Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học sinh lớp 1 tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Phú, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.19 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Mục lục

1

1. Mở đầu:

2

1.1. Lí do chọn đề tài.

2

1.2. Mục đích nghiên cứu.

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.



4
4

2. 2. Thực trạng dạy và học trước khi áp dụng

5

2.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học
sinh lớp 1.

6

SKKN.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

17

3. Kết luận và kiến nghị:

18

4. Tài liệu tham khảo.

21

1



1. Mở đầu:
1.1- Lí do chọn đề tài
Ở cấp tiểu học, mơn học nào cũng có một vị trí quan trọng riêng của
nó. Song, đặc biệt chữ viết được coi như một phần máu thịt không thể thiếu
của môn Tiếng Việt. Chữ viết cịn mang đặc trưng tính cách của con người.
Người ta nhìn chữ để biết ý nghĩ, trơng chữ để đốn tính cách, tình cảm của
con người, như câu nói của người xưa “Nét chữ – nết người”. Do vậy, ở cấp
tiểu học, chăm lo cái chữ là chăm lo cái đức, chăm lo tính cách, nhân cách của
học sinh.
Việc bổ sung những kiến thức ở bậc Tiểu học là vấn đề hết sức cần
thiết, nó khơng những là nền tảng giúp học sinh hồn thành chương trình
trung học đến chương trình phổ thổng và các cấp bậc khác mà thơng qua đó
nó cịn cũng cố kiến thức ở bậc học nhằm nâng cao trình độ và bổ sung cho
các em những kiến thức hỏng, giúp các em hiểu biết về thế giới bên ngồi,
hịa nhập cùng thiên nhiên và hịa nhập vào cơng việc học tập cùng các bạn.
Điều đó khiến tơi ln trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh,
giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp 1 bởi lớp 1là nền
tảng cho sự phát triển của học sinh sau này, với lớp 1 điều quan trọng nhất là
đọc, viết có đọc, viết được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và
lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn khác. Dạy chữ chính là dạy
người và vấn đề ở đây là làm thế nào tổ chức cách dạy, phương pháp dạy học
như thế nào hữu hiệu nhất nhằm giảm bớt áp lực cho cả giáo viên và học sinh,
hình thành cho học sinh thói quen tự giác, tích cực học tập, tạo cho các em
cảm giác hứng thú, yêu thích trong buổi học.
Học chữ chính là cơng việc đầu tiên khi các em đến trường. Tập viết,
chính tả là một trong các phân mơn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học ,
nhất là đối với các em lớp 1. Học vần, tập đọc giúp cho học sinh đọc thông
viết thạo. Viết đúng, đẹp, nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài
học của tất cả các môn học tốt hơn. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan
tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp cơng, góp sức để cải tiến kiểu

chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết. Tuy vậy, nhiều học
sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm, điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ tới các
mơn học khác. Ngồi ra Tập viết, chính tả cịn góp phần quan trọng vào việc
rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: Tính cẩn thận bền
bỉ, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mỹ bởi người xưa nói: “Nét chữ, nết người”.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với ý thức, lương tâm và trách nhiệm
nghề nghiệp của giáo viên, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở . Trong
giảng dạy, tơi đã khơng ngừng tích lũy kinh nghiệm về chữ viết để sớm giúp
các em viết chữ đẹp, ln tìm ra phương pháp dạy học thích hợp viết chữ đẹp.
Đối với học sinh lớp Một về viết chính tả, chủ yếu là hình thức chính tả
nhìn - viết, bên cạnh đó ở giai đoạn cuối lớp 1 cũng có đan xen kiểu bài chính
tả nghe - viết. Kiểu bài này vừa nâng cao yêu cầu viết chính tả vừa nhằm
chuẩn bị cho các em học chính tả ở lớp 2. Tuy vậy dù ở kiểu bài nào thì chính
tả ở lớp 1 cũng phải đảm bảo các yêu cầu:
2


- Luyện viết đúng chính tả, đặc biệt viết đúng các vần khó, do đó khi
chọn văn bản để viết chính tả các tác giả đã chú ý đến vần khó có trong bài.
- Từ các bài tập và bài chính tả, rút ra được ba quy tắc chính tả (quy tắc
viết g/gh, ng/ngh, c/k).
- Tập trình bày một bài chính tả phù hợp với hình thức văn bản dùng để
nhìn - viết hay nghe - viết.
1.2- Mục đích nghiên cứu
Bản thân nghiên cứu đề tài '' Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học
sinh lớp 1 tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Phú, huyện Đơng
Sơn, tỉnh Thanh Hóa'' nhằm mục đích:
Giúp giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học nói chung tìm ra
phương pháp rèn chữ viết tốt nhất, hay nhất nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Giúp giáo viên có trình độ, năng lực sư phạm, năng lực tổ chức các hoạt

