực hiện chủ trương của Đảng và
Quốc hội khóa XIII ( kỳ họp thứ tư) về lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức
danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt đảm bảo thực chất.
2.6. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền đảm bảo cho Đảng không có sự cạnh
tranh quyền lực. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với Đảng ta do nguy cơ sự
tha hóa quyền lực mà biểu hiện cụ thể là sự độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần
chúng. Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã
hội, Đảng phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả.
Trước hết, cần quan tâm đến việc tự kiểm soát trong nội bộ Đảng. Phát huy
vai trò, năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp đối với tổ chức

đảng và đảng viên, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện mơ hồ, dao
động, những việc làm không đúng quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định
của Đảng. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình liên quan đến các

24


khâu của công tác cán bộ, do đây là việc làm phức tạp, nhạy cảm, dễ sinh ra các
hiện tượng tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, không đảm bảo chất lượng đội ngũ cán
bộ, từ đó dẫn đến giảm sút năng lực lãnh đạo , cầm quyền của Đảng.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế và phát huy vai trò của các đoàn thể
chính trị-xã hội và quần chúng nhân dân trong giám sát và phản biện xã hội đối với
các chủ trương, chính sách của Đảng, hoạt động của tổ chức Đảng, nhà nước và cán
bộ, đảng viên nhất là đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội phải trở thành các lực lượng nòng cốt giám sát việc việc
thực hiện chính sách của Đảng, phản biện đối với đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước trên nền tảng đối thoại dân chủ. Đảm bảo những chủ
trương, chính sách của Đảng trước khi thông qua phải có ý kiến của Mặt trận và các
đoàn thể; Kịp thời phản ánh, góp ý với Đảng những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống
để Đảng và nhà nước kịp thời điều chỉnh các chính sách, chủ trương, điều chỉnh
trong triển khai thực hiện. Quan tâm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.Khi tiếp nhận ý kiến còn có vấn đề
khác nhau, Đảng cần tổ chức trao đổi, thảo luận với Mặt trận và các đoàn thể để đi
tới thống nhất.
Cùng với tự kiểm soát của hệ thống chính trị, Đảng phải có cơ chế phát huy
vai trò giám sát, phát hiện vấn đề của các tầng lớp nhân dân; Thực sự tôn trọng lắng
nghe ý kiến từ nhân dân; tiếp tục hoàn thiện những quy định của Pháp lệnh dân chủ
ở cơ sở. Có cơ chế để thẩm tra, xác minh những ý kiến phản ánh của nhân dân để
Đảng tự soi lại các chủ trương, chính sách. Tự do, dân chủ, công khai trong bầu cử
để lôi cuốn đông đảo nhân dân thực sự tham gia vào đời sống chính trị và lựa chọn

đúng ngườiđại diện cho mình. Những chính sách có liên quan trực tiếp đến đời
sống của nhân dân như: xây dựng các công trình công cộng, giao thông, phúc lợi xã
hội, y tế, giáo dục, di dân và tái định cư … phải có tổ chức hoặc đại biểu của nhân
dân giám sát quá trình ra chính sách, thực thi chính sách và kiểm tra đánh giá chính
sách. Mở rộng thực hiện các loại hình dân chủ trực tiếp như: Trưng cầu ý dân; triển

25


×