Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt động tư vấn pháp luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.25 KB, 19 trang )

Đề 2: Nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt động tư vấn pháp
luật dân sự. N01-N3
MỤC LỤC
A/ MỞ BÀI
Tư vấn pháp luật dân sự (TVPLDS) là một trong những hoạt động quan trọng của luật sư
trong lĩnh vực pháp luật dân sự, đây chính là việc luật sư giải đáp pháp luật dân sự, hướng dẫn
thực hiện đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho khách hàng. Và luật sư cũng cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và một trong
những nguyên tắc đó là “nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt
động tư vấn pháp luật dân sự”.
B/ NỘI DUNG
1. Khái quát về tư vấn pháp luật trong dân sự
1.1. Khái niệm tư vấn pháp luật dân sự
Tư vấn pháp luật dân sự là việc giải đáp pháp luật dân sự, hướng dẫn ứng xử đúng pháp
luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, cung ứng dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ
chức trong nước và quốc tế thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hộ. Tư vấn pháp
luật dân sự là một khía cạnh trong tư vấn pháp luật nói chung.
1.2. Mục đích của tư vấn pháp luật dân sự
Thứ nhất, nâng cao hiểu biết của người dân về quyền và nghĩa vụ công dân trong pháp luật
dân sự cũng như ý thức chấp hành luật cho người dân;
Thứ hai, góp phần tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật dân sự ; giảm bớt thời gian
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiêú nại, tố cáo dân sự đồng thời tăng cường đoàn kết trong
cộng đồng;
1
Thứ ba, đưa ra những kiến nghị, đề xuất kịp thời để hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật
dân sự trên cơ sở thông qua hoạt động tư vấn pháp luật dân sự đồng thời nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu và thực trạng vi phạm pháp luật dân sự, cũng như thực trạng áp dụng
pháp luật dân sự trong địa phương hay toàn quốc.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lú, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; củng cố
niềm tin của người dân đối với cơ quan nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thứ năm, hoạt động tư vấn pháp luật dân sự là cầu nối quan trọng giữa người xây dựng


pháp luật, áp dụng pháp luật, thực thi pháp luật và công dân.
1.3. Nguyên tắc tư vấn pháp luật dân sự
Tư vấn pháp luật dân sự là một khía cạnh trong tư vấn pháp luật nên nó cũng có những
nguyên tắc tương tự như trong tư vấn pháp luật đó là:
Thứ nhất, hiểu rõ và xác định đúng về vấn đề cần tư vấn; biết lắng nghe, cảm thông và chia
sẻ với người được tư vấn; đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề tư vấn; chỉ đưa ra thông tin phù
hợp với vấn đề tư vấn, không đưa ra kết luận theo chủ quan của người tư vấn; hướng dẫn
người được tư vấn tự đưa ra lựa chọn và quyết định vấn đề của mình;
Thứ hai, không thực hiện tư vấn cho hai người có lợi ích đối ngược nhau trong cùng một
giao dịch.
Thứ ba, người tư vấn có trách nhiệm giữ bí mật đối với thông tin do người được tư vấn cung
cấp, không tiết lộ cho người khác nếu không có sự đồng ý của người được tư vấn; nếu gây thiệt
hại do việc bộc lộ thông tin thì có thể người tư vấn phải bồi thường thiệt hại; Đây là một nguyên
tắc vô cùng quan trọng trong quá trình tư vấn.
2. Nội dung n guyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt
động tư vấn pháp luật dân sự
2.1. Khái niệm nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng
Giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư là nghĩa vụ
pháp lý và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư, theo đó luật sư giữ kín những thông tin
luật sư biết được về khách hàng, liên quan đến khách hàng trong quá trình giải quyết vụ việc và
không tiết lộ cho bất kỳ người nào khác ngoài luật sư và khách hàng.
2
“Giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động tư vấn pháp luật dân sự” gồm hai nội
dung. Một là, đối với bản thân luật sư, luật sư phải bảo mật thông tin về khách hàng, không tiết
lộ các thông tin về khách hàng. Hai là, đối với các chủ thể khác ngoài luật sư và khách hàng,
luật sư phải hạn chế các khả năng những thông tin về khách hàng bị tiết lộ, bị xâm phạm.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm trong việc giữ bí mật thông tin về khách
hàng của luật sư như sau:
Thứ nhất, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư trong hoạt động động tư vấn
pháp luật dân sự là hoạt động xuất phát từ hoạt động nghề nghiệp của luật sư, xuất phát từ