động học tập cho học sinh nhằm tích cực hố hoạt động của người học, có đủ
vốn kiến thức cần thiết cho việc rèn chữ.
Ngồi ra, cịn giúp giáo viên tích cực hố hoạt động của mình: Giao việc
cho học sinh; kiểm tra học sinh; tổ chức báo cáo kết quả làm việc; tổ chức
đánh giá.
Thông qua việc nghiên cứu để có biện pháp cải tiến phương pháp giảng
day, khắc phục những tồn tại về chữ viết cho học sinh nhằm giúp các em viết
đúng, viết đẹp.
Giáo dục ý thức học tập tốt, u thích mơn học, giáo dục tính tỉ mỉ, cẩn
thận trong viết chữ cũng như trong làm việc.
1.3- Đối tượng nghiên cứu
Qua thực tế giảng dạy lớp 1 nhiều năm liên tục, tôi nghiên cứu với đối tượng
học sinh lớp 1A trường TH&THCS Đông Phú.
1.4- Phương pháp nghiên cứu
1.4.1- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Tôi đã tìm hiểu, thu thập thơng tin ở một số tài liệu như: Mẫu chữ tập
viết trong chương trình giảng dạy( chữ viết thường); tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên chu kỳ III( 2003-2007) tập II ; Vở tập viết tập 1,2 lớp 1,2( Nhà
xuất bản giáo dục); đọc các tài liệu, sách báo, tạp chí giáo dục… có liên quan
đến nội dung đề tài, đọc sách giáo khoa, sách giáo viên và các loại sách tham
khảo
1.4.2- Phương pháp nghiên cứu khảo sát thực tế.
Tôi sử dụng khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh lớp tôi chủ nhiệm
( Lớp 1A ) trường TH&THCS Đông Phú.
Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung luyện kĩ năng viết
cho học sinh
1.4.3 - Phương pháp điều tra.
Tôi đã phỏng vấn đồng chí Lại Thị Hoa - Giáo viên Chủ nhiệm lớp 1B
cùng trường; Đồng chí Trần Thị Hồng - Giáo viên cùng trường và đã từng đạt


3


giải Hội thi Giáo viên viết chữ đẹp các cấp, cùng một số em học sinh lớp 1
trường TH&THCS Đông Phú.
1.4.4- Phương pháp thực nghiệm.
Sử dụng thực nghiệm 2 bài: Tiết 3: lễ, cọ, bờ, hổ. Tiết 8: xưa kia, mùa
dưa, gà mái.
1.4.5- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1- Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1-Tầm quan trọng của chữ viết.
Chữ viết là sáng tạo kỳ diệu của con người. Sự xuất hiện của chữ viết
đánh dấu một giai đoạn phát triển về chất của ngôn ngữ. Chữ viết và dạy chữ
viết được mọi người quan tâm. việc thực hiện rèn kỹ năng viết chữ cho học
sinh tiểu học đã được nhiều thế hệ thầy, cô giáo quan tâm, trăn trở, góp nhiều
cơng sức cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy chữ viết. Tuy
vậy vẫn cịn có những học sinh viết sai viết xấu và viết chậm. Đều đó ảnh
hưởng khơng nhỏ đến chất lượng học tập Tiếng Việt nói riêng, học các mơn
khác nói chung.

Học sinh lớp 1, ngay từ những ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu
học còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè việc giúp các em làm quen với chữ viết thật
là khó khăn, tay cầm bút cịn vụng về, Sau mỗi tiết học tập viết, tôi cảm
thấy đối với học sinh ở độ tuổi lớp 1 nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các
em vừa viết đúng, viết đẹp ngay là một điều khó có thể thực hiện được.
Do vậỵ, đối với giáo viên cần phải có sự dạy dỗ cơng phu, nhiệt tình, tập
trung xây dựng biện pháp rèn chữ viết cho phù hợp với lứa tuổi, để các
em tiếp thu được một cách vững chắc, chúng ta cần được sự kết hợp với
gia đình để được sự kèm cặp sát sao của phụ huynh học sinh, với ý chí

khơng ngừng cố gắng, chăm rèn chữ viết của học sinh . Vậy để việc rèn
chữ viết đẹp của từng học sinh, của tập thể lớp 1 có hiệu quả cao, trước
tiên cần xây dựng được nề nếp và kỹ thuật viết chữ đúng đó là cơ sở để
viết chữ đẹp và cũng chính là yếu tố có tính quyết định việc rèn chữ viết
đẹp của các em trong suốt quá trình học tập.
2.1.2- Vì sao phải rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ?
Đây là một câu hỏi đặt ra cho mỗi giáo viên giảng dạy và nhất là đối
với giáo viên dạy lớp 1. Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy rằng đối với
học sinh lớp 1 nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng, viết đẹp ngay là
một điều khó có thể thực hiện được. Do vậy đối với từng lớp giáo viên cần
lựa chọn mục tiêu và trọng tâm của từng môn học phù hợp với lứa tuổi của
học sinh để học sinh tiếp thu bài một cách vững chắc. Tôi đã xác định muốn
viết chữ đẹp thì việc cần làm đầu tiên ở lớp 1 là rèn cho các em nền nếp và kĩ
thuật viết chữ đúng thì mới có cơ sở để viết chữ đẹp cho suốt quá trình học
tập của học sinh.

4


2.2- Thực trạng dạy và học trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm:
Tơi nhận thấy dạy tập viết, chính tả ở lớp 1 là nền móng của bậc tiểu
học. Dạy Tiếng Việt lớp 1 có nhiệm vụ rất quan trọng; là trao cho các em cái
chìa khóa để mở cánh cửa tri thức; để các em biết đọc, biết viết và vận dụng
chữ viết khi học tập giao tiếp. Chữ viết là công cụ để các em sử dụng suốt đời.
Đọc thơng viết thạo gắn bó mật thiết với nhau khơng thể tách rời.
Nhận thức đươc tầm quan trọng đó,tơi ln trăn trở tìm cách để làm sao
các em nắm được kiến thức đúng để viết chữ đúng mẫu, đúng qui trình, viết
nhanh. Làm thế nào tạo cho các em có tính cẩn thận, tính kỉ luật. Làm sao cho
việc viết chữ của các em trở thành kỹ năng, kỹ xảo và thành thói quen khi

viết. Nên tơi có tham luận về “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học sinh
lớp 1”
Nguyên nhân từ đâu dẫn đến viết chậm, viết chưa đúng của học sinh
tiểu học ở phân mơn tập viết, Chính tả nói chung, phần chính tả nghe - viết
của học sinh lớp 1 nói riêng.
* Nguyên nhân khách quan:
- Phía gia đình: Do bố mẹ một số học sinh trình độ văn hóa cịn thấp,
mãi đi làm ăn xa nên việc liên hệ trực tiếp giữa gia đình học sinh và giáo viên
để nắm bắt việc học tập của các em chưa được thường xuyên kịp thời.
Một số phụ huynh chỉ chú trọng đến việc con đọc chữ thơng thạo, làm
tốn nhanh,…mà qn mất phần viết chữ của con em mình, phó thác việc đó
cho giáo viên.
- Phía học sinh: Một số em (viết chậm, viết chưa đúng chính tả) thuộc
diện học sinh đọc chậm, tiếp thu chậm.
Tính tự giác trong ý thức học tập của một số em (viết chậm, chưa đúng)
còn hạn chế, đặc biệt là trong việc rèn luyện kĩ năng viết.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Giáo viên: Một số giáo viên chưa vận dụng một cách nhuần nhuyễn
các phương pháp trong dạy viết ở lớp 1 chính vậy mà trong q trình dạy chủ
yếu dạy theo cảm tính, chưa thật sự phân tích cẩn thận giữa các chữ viết đúng
với các chữ viết sai dẫn đến tính trạng một số học sinh viết chậm, viết sai mà
vẫn khơng biết mình sai chỗ nào. Bên cạnh đó chưa có trách nhiệm trong việc
tìm hiểu nguyên nhân học sinh viết chậm, viết sai là do đâu? Một số giáo viên
chưa chú trọng rèn tốc độ viết chữ, mà chỉ chú trọng đến viết đẹp cho học
sinh mà thôi.
- Học sinh: Do học sinh nhận biết và đọc chữ chậm, mới nhận mặt chữ
từ phần đọc vần sang phần đọc tổng hợp (tập đọc) các bài thơ ngắn, đoạn văn,
bài văn ngắn …cho nên việc viết bài của các em chỉ quen với nhìn chép lại.
Chính vì vậy mà khi thực hiện kiểu bài chính tả nghe - viết các em thường
viết rất chậm (một phần do các em chưa quen, một phần do từ tiếng ghi ra

thành chữ ở các em còn hạn chế (do mới làm quen).