dịch vụ pháp lý giữa luật sư với khách hàng.
Thứ hai, nguồn thông tin về khách hàng rất đa dạng, có thể do khách hàng cung cấp hoặc do
luật sư thu thập hoặc từ nguồn khác mà luật sư biết được.
Thứ ba, giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư vừa là
nghĩa vụ pháp lý vừa là quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, hay nói cách khác
là vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính tự nguyện.
Thứ tư, giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư là hoạt
động mang tính tín nhiệm, tin cậy: khách hàng tín nhiệm luật sư mới có thể thành thật, thẳng
thắn trình bày các thông tin của mình; ngược lại luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng để
tạo sự tin cậy.
2.2. Cơ sở của nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong tư
vấn pháp luật dân sự
Có hai cơ sở cho việc luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng trong tư vấn pháp luật dân
sự. Đó là cơ sở pháp lý và cơ sở đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.
2.2.1. Cơ sở pháp lý
Luật Luật sư 2006 vừa quy định “giữ bí mật thông tin khách hàng” là nghĩa vụ của luật
sư trong hoạt động hành nghề luật sư, vừa quy định “giữ bí mật thông tin khách hàng” thông
qua điều cấm đối với luật sư. Cụ thể, theo điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006, nghiêm cấm
luật sư thực hiện hành vi: “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong
khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy
3
định khác”. Đây là quy định mang tính kế thừa và không khác gì về nội dung so với quy định tại
khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh Luật sư 2001.
Đồng thời với quy định tại khoản 1 Điều 9, Điều 25 Luật Luật sư 2006 còn quy định về “Bí
mật thông tin” như sau:
“1. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi
hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định
khác.
2. Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong
khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích

hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề
không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình”.
Như vậy, vấn đề giữ bí mật thông về khách hàng của luật sư là vấn đề mang tính pháp lý,
được quy định trong các vấn bản quy phạm pháp luật. Có nghĩa là việc luật sư giữ bí mật thông
tin về khách hàng là vấn đề có tính chất “bắt buộc chung” và là nghĩa vụ pháp lý của luật sư.
2.2.2. Cơ sở đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam được xây dựng thành bộ quy
tắc thành văn. Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam lần đầu tiên
được ban hành là “Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư” được ban hành theo Quyết
định số 356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Căn cứ vào Bộ Quy tắc
mẫu này, Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành Quy tắc đạo đức
nghề nghiệp luật sư áp dụng đối với luật sư của Đoàn mình.
Bộ Quy tắc mẫu này gồm 04 chương và 14 Quy tắc. Trong đó, Quy tắc 9 quy định về việc luật
sư giữ bí mật thông tin của khách hàng với hai nội dung: “Luật sư không tiết lộ thông tin về vụ
việc, về khách hàng khi không được khách hàng đồng ý”; “luật sư có trách nhiệm bảo đảm các
nhân viên của mình cũng không tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng của mình”.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam gồm 6 chương và 27 Quy tắc.
Trong đó, Quy tắc 12 chương II (Quan hệ với khách hàng) quy định về “giữ bí mật thông tin”:
4
“Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả
khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của
pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình
cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Như vậy, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư Việt Nam hiện nay dựa trên cơ
sở pháp lý là Luật Luật sư 2006 và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư. Trên cơ
sở pháp lý, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng là nghĩa vụ pháp lý của luật sư. Tương ứng
với nghĩa vụ này là quy định cấm luật sư tiết lộ thông tin về khách hàng trong một số điều luật
cụ thể. Trên cơ sở đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng là

quy tắc nghề nghiệp mang tính tự nhiên của luật sư, luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng
một cách tự nguyện với lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của mình.
2.3. Giới hạn và trách nhiệm của luật sư trong việc giữ bí mật thông tin về khách
hàng trong hoạt động tư vấn pháp luật dân sự
2.3.1. Giới hạn của luật sư trong việc giữ bí mật mật thông tin về khách hàng trong
hoạt động tư vấn pháp luật dân sự
• Giới hạn những thông tin về khách hàng mà luật sư phải giữ bí mật.
Khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư 2006 quy định: “Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ,
việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề”. Quy tắc 12 trong Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam quy định: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông
tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý”. Quy định này đặt ra vấn đề thông tin nào của
khách hàng phải được luật sư giữ bí mật? Có sự giới hạn về những thông tin cần được bảo mật
hay không? Vấn đề này dẫn đến hai luồng quan điểm:
Một là, không có sự giới hạn, luật sư phải giữ bí mật tất cả các thông tin về khách hàng.
Quan điểm này có ưu điểm là tạo được sự tin cậy tuyệt đối cho khách hàng, nâng cao quy tắc
ứng xử đạo đức nghề nghiệp của luật sư đối với khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm
của luật sư; quan điểm này cũng phù hợp với quy tắc “bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng” vì
việc tiết lộ thông tin về khách hàng có thể tiềm ẩn những rủi ro, bất lợi đối với khách hàng. Hạn
chế của quan điểm này là tính rủi ro cao đối với luật sư.
5
Hai là, có sự giới hạn, luật sư chỉ có nghĩa vụ bảo mật đối với những tin về khách hàng
được xem, được xác định là thông tin mật theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận
bảo mật giữa luật sư và khách hàng. Nó có ưu điểm là tạo cơ chế rõ ràng trong việc bảo mật, dễ
dàng xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng
vì đã xác định rõ với khách hàng thông tin nào là thông tin mật, thông tin nào cần được bảo
mật. Hạn chế của quy tắc này là chưa phát huy cao nhất tinh thần trách nhiệm của luật sư đối
với khách hàng, có thể tạo sự không thoải mái cho khách hàng. Trong quá trình tiếp xúc, giải
quyết vụ việc, không phải bao giờ khách hàng cũng cung cấp đầy đủ các thông tin cho luật sư
cùng một lúc mà mỗi giai đoạn, khách hàng có thể cung cấp những thông tin khác nhau. Nếu
mỗi lần khách hàng cung cấp thông tin, luật sư lại lập văn bản bảo mật với khách hàng thì sẽ