5


Phần khác do các em chưa thật sự nắm vững các kĩ thuật viết chữ (viết
liền mạch, kĩ thuật “rê bút”, kĩ thuật “lia bút” nên khi viết các em không thể
hiện được nhanh đúng tốc độ quy định.
2.3- Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học sinh lớp 1
2.3.1- Giúp học sinh hiểu nghĩa từ – ghi nhớ từ.
Là giáo viên giảng dạy lớp 1, tôi luôn chú trọng yếu tố này. ngay từ các
bài học vần, tơi ln giải nghĩa từ khố từ áp dụng trong các bài học vần qua
tranh ảnh mơ hình, lời giải thích giúp học sinh hiểu nghĩa từ, hiểu câu, đồng
thời tôi đưa từ, câu văn vào văn cảnh cụ thể để học sinh dễ dàng hiểu từ, hiểu
câu và hiểu sâu hơn ( Phần luyện nói, đoạn ứng dụng ), từ đó có cách đọc
đúng, viết đúng.
Bài viết của học sinh phần lớn là viết lại một phần nội dung âm, vần, từ
khóa, bài tập đọc đã học. Vì vậy, để học sinh viết tốt các bài viết thì ngay các
tiết học âm, vần, tập đọc, giáo viên cần cho học sinh hiểu nghĩa từ trong bài
đọc, hiểu câu, hiểu nội dung cơ bản của bài đọc. Trước khi viết bài, giáo viên
gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài viết. Như vậy, khi viết, học
sinh bắt đầu đã có vốn từ, nắm được nội dung bài, học sinh sẽ tự đọc – phân
tích – viết đúng, đặc biệt là những tiếng, từ viết khó, hạn chế sự mắc lỗi.
2.3.2- Dạy học sinh viết – trình bày bài viết:
Thường học sinh luyện viết bảng con sau khi học xong âm, vần, từ khóa
( tiết 1 của phần học âm, vần) và học sinh luyện viết vào vở tập viết sau khi
học sinh luyện đọc câu ứng dụng ( tiết 2 của phần học âm, vần). Từ tuần 25
học sinh lớp 1 bắt đầu viết chính tả. giai đoạn này học sinh vừa luyện chữ cỡ
vừa và bắt đầu học phân mơn chính tả. Học sinh thường lúng túng khi viết
chính tả như:

+ Khơng biết cách trình bày bài viết.
+ Chưa nắm được độ cao từng con chữ.
Vậy, chúng ta cần phải làm gì giúp các em khỏi bị lúng túng khi viết
chính tả, đặc biệt ở những bài đầu ở của phân mơn chính tả ?
Với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 1, các em “nói đấy”,
“nghe đấy” rồi cũng “ quên ngay đấy”. Nếu như các em không được làm
quen, được nhắc nhở thường xun thì các em sẽ khơng biết làm, nếu có làm
thì dễ bị sai, bị nhầm lẫn và không tránh khỏi lúng túng. Với lớp tôi, tôi đã
thực hiện như sau:

6


* Dạy học sinh viết chữ cái:
Trong giờ dạy Tiếng Việt giáo viên cần luôn luôn sử dụng bộ mẫu chữ cái
trong bộ chữ Tiếng việt làm đồ dùng trực quan cho học sinh quan sát. Phần
viết bảng của giáo viên phải luôn luôn chuẩn mực: cách đặt dấu thanh ,
khoảng cách các tiếng trong từ , viết liền nét, cách trình bày bảng giáo viên
ln cần phải chú trọng về tính cẩn thận, thẩm mỹ vì điều đó ảnh hưởng rất
lớn đến học sinh.
Ngay từ đầu năm học phải rèn cho các em ngồi học đúng tư thế, thoải mái,
tránh gị bó . Hướng dẫn kĩ càng và cho học sinh nắm chắc cách cầm bút, kĩ
thuật rê bút (Là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược laị với nét chữ vừa
viết. Trong trường hợp này cần viết nhẹ tay, nếu viết nặng tay nét chữ sẽ viết
nhòe ra ), lia bút ( Kĩ thuật lia bút là thao tác đứa bút trên không , được dùng
khi viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau để đảm bảo tốc độ trong
quá trình viết , nét bút vẫn thể hiện liên tục nhưng không chạm vào giấy hoặc
bảng) Hướng dẫn học sinh nắm chắc quy ước , kí hiệu của giáo viên trong
việc xác định tọa độ dịng kẻ ơ li để khi dạy học giáo viên sẽ dễ dạy và học
sinh dễ tiếp thu . Với bản thân tôi quy định như sau; Với vở 4 ơ li một đơn vị

ơ li lớn có 5 dịng kẻ, vở tập viết có 4 dịng kẻ. Dòng kẻ dưới cùng là dòng kẻ
thứ nhất, các dòng kẻ khác là 2,3,4,5 theo thứ tự tiếp theo. Tương tự cũng quy
định với đường kẻ dọc như vậy, đường kẻ thứ nhất là đường kẻ đậm , các
đường kẻ dọc tương tự được tính như vậy. Ở giữa 2 dịng kể ( đường kẻ) là 1
ơ li được tính theo chiều cao ( chiều rộng) và đơn vị gọi là ô li nhỏ. Cách xác
định tọa độ phải dựa vào đường kẻ dọc , dịng kẻ ngang, các ơ li làm định
hướng. Đây là một trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quá trình
được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà ngòi bút đi qua. Qua quy ước này
giáo viên phân tích cách viết viết các con chữ, hướng dẫn các em xác định
điểm đặt bút( điểm bắt đầu), xác định điểm kết thúc, độ cao, rộng của các con
chữ
Ví dụ: Hướng dẫn viết nét khuyết trên được hướng dẫn như sau: Điểm đặt
bút( điểm bắt đầu) từ dòng kẻ ngang thứ hai, trước đường kẻ dọc thứ nhất
nửa ô li nhỏ, đưa bút lên dịng kẻ ngang thứ ba( ngay tại vị trí dòng kẻ ngang
thứ ba cắt với đường kẻ dọc thứ nhất ) đi qua rộng 1 ô li lên đến dòng kẻ
ngang thứ ba cắt với đường kẻ dọc thứ nhất và kéo xuống theo đường kẻ dọc
thứ nhất đến điểm kết thúc.
Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Nét khuyết trên cao mấy ô li và rộng mấy
ô?( cao 5 ô và rộng 1 ô) Lưu ý: Cần lưu ý ở đây là tất cả các con chữ có nét
móc hoặc nét xiên chiều rộng của nó khơng tính vào nhằm để học sinh xác
định được chiều rộng ô li một cách dễ dàng.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mỗi quan hệ về cách viết các chữ, sau khi
học xong các âm(chữ cái) giáo viên cần phải phân nhóm chung để luyện tập
cho học sinh
7


* Giới thiệu chữ viết thường cỡ nhỏ:
+ Sau khi học sinh đã được làm quen, thực hành viết các chữ cái, học
sinh đã nắm được cấu tạo con chữ, độ cao, độ rộng của từng con chữ cũng

như kĩ thuật viết từng con chữ cỡ vừa. Khi chuyển sang phần vần, từ tuần 15,
trong những giờ luyện tiếng việt, tôi “giới thiệu” với học sinh các con chữ
trong vần hơm đó ơn luyện theo cỡ chữ nhỏ theo hình thức “đưa chữ mẫu
viết theo cỡ chữ nhỏ để giới thiệu” với mục đích chủ yếu để học sinh có sự
nhận biết ban đầu về độ cao, độ rộng của từng con chữ theo cỡ chữ nhỏ. VD :
Luyện đọc bài 70: ôt- ơt ( tiếng việt 1-tập 1 ). trong bài này tôi giới thiệu cho
học sinh con chữ “ ơ, ơ ”, viết theo cỡ chữ nhỏ có độ cao 1 đơn vị, con chữ
“t” cao 1,5 đơn vị. Trong một số tiết luyện tiếng việt sau, khi có vần chứa các
con chữ đó theo cỡ chữ nhỏ thì học sinh sẽ biết ngay. Làm như vậy, học sinh
vừa nắm chắc cấu tạo vần, vừa được làm quen với chữ viết thường cỡ nhỏ
trong vần đó.
+ Lưu ý : Giáo viên thực hành phần này cần lưu ý giúp học sinh phân
biệt rõ chữ thường cỡ vừa với chữ thường cỡ nhỏ để tránh nhầm lẫn khi viết
bài học vần.
Để thực hiện tốt việc này đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo trong
cách giới thiệu và điều quan trọng hơn giáo viên phải nắm chắc mẫu chữ viết
thường và viết hoa.
Mẫu chữ viết thường và chữ hoa (theo cỡ chữ nhỏ):
+ Nếu kể chiều cao của con chữ thấp nhất không kể các dấu phụ trên các
con chữ ấy ( như các chữ a, ă, â, c, e, ê…) là đơn vị chiều cao của chữ và lấy
dịng kẻ dưới cùng của khng kẻ vở làm dịng chuẩn thì các chữ viết thường
có các độ cao là vị trí trên khng kẻ như sau:
- 1 đơn vị : a, ă, â, c, e, ê, m, o, ơ, u, ư, v, x.
- 1,25 đơn vị : r, s.
- 1,5 đơn vị : t.
(các chữ 1 đơn vị 1,25 đơn vị và 1,5 đơn vị trên đều viết trên dòng chuẩn )
- 2 đơn vị: d, đ (với 2 đơn vị trên dòng chuẩn)
- p, q (với 1 đơn vị trên và 1 đơn vị dưới dòng chuẩn)
- 2,5 đơn vị : b, h, k, l ( với 2,5 đơn vị trên dòng chuẩn)
8