gây ra sự bất tiện cho khách hàng. Ngoài ra, việc xác định thông tin nào là thông tin mật cũng
không phải là vấn đề đơn giản. Đối với mỗi khách hàng, thông tin họ muốn giữ bí mật có thể
khác nhau, phụ thuộc vào tâm lý, điều kiện, hoàn cảnh, địa vị xã hội của mỗi khách hàng. Chẳng
hạn về độ tuổi, đàn ông thường không quan trọng nhưng với phụ nữ thì họ thường không muốn
tiết lộ, đặc biệt nếu đó là nữa diễn viên, người mẫu, ca sĩ, thì họ càng không muốn tiết lộ độ
tuổi của họ vì có thể ảnh hưởng đến”sức hấp dẫn” của họ và thậm chí ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Mỗi quan điểm đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Theo quan điểm của em, cần kết
hợp hai quan điểm trên trong việc xác định giới hạn của luật sư đối với những thông tin về
khách hàng cần được bảo mật. Cụ thể, nếu giữa luật sư và khách hàng có sự thỏa thuận, xác
định những thông tin nào cần được bảo mật thì giới hạn bảo mật của luật sư được thực hiện
theo thỏa thuận đó và không ràng buộc nghĩa vụ bảo mật của luật sư đối với những thông tin
khác về khách hàng (ngoài sự thỏa thuận). Trường hợp không có thỏa thuận như vậy, hoặc
khách hàng không đồng ý thỏa thuận như vậy thì luật sư có nghĩa vụ bảo mật tất cả các thông
tin về khách hàng, bất kể thông tin ấy luật sư có được từ nguồn nào (khách hàng cung cấp, luật
sư thu thập, ). Chỉ có như vậy mới bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng trong mối quan hệ
giữa luật sư và khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của luật sư đối với thông tin về
khách hàng.
Ví dụ: Anh A đến Văn phòng luật sư Công Minh yêu cầu luật sư H tư vấn về vấn đề chia
tài sản của vợ chồng A (vợ B) sau khi ly hôn. Khi anh A cung cấp thông tin về những tài sản hai
vợ chồng có được và tài sản riêng của anh A (đã từng mua cho chị C một căn hộ nhỏ mà B
không biết). Anh A và luật sư H đã ký hợp đồng bảo mật thông tin A cung cấp thì giới hạn bảo
6
mật luật sư H phải bảo mật những thông tin đó. Qua tìm hiểu, luật sư H biết được chị B cũng có
một tài khoản tại ngân hàng Agribank, theo quy tắc nghề nghiệp luật sư H cũng cần bảo mật
thông tin này không được cho ai biết trừ A.
Tuy vậy, cũng cần chú ý là luật sư chỉ bảo mật tất cả các thông tin mà luật sư biết được
về khách hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp với khách hàng, thực hiện dịch vụ pháp lý cho
khách hàng; luật sư không có nghĩa vụ giữ bí mật những thông tin về khách hàng mà luật sư
biết được trước khi “quan hệ nghề nghiệp” với khách hàng hoặc sau khi đã kết thúc vụ việc với
khách hàng (nhưng luật sư vẫn giữ bí mật thông tin trước đây mà luật sư biết về khách hàng

lúc thụ lý giải quyết vụ việc của khách hàng).
Trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng, luật sư cần chú ý tìm hiểu các quy định
pháp luật về giữ bí mật thông tin có liên quan đến khách hàng của mình. Chẳng hạn, đối với
khách hàng là cá nhân, luật sư cần tuân thủ quy định về bí mật đời tư (Điều 38 Bộ Luật dân sự
2004); khách hàng là doanh nhân hoặc doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, luật sư cần tuân thủ các
quy định về bí mật kinh doanh( Khoản 23 Điều 4 và Khoản 1 Điều 127 Luật sở hữu trí tuệ 2005
sửa đổi, bổ sung năm 2009),
Trong thực tế, có thể có những vụ việc, khách hàng của luật sư là những người nổi tiếng
hay khách hàng của luật sư là đối tượng có liên quan trong những vụ việc trọng điểm, thu hút
sự quan tâm của dự luận; các phương tiện thông tin đại chúng đã công bố thông tin về khách
hàng, thông tin về vụ việc đó. Vậy, trong trường hợp đó, nghĩa vụ bảo mật thông tin của luật sư
được thực hiện như thế nào? Luật sư có nghĩa vụ bảo mật tất cả các thông tin về khách hàng
nữa hay không? Em cho rằng trong những trường hợp như vậy, nghĩa vụ của luật sư về giữ bí
mật thông tin khách hàng, giới hạn của luật sư trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng
vẫn phải được thực hiện và phải được thực hiện một cách thận trọng. Đối với những vụ việc
này, tùy trường hợp cụ thể mà luật sư có hướng giải quyết và thực hiện nghĩa vụ giữ bí mật
thông tin về khách hàng khác nhau. Chẳng hạn, nếu các phương tiện thông tin đại chúng đã
công bố thông tin về vụ việc trước khi luật sư nhận thực hiện dịch vụ pháp lý từ khách hàng thì
như phân tích ở trên, luật sư không có nghĩa vụ bảo mật nhưng thông tin đã được công bố
trước đó mà chỉ bảo mật những thông tin về khách hàng từ thời điểm luật sư nhận vụ việc.
Nghĩa vụ của luật sư lúc này là không tiết lộ thêm thông tin về khách hàng, trừ trường hợp
được sự đồng ý của khách hàng để tiết lộ những thông tin có lợi cho khách hàng và tranh thủ
7
được sự đồng tình của dư luận (luật sư phải tư vấn cho khách hàng và xin phép sự đồng ý của
khách hàng trước khi tiết lộ thông tin). Có thể luật sư của những khách hàng trong những vụ
việc này còn được mời phỏng vấn, phát biểu quan điểm. Khi đó, luật sư chỉ được phát biểu trên
nguyên tắc “bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng” và chỉ phát biểu trên cơ sở những thông
tin về khách hàng, liên quan đến vụ việc đã được công bố, tuyệt đối tránh vô tình tiết lộ các
thông tin khác về khách hàng, về vụ việc nếu chưa được sự đồng ý của khách hàng. Trong nhiều
trường hợp, luật sư cần xem xét từ chối phát biểu trước các phương tiện truyền thông mà chỉ

phát biểu trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền yêu cầu hoặc khi vụ việc đưa đưa ra giải
quyết chính thức.
• Giới hạn về thời gian
Việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư là không có sự giới hạn về thời gian.
Luật sư có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong lúc đang thụ lý giải quyết vụ
việc cho đến khi vụ việc đã kết thúc. Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của
Luật sư Việt Nam quy định rõ: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi
thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó”. Như phần trên cũng có đề cập, khi
kết thúc vụ việc, luật sư vẫn có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng nhưng đó là những
thông tin mà luật sư biết được trong lúc giải quyết vụ việc cho khách hàng, còn những thông tin
mới mà luật sư biết được sau khi đã kết thục vụ việc với khách hàng thì luật sư không có nghĩa
vụ bảo mật. Một vấn đề đáng lưu ý là Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của
Luật sư Việt Nam quy định luật sư vẫn tiếp tục giữ bí mật thông tin của khách hàng “cả khi đã
kết thúc dịch vụ đó” mà không đề cập đến tình trạng của khách hàng, còn sống hay đã chết (đối
với cá nhân), còn hoạt động hay đã chấm dứt hoạt động (đối với tổ chức). Như vậy, kể cả khi
khách hàng trước đây của luật sư đã chết (đối với cá nhân), không còn hoạt động (tổ chức) luật
sư vẫn phải giữ bí mật thông tin của những khách hàng đó.
Ví dụ: vẫn ví dụ trên, nhưng sau đó vì một lý do nào đó mà A không ly hôn với chị B nữa
và kết thúc hợp đồng dịch vụ pháp lý với Văn phòng Công Minh, thì luật sư H cũng không được
tiết lộ những thông tin mà A đã cung cấp cho luật sư H ( việc A đã mua nhà cho chi C, và tài sản
của gia đình A,…)
• Giới hạn đối với nhân viên, cộng sự của luật sư và tổ chức hành nghề của luật sư
8
Đối với các luật sư cùng hành nghề trong một tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng luật
sư hoặc Công ty luật), không chỉ bản thân luật sư tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc của khách
hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các luật sư khác trong cùng tổ chức hành
nghề luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của tổ chức mình. Đây là quy định
tại khoản 3 Điều 25 Luật Luật sư 2006: “Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các
nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình”
và Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam: “luật sư có trách

nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những
bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật”.
Ví dụ: vẫn sử dụng ví dụ trên, vụ việc của anh A đến Văn phòng Công Minh tư vấn về vấn
đề chia tài sản sau hôn nhân, hợp đồng dịch vụ pháp lý A đã ký với Văn phòng và các thông tin
liên quan yêu cầu các nhân viên trong Văn phòng Công Minh phải có trách nhiệm bảo mật thông
tin về việc này. Nếu nhân viên nào trong Văn phòng không tuân theo thì đã vi phạm Khoản 3
Điều 25 Luật Luật sư 2006 và Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư
Việt Nam. Và người đó sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Đây cũng là quy định hợp lý và phù hợp với quy tắc ứng xử chung của luật sư nhiều nước
trên thế giới. Tính hợp lý biểu hiện ở chỗ đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức này có tư
cách pháp nhân và thực hiện kinh doanh dịch vụ pháp lý, khách hàng không phải là khách hàng
của riêng luật sư mà là khách hàng của tổ chức hành nghề luật sư đó. Do đó, tổ chức hành nghề
luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng, cụ thể không chỉ luật sư trực tiếp giải
quyết vụ việc mà các luật sư khác trong cùng tổ chức hành nghề luật sư đó cũng phải giữ bí mật
thông tin về khách hàng của tổ chức mình. Luật sư trực tiếp tiếp xúc và người đứng đầu, người
quàn lý tổ chức hành nghề luật sư (Trưởng Văn phòng, Giám đốc, ) đó phải yêu cầu các nhân
viên, luật sư của tổ chức mình đảm bảo bí mật thông tin về khách hàng.
• Một số ngoại lệ trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng trong tư vấn pháp luật
dân sự
Nhìn chung, giới hạn bảo mật của luật sư đối với thông tin về khách hàng là vô hạn.
Không có giới hạn trong việc luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng. Tuy vậy, Luật Luật sư
9
2006 và Quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp Luật sư Việt Nam vẫn quy định một số ngoại lệ
trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng.
Trong những trường hợp ngoại lệ, luật sư không bị ràng buộc bởi các giới hạn về bảo
mật đối với thông tin về khách hàng như đã phân tích ở trên. Trong những trường đó, luật sư
được (hoặc phải) tiết lộ thông tin về khách hàng.
Có hai trường hợp ngoại lệ được xác định: Một là, sự tiết lộ thông tin về khách hàng được
chính khách hàng đồng ý; hai là luật sư tiết lộ thông tin theo quy định của pháp luật.

Khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư 2006 quy định: “Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ,
việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghể nghiệp
của luật sư Việt Nam cũng quy định: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng
khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, mặc dù Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư không quy định
nhưng theo Luật Luật sư 2006, trong trường hợp luật sư tiết lộ thông tin theo sự đồng ý của
khách hàng thì sự đồng ý đó phải thể hiện bằng văn bản.
Ví dụ: Chị K đến văn phòng luật sư Công Minh yêu cầu luật sư D tư vấn về vấn đề bị xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín do đã bị anh N tung clip nhạy cảm của mình lên mạng và
muốn khởi kiện yêu cầu anh N bồi thường. Do yêu cầu cần thu thập chứng cứ, luật sư D và chị K
đã lập bản đồng ý cho luật sư D căn cứ vào các thông tin mà chị K cung cấp, sử dụng các thông
tin đó giúp chị K tìm thêm chứng cứ nếu có thể. Trong trường hợp này, luật sư D có thể tiết lộ
thông tin khi cần thiết (cung cấp thông tin đó để nhờ một người bạn chuyên về Internet truy tìm
clip và những thông tin về người gửi để làm chứng cứ)
Tiết lộ thông tin theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật có quy định nghĩa
vụ buộc phải khai báo hoặc cung cấp thông tin phục vụ hoạt động điều tra, xác minh của cơ
quan có thẩm quyền. Trong những trường này, luật sư buộc phải tiết lộ thông tin để thực hiện
nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn như quy định về tố giác tội phạm.
Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) quy định:“Người nào biết rõ tội
phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì
10
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định
tại Điều 313 của Bộ luật này”. Khoản 1 Điều 314 Bộ luật Hình sự cũng quy định về tội không tố
giác tội phạm như sau: “Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 313
của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. Theo các
quy định này, công dân có nghĩa vụ tố giác tội phạm, nếu không tố giác có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.

Vấn đề được đặt ra là trong mối quan hệ nghề nghiệp giữa luật sư và khách hàng, khách
hàng tiết lộ cho luật sư biết họ đã thực hiện một hành vi phạm tội thì luật sư phải làm thế nào?
Thực hiện nghĩa vụ công dân, thực hiện theo quy định của pháp luật thì luật sư phải chăng phải
đi tố giác tội phạm? Điều đó có nghĩa là “luật sư tố cáo khách hàng của mình”, báo Cơ quan có
thẩm quyền bắt khách hàng của mình? Đây cũng lại là điều mà Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư không cho phép. Một trong những nguyên tắc hành nghề, chuẩn mực quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp cao nhất của luật sư là “bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách
hàng”, không làm xấu đi tình trạng của khách hàng và luật sư có nghĩa vụ “giữ bí mật thông tin
về khách hàng”. Nếu luật sư tố cáo khách hàng của mình để họ bị bắt thì luật sư sẽ mất đi sự tin
tưởng của khách hàng, có thể ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp và ảnh hưởng đến sự đánh giá,
cái nhìn của xã hội đối với luật sư.
Đây là vấn đề còn nhiều tranh cãi và bàn luận. Theo luật sư Nguyễn Huy Thiệp (Đoàn
Luật sư TP Hà Nội), việc luật sư giữ bí mật cho khách hàng là nguyên tắc cơ bản hàng đầu. Ông
phân tích: “Nếu luật sư thực hiện tốt nguyên tắc này thì khách hàng mới có niềm tin vào luật sư.
Khi đó họ sẽ cung cấp toàn bộ, đầy đủ thông tin liên quan đến sự việc, kể cả những vấn đề tế nhị.
Đó chính là điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư”.
Nhiều đại biểu tán đồng ý kiến này. Tuy nhiên, luật sư Trương Xuân Tám (Đoàn Luật sư tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu) tỏ ra băn khoăn khi đặt giả thuyết: Nếu khách hàng tiết lộ cho luật sư biết họ đã
thực hiện một hành vi phạm tội thì luật sư phải làm thế nào? Đi báo cơ quan chức năng hay im
lặng che giấu tội phạm?
Luật sư Toriyama Hanroku (Đoàn Luật sư Osaka) nêu kinh nghiệm của Nhật Bản để các đại
biểu tham khảo. Theo ông, luật sư Nhật Bản không được phép tiết lộ thông tin của khách hàng.
Tuy nhiên, nếu biết được khách hành của mình đang chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng,
luật sư được phép báo cho cơ quan chức năng sau khi đã làm hết các biện pháp khác nhưng
không ngăn cản khách hàng được. Còn lại, tất cả các trường hợp khác luật sư đều không được
tố cáo, đó là nguyên tắc nghề nghiệp.
1
1 hp://luatminhgia.vn/Luat-su-giu-bi-mat-cho-than-chu-den-dau newsview-274-452.aspx
11
Tuy nhiên, từ vấn đề được đặt ra ở trên và còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau nên

Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam khi chính thức được ban hành chỉ
quy định ngắn gọn như hiện hành:“Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi
thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có
liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được
và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Theo quan điểm của em, căn cứ vào những quy định hiện hành, trong trường hợp trên,
trước hết luật sư cần giải thích quy định của pháp luật cho khách hàng đó hiểu về hành vi tội
phạm mà họ đã thực hiện cũng như chính sách khoan hồng, các tình tiết giảm nhẹ. Trên cơ sở
đó, luật sư khuyên giải họ tự thú. Tuy vậy, nếu khách hàng không đồng ý tự thú và yêu cầu luật
sư phải bảo mật thông tin đó của họ thì luật sư có hai lựa chọn: Một là “rút lui”, từ chối tiếp tục
thực hiện vụ việc cho khách hàng đó, luật sư có thể vận dụng quy tắc 9.2.2 Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp của luật sư để từ chối: “khách hàng không chấp nhận ý kiến tư vấn giải
quyết vụ việc đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức do luật sư đưa ra, mặc dù luật sư đã cố gắng
phân tích, thuyết phục”, sau đó luật sư có thể khéo léo thực hiện nghĩa vụ công dân của mình
theo quy định của pháp luật. Hai là, luật sư vẫn tiếp tục giải quyết vụ việc của khách hàng.
Trong trường này, luật sư cần báo cáo với Đoàn luật sư của mình để Đoàn luật sư có chỉ đạo,
tìm hướng giải quyết phù hợp. Đồng thời luật sư cũng cần có những hành động cần thiết để can
ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm để đề phòng rủi ro cho mình theo quy
định tại khoản 3 Điều 314 Bộ luật Hình sự: “Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn
người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự
hoặc miễn hình phạt”.
Ví dụ: Anh F có đến văn phòng luật sư Công Minh yêu cầu luật sư T tư vấn về việc xin ly
hôn. Anh F và chị M hiện đang là vợ chồng. Theo thông tin do F cung cấp cho luật sư T và hai
bên đã thỏa thuận đảm bảo giữ bí mật, anh F đã có bồ mới đó là chị C bên ngoài và muốn ly dị
với chị M để lấy chị C. Nhưng chị M không đồng ý, anh F đã dùng nhiều cách (đe dọa sẽ giết chị
M, đánh đập,hành hạ,…) mà chị M vẫn không ký. Vậy làm cách nào đê F có thể ly hôn với M mà
không cần sự đồng ý của M?. Khi đó, luật sư T cần cho anh F biết hành vi của anh đã vi phạm
pháp luật hình sự, giải thích các quy định của pháp luật và khuyên anh F nên ngay lập tức dừng
các hành động này lại nếu anh F không đồng ý luật sư T nên từ chối thực hiện vụ việc của anh F

12
hoặc vẫn tiếp tục thực hiện vụ việc nhưng báo với Văn phòng để có hướng giải quyết tối ưu
nhất. Như vậy, vừa đảm bảo được nguyên tắc giữ bí mật thông tin của khách hàng và vừa đảm
bảo tuân theo pháp luật.
Với tính chất là một nghề đặc biệt như nghề luật sư, với những quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp của luật sư, tác giả cho rằng pháp luật cần quy định luật sư chỉ phải tố giác tội
phạm đối với khách hành khi khách hàng đó phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Cụ thể khoản 2 Điều 22 và khoản 2 Điều 314 Bộ luật Hình sự cần
được sửa đổi, bổ sung theo hướng như sau: “Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu,
anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội; luật sư có khách hàng là người phạm tội
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh
quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 313 của Bộ luật này”.
2.3.2. Trách nhiệm của luật sư trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng trong
hoạt động tư vấn pháp luật dân sự
Có hai dạng trách nhiệm của luật sư trong việc vi phạm quy tắc, nghĩa vụ giữ bí mật thông
tin về khách hàng: trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm pháp lý. Cùng một hành vi vi phạm, luật
sư có thể chịu một hoặc cả hai loại trách nhiệm này.
• Trách nhiệm kỷ luật
Trách nhiệm kỷ luật đối với luật sư trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng là
trách nhiệm xét về khía cạnh quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, xét trong mối quan hệ
giữa luật sư với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật sư là Đoàn luật sư và Liên đoàn Luật sư
Việt Nam.
Xử lý kỷ luật đối với luật sư khi có vi phạm quy tắc giữ bí mật thông tin về khách hàng
nói riêng hoặc vi phạm Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp nói chung được thực hiện theo
quy định tại Điều 85 Luật Luật sư 2006
2
với bốn hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo, tạm
đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ sáu tháng đến hai mươi bốn tháng, xóa tên khỏi
danh sách Đoàn Luật sư.
2 hp://liendoanluatsu.org.vn/index.php/vi/van-ban/tai-lieu-dao-tao-boi-duong-luat-su/556-quy-tac-dao-duc-va-ung-xu-nghe-

nghiep-luat-su-viet-nam.html
13
Ví dụ: Trong một cuộc vui với bạn bè, luật sư T đã vô tình tiết lộ thông tin về khách hàng
của mình ( ông K, làm cơ quan Nhà nước X đã đến văn phòng luật sư của mình xin tư vấn về
hợp đồng mua một mảnh đất ở Khu đô thị ABC đó với giá 5.000.000.000 đồng). Sau đó, vì một
nguyên nhân nào đó, Văn phòng luật sư nơi luật sư T làm việc đã biết được và luật sư T sẽ phải
bị xử lý kỷ luật theo Điều 85 Luật luật sư 2006.
Hiện nay, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đang xây dựng Quy chế xử lý kỷ luật đối với
Luật sư áp dụng thống nhất cho các Đoàn Luật sư. Quy định về xử lý kỷ luật đối với luật sư đề
cập đến các vấn đề về nội dung và thủ tục, quy trình xử lý kỷ luật luật sư như các hình thức kỷ
luật (khiển trách, cảnh cáo, tạm đình chỉ hoạt động, xóa tên khỏi đoàn và đề nghị thu hồi chứng
chỉ hành nghề), trình tự, thủ tục tiến hành việc xử lý, giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết
định xử lý kỷ luật luật sư, trách nhiệm của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng Khen thưởng Kỷ luật các
Đoàn Luật sư, Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, cũng như các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ được phép xem xét khi xử lý kỷ luật luật sư…
• Trách nhiệm pháp lý
Giữ bí mật thông tin về khách hàng không chỉ là quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
của luật sư mà còn là một nghĩa vụ pháp lý được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật bao gồm Luật Luật sư 2006 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Trách
nhiệm pháp lý của luật sư trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng là hậu quả pháp lý bất
lợi đối với luật sư khi luật sư vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng. Trách nhiệm
pháp lý này bao gồm trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Ba
loại trách nhiệm pháp lý này đã được quy định tại Điều 89 Luật Luật sư 2006 về xử lý vi phạm
đối với Luật sư: “Luật sư vi phạm quy định của Luật này, ngoài việc bị xử lý kỷ luật thì tuỳ theo
tính chất, mức độ vi phạm còn bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Đối với mỗi hành vi vi phạm, luật sư vi phạm có thể chịu một loại trách nhiệm pháp lý
hoặc đồng thời chịu hai loại trách nhiệm pháp lý: trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hành
chính; trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, nếu hành vi vi phạm của luật sư đã
đến mức phải truy cứu trách nhiệm pháp lý thì chắc chắn luật sư vi phạm phải chịu trách nhiệm

kỷ luật như đã phân tích.
+ Trách nhiệm hành chính
14
Trách nhiệm hành chính của luật sư trong việc vi phạm quy định về giữ bí mật thông tin
về khách hàng được quy định tại điểm d khoản 4 Điều 24 Nghị định60/2009/NĐ-CPngày
23/7/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Theo
đó, luật sư “tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề,
trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác” thì bị
“phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng”.
Ví dụ: Vẫn ví dụ trên, luật sư T đã tiết lộ thông tin về khách hàng K khiến khách hàng K
bị mọi người trong cơ quan X bàn tán về tài sản của K và ông K đã đến khiếu nại với Văn phòng
luật sư nơi luật sư T làm việc. Khi đó, luật sư T sẽ phải chịu cả trách nhiệm pháp lý như bị xử
phạt hành chính theo quy định tại Điều 89 Luật luật sư 2006.
+ Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự của luật sư đối với việc giữ bí mật thông tin về khách hàng được xác
định theo Hợp đồng giữa luật sư và khách hàng, bao gồm Hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc Hợp
đồng bảo mật (nếu có) và theo quy định của pháp luật dân sự.
Trách nhiệm dân sự của luật sư đối với nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng chủ
yếu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu việc luật sư tiết lộ thông tin của khách hàng (không
thuộc trường hợp được tiết lộ) gây thiệt hại cho khách hàng.
Ví dụ: Vẫn ví dụ trên, thì luật sư T phải bồi thường thiệt hại cho ông K về hành vi của
mình gây ra.
+ Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất đối với hành vi vi phạm
pháp luật. Trường hợp luật sư vi phạm về nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng mà đủ
yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự thì phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định.
Chẳng hạn một luật sư nào đó sử dụng các thông tin về khách hàng mà mình biết được
trong khi hành nghề để uy hiếp khách hàng đó nhằm chiếm đoạt tài sản của họ thì phải chịu
trách nhiệm về “tội cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa

đổi, bổ sung năm 2009).
15
Ví dụ: Luật sư H biết được ông G có tài sản đó là một tài khoản Ngân hàng mà là tài sản
chung của vợ chồng (ông G và bà K) nhưng khi bà K mất đi các con không hề biết, ông G đã sử
dụng số tiền đó mua cho bà L một ngôi nhà trong một vụ việc mà ông G có đến Văn phòng luật
sư Công Minh tư vấn. Sau đó, được biết ngôi nhà đó sắp thuộc diện Quy hoạch và được đền bù số
tiền rất lớn. Luật sư H đã uy hiếp tinh thần ông G và dọa sẽ cho các con ông G biết về số tài sản
đó nếu ông G không đưa cho luật sư H một khoản tiền xứng đáng. Như vậy, luật sư H sẽ phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự 1999
hiện hành.
3. Một số đề xuất, kiến nghị về giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động
tư vấn pháp luật dân sự
Thứ nhất, đối với việc luật sư biết được khách hàng của mình đã có hành vi phạm tội, đảm
bảo quy tắc đặc thù của nghề luật sư là “giữ bí mật thông tin về khách hàng”, cần quy định luật
sư chỉ phải tố giác nếu khách hàng của luật sư là người phạm tội về an ninh quốc gia hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, đối với Liên đoàn luật sư Việt Nam, cần có hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện quy
tắc “giữ bí mật thông tin” nói riêng và toàn bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật
sư Việt Nam nói chung để dễ dàng áp dụng thống nhất. (Hiện nay, một số nước xây dựng hướng
dẫn áp dụng quy tắc ứng xử của luật sư ngay sau mỗi quy tắc[18], chẳng hạn Quy tắc mẫu về
ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Hoa Kỳ, Quy tắc ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Canada,…).
Riêng đối với quy tắc “Giữ bí mật thông tin”, cần quy định rõ trường hợp khách hàng đồng ý cho
luật sư tiết lộ thông tin thì phải thể hiện sự đồng ý đó bằng văn bản để phù hợp với quy định
pháp luật hiện hành. Ngoài ra, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng cần nhanh chóng hoàn chỉnh
và cho ban hành Quy định về xử lý kỷ luật đối với Luật sư trong trường hợp luật sư vi phạm Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, trong đó có sự vi phạm quy tắc “giữ bí mật thông tin”.
Thứ ba, đối với mỗi luật sư, cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất cao quý
của luật sư, tuân thủ nghĩa vụ và quy tắc “giữ bí mật thông tin về khách hàng”. Đối với các
thông tin của khách hàng, luật sư cần bảo quản thận trọng, có các biện pháp kỹ thuật bảo mật
đối với thông tin khách hàng, thực hiện lưu trữ nghiêm túc. Để tránh rủi ro và loại trừ trách

nhiệm cho mình, tốt hơn hết luật sư nên có thỏa thuận cụ thể với khách hàng về việc giữ bí mật
16
thông tin; trong trường hợp muốn tiết lộ thông tin nào đó về khách hàng của mình, luật sư cần
phải xin phép khách hàng và phải được khách hàng đồng ý bằng văn bản./.
C/ KẾT LUẬN
Mỗi luật sư phải lấy Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp làm khuôn mẫu cho sự tu
dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự tôn
vinh của xã hội. Và đảm bảo tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật thông tin của khách hàng trong tư
vấn pháp luật dân sự có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi của khách hàng và khách hàng
mới tin tưởng, tiếp tục quay lại với mình. “Giữ bí mật khách hàng là một quy tắc đạo đức hành
nghề của luật sư nhưng mỗi luật sư đều phải có trách nhiệm của một công dân là bảo vệ pháp
luật, bảo vệ công lý.” (Luật sư Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Luật sư TP Hà Nội)
3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Luật Luật sư năm 2006
2. Bộ luật Dân sự năm 2005
3. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
4. Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
5. Pháp lệnh Luật sư năm 2001
6. Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987
7. Nghị định60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp
8. Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
“Quy tắc mẫu đạo đức nghề nghiệp luật sư”.
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
1. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam
3 />17
2. Học viện Tư pháp, Nguyễn Hữu Ước, Nguyễn Văn Điệp (chủ biên), Tập bài giảng Luật sư
và nghề Luật sư, 2012

3. Học viện Tư pháp, Nguyễn Thanh Bình, Tập bài giảng Chuyên đề và kỹ năng chung hành
nghề Luật sư, 2010
4. Học viện Tư pháp, Phan Hữu Thư (chủ biên), Sổ tay Luật sư, 2004, Nxb. Công an nhân
dân.
III. CÁC WEBSITE
1. />2.
3.
18

×