- g, y (với 1 đơn vị trên và 1,5 đơn vị dưới dịng chuẩn)
+ Các chữ hoa đều có độ cao 2,5 đơn vị trên dòng chuẩn trừ g và y có
độ cao 4 đơn vị, với 2,5 đơn vị ở trên và 1,5 đơn vị ở dưới dòng chuẩn.
Từ bài 96 phần học vần, trong các giờ luyện tiếng việt ( buổi chiều)
giáo viên có thể giúp học sinh so sánh độ cao, độ rộng của chữ viết thường cỡ
nhỏ cũng như kỹ thuật viết chữ. Nhưng giao viên chú ý khơng nên đi sâu phân
tích - nhận diện mà ở đây tơi chỉ muốn với hình thức giáo viên giới thiệu cho
học sinh là chính, tránh làm mất nhiều thời gian của tiết học.
Như vậy, qua các bước giới thiệu đó, phần nào học sinh đã biết về cỡ
chữ nhỏ để rồi khi chuyển sang viết chính tả học sinh khơng cịn bỡ ngỡ, lúng
túng về độ cao các con chữ cũng như kỹ thuật viết.
* Hướng dẫn viết chính tả :
Khi chúng ta làm tốt việc giới thiệu chữ viết thường cỡ nhỏ kết hợp với
sự bao quát, sự chỉ bảo nhiệt tình của giáo viên trong giờ chính tả, nhìn chung
học sinh viết chính tả sẽ không bị lúng túng về cách viết chữ. Nhưng cũng
không thể tránh khỏi một số trường hợp học sinh viết không đúng cỡ chữ, chữ
chưa đều, chưa đẹp. với những trường hợp này giáo viên cần phải hướng dẫn
tỉ mỉ để các em viết đúng mẫu, có biện pháp để giúp các em khắc phục nhược
điểm. Với những học sinh viết chưa đúng, tôi đã áp dụng việc viết mẫu trong
một số bài chính tả của những tuần đầu ở mỗi bài chính tả tơi viết mẫu cho
các em một câu văn hoặc một dòng thơ. Viết thật ngay ngắn và đẹp cho các
em quan sát. Đến khi viết bài tơi u cầu các em nhìn theo mẫu rồi viết (lưu ý
viết thật tròn trĩnh) kể cả trong bài tập chép hay nghe – viết tôi đều làm như
vậy, tăng cường viết mẫu hướng dẫn vào buổi luyện tiếng việt hay tiết tự học
chỉ sau một tuần làm như vậy tôi thấy chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt.
đặc điểm của học sinh tiểu học là rất hay bắt chước và bắt chước cũng rất
nhanh, hơn nữa ở lớp 1 các bài chính tả hầu như là tập chép nên tăng cường
việc tri giác chữ viết bằng thị giác cho học sinh thì việc viết mẫu của giáo

viên không những giúp cho các em viết đẹp mà cịn giảm đáng kể tình trạng
mắc lỗi.
Để làm tốt việc này đồi hỏi mỗi giáo viên phải có ý thức luyện chữ và
khơng phải chỉ ở giờ chính tả, tập viết mà tất cả các giờ học khác đòi hỏi chữ
viết trên bảng của giáo viên thật sự chuẩn mực.
* Hướng dẫn trình bày bài chính tả
Việc trình bày bài chính tả của học sinh ở những bài đầu khó khăn.

9


Học sinh khơng biết cách trình bày như thế nào cho đúng chứ chưa nói
gì trình bày cho đẹp, từ cách ghi tên bài viết rồi đến trình bày nội dung bài
viết.
Chúng ta đã biết, học sinh tiểu học, đặc biệt là đối với học sinh lớp 1
các em luôn ln bắt chước và thậm chí bắt chước một cách máy móc do các
em khơng hiểu bản chất của vấn đề, ví dụ về hiện tượng học sinh mắc lỗi cách
trình bày xuống dịng như tơi đã trình bày ở phần thực trạng. Vậy làm thế nào
để khắc phục tình trạng này? Ở đây tơi xin được trình bày cách làm mà tơi đã
thực hiện và thấy có hiệu quả như sau :
C1: Cách ghi thứ, ngày - tháng - ghi tên môn – ghi tên bài viết
Tôi luôn luôn chú ý đến cách trinh bày bảng của mình đặc biệt trong
giờ chính tả. Khi hướng dẫn học sinh viết vở, tôi đưa ra quy định chung cho
học sinh của lớp mình.
+ Cách ghi thứ - ngày - tháng:
chữ “Thứ” cách lề vở 1 ô
+ Cách ghi tên phân môn: “Chính tả” cách lề 4 ơ
+ Cách ghi tên bài:
Cách ghi tên bài khơng phải là đến khi viết chính tả giáo viên mới giới
thiệu cho học sinh. Với tôi, ngay trong các bài học vần, trong các môn học

khác khi ghi tên bài tơi ln chú ý trình bày làm sao cho đúng, cho khoa học
và đẹp mắt tức là viết đúng và trình bày cân đối trên bảng.
Giáo viên phải cho học sinh thấy được cái đẹp ở đây khơng những chỉ
về chữ viết mà cịn cả về cách trình bày. Từ đó hình thành cho học sinh cách
trình bày bài một cách khoa học và đẹp mắt. Cách trình bày đó được tơi nhắc
nhở xen kẽ trong các bài học của môn học khác. Đến khi viết chính tả, tơi chỉ
cần lưu ý học sinh là các em có thể tự ước lượng và trình bày vào vở của mình
(có thể chưa thật cân đối) và dần dần trở thành thói quen, được thực hành
nhiều lần các em sẽ có kỹ năng trình bày bài đúng, đẹp và khoa học. Đối với
những học sinh viết chưa hoàn thành, tôi sẽ chỉ và hướng dẫn các em ở một số
bài đầu tiên về cách viết, viết cách lề khoảng mấy ơ. Sau đó u cầu học sinh
tự ước lượng, tự thực hành.
C2: Cách trình bày đoạn văn, đoạn thơ:
Nếu cứ để đến khi viết chính tả giáo viên hướng dẫn học sinh cách trình
bày một đoạn văn hay một khổ thơ, bài thơ thì thật là khó khăn trong một tiết
10


học mà hiệu quả lại không cao, chắc chắn sẽ có nhiều em trình bày sai, đặc
biệt là viết đoạn văn hay khổ thơ lục bát.
Vì vậy, trong các bài học vần, khi đưa ra đoạn văn, đoạn thơ ( khổ thơ )
ứng dụng tơi ln chú ý cách trình bày đoạn ứng dụng đó trên bảng phụ hoặc
bảng lớp giới thiệu cho học sinh hiểu cách trình bày từng bài đó.
Ở đây, giáo viên giúp học sinh hiểu:
+ Tất cả các chữ đầu mỗi dòng thơ phải viết hoa con chữ đầu tiên (chữ
viết), in hoa con chữ đầu tiên (chữ in).
+ Chữ đầu các dòng thơ phải thẳng đều nhau.
+ Cuối đoạn thơ phải có dấu chấm.
Hơn nữa, ở đây giáo viên còn phải giúp học sinh nhận thấy số chữ ở
từng dịng thơ và cách trình bày khác với bài trước.

Dòng 6 chữ phải lùi vào so với lề vở
Dòng 8 chữ phải lui ra khoảng 1 ô so với dòng 6
Đoạn văn : giáo viên phải giúp học sinh thấy được: chữ đầu đoạn văn,
chữ đầu câu phải viết hoa con chữ đầu tiên và viết lùi vào một ơ so với lề.
cuối câu có sử dụng dấu câu “.”. Như vậy, ngay từ các bài học vần giáo viên
giới thiệu cho học sinh, cách trình bày cách viết hoa (viết hoa tên riêng …)
cách ghi dấu chấm, cách ghi dấu phẩy hay cả cách ghi dấu chấm hỏi có trong
bài.
Khi viết chính tả, tơi ln luôn nhắc nhở học sinh những điều lưu ý trên
trước khi viết bài. Khi sang viết chính tả bài đầu tiên học sinh viết đó là bài
''
trường em'', học sinh phải chép một câu ở đoạn một và một câu trong đoạn
hai của bài, học sinh khơng hiểu cách trình bày một bài viết có nhiều đoạn.
chính vì thế, ngay từ bài tập đọc, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định
rõ đoạn 1, đoạn 2 của bài tập đọc sau đó giáo viên cho học sinh nhắc rõ từng
đoạn như thế học sinh cũng phần nào hiểu về cách trình bày hết đoạn 1 sang
đoạn 2 ta phải xuống dịng, viết lùi vào 1 ơ và viết hoa con chữ đầu tiên.
2.3.3- Dạy theo nhóm đối tượng học sinh, kết hợp sử dụng một số
“mẹo luật” chính tả.
Là giáo viên Tiểu học vừa làm công tác chủ nhiệm, vừa trực tiếp giảng
dạy nên hiểu rất rõ về học sinh cũng như chất lượng chữ viết của học sinh lớp
mình. Để khắc phục những nhược điểm phát huy được mặt mạnh giáo viên
11


phải biết phân loại học sinh thành các nhóm theo các lỗi sai cơ bản học sinh
hay mắc để trong các giờ học, đặc biệt là giờ luyện Tiếng Việt, giáo viên thấy
học sinh lớp mình yếu về mặt nào thì chủ động rèn cho học sinh về mặt đó.
Giáo viên phải phân loại một cách rõ ràng: Em nào sai cách trình bày; Em nào
sai khi đọc và viết l - n, r – gi – d, ch – tr ; sai các nét; sai cách viết dấu

thanh… thì phân nhóm riêng để có những bài tập phù hợp.
Đối với mơn chính tả, nhược điểm chính của học sinh lớp 1 là viết sai
các lỗi thông thường như: s-x, ch-tr, dấu ?, ~…, sai khoảng cách các con chữ,
nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh…vì vậy giáo viên cần lưu ý:
+ Ngay từ những bài học vần đầu tiên cho đến khi học sinh viết chính
tả, giáo viên cần luôn luôn chú ý đến từng nét chữ của học sinh. giáo viên viết
mẫu hướng dẫn học sinh, chữ viết của giáo viên rõ ràng chính xác thế nhưng
không phải em nào cũng viết được đúng, được đẹp như giáo viên hướng dẫn
có em viết đúng chữ nhưng sai nét như: Nét chữ khơng bám dịng kẻ, nét chữ
viết nghiêng không đều, sai độ rộng… giáo viên phải sửa từng nét chữ cho
học sinh, dùng phấn, bút khác màu mực (màu đỏ) sửa cho các em, giúp các
em có ý thức tự sửa sai trong các lần viết sau. đối với học sinh hồn thành tốt
giáo viên có thể cho học sinh tự nhận xét, sửa sai hoặc sửa sai khi giáo viên
chỉ rõ cái sai đó. Điều này giáo viên phải chú ý sửa sai cho các em từ các bài
tập viết phần học vần (gạch chân – sửa những nét học sinh hay mắc lỗi) trước
khi viết bài mới giáo viên cho học sinh viết lại những lỗi viết sai chính tả của
mình, giúp các em không bị mắc sai trong các lần sau. Khi viết chính tả giáo
viên có những nhận xét chung hoặc góp ý trực tiếp với học sinh để học sinh
thấy được những lỗi chính tả của mình cũng như cách sửa.
+ Trong những bài đầu viết chính tả, cịn nhiều học sinh hay mắc lỗi
trình bày. Với những trường hợp này, trong giờ luyện Tiếng Việt, giáo viên
cho học sinh viết một bài chính tả và giáo viên chú ý hướng dẫn cách trình
bày.
+ Với những học sinh hay mắc lỗi đọc – viết sai : l-n, r-gi-d, s-x …
muốn sửa lỗi đọc- viết sai l- n, r- gi- d, s-x …, giáo viên cần cho học sinh phát
âm nhiều lần rồi phân tích trước khi viết.
Ví dụ: Bài tập chép “Tặng cháu”.
Khi hướng dẫn học sinh viết : “chút ” tôi cho học sinh đọc ( phát âm )
đúng. sau đó u cầu học sinh phân tích : chút = ch+ ut + ( / ). Cuối cùng
mới yêu cầu học sinh viết : chút. với cách làm như vậy học sinh sẽ không bị

viết sai thành “trút” hay nhầm lẫn với chữ khác.

12


Để sửa lỗi chính tả này cho học sinh, giáo viên không chỉ thực hiên
như trên mà phải biết thực hiện phối kết hợp với các biện pháp sửa lỗi khác để
đạt hiệu quả tốt hơn.
+ Luôn coi trọng các bài tập mang tính “củng cố qui tắc chính tả” để
sửa các lỗi về âm – vần cho học sinh.
“Điền vần”, “Điền chữ” là những thao tác ôn lại cấu trúc của âm tiết. Khi
đã đánh vần thành thạo, kết hợp quan sát tranh vẽ minh hoạ cụ thể trong bài,
học sinh dễ dàng lựa chọn vần, chữ để điền đúng. Từ ngữ đi cùng hình ảnh
trực quan giúp các em ghi nhớ từ tốt hơn. Vì vậy, giáo viên phải biết khai thác
hợp lí, khoa học tranh vẽ trong SGK để giúp học sinh có kết quả học tập tốt
hơn. Khi làm xong bài tập, tôi luôn cho học sinh đọc lại (chú ý cách phát âm)
và cho học sinh phân tích tiếng, từ đó để học sinh nắm rõ cấu tạo của tiếng, từ
giúp học sinh khi viết sẽ không nhầm lẫn.
Giáo viên lưu ý: với những bài tập dạng này, lời giải đúng là từ chọn
phù hợp với tranh vẽ. nếu học sinh chọn nhầm thì sau khi xác định lời giải
đúng, giáo viên có thể nói thêm chữ chọn nhầm kia sẽ cho từ mang nghĩa gì.
- Quan tâm đến việc rèn cho học sinh kĩ năng nhớ và hiểu, vận dụng
được ba quy tắc viết chính tả ở lớp 1 (quy tắc viết g/gh, ng/ngh, c/k). Nếu
giáo viên không quan tâm giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả thì dễ lẫn
lộn một số chữ cái âm đầu sau đây:
Ví dụ:
g/gh
ghế gỗ, gồ ghề
(gế gỗ, gồ gề)
ng/ngh nghệ sĩ, nghỉ hè

(ngệ sĩ, ngỉ hè)
c/k
kể chuyện, kì cọ
(cể chuyện, cì cọ)
Ví dụ: Điền chữ ch hay tr :
thi …ạy

…anh bóng ( tv1 – tập 2 trang 59 )

Sau khi học sinh thực hành làm và chữa bài : thi chạy , tranh bóng.
giáo viên đưa ra kết luận: tranh bóng phải viết là tr, và nếu là ch ta sẽ có từ
chanh trong quả chanh, cây chanh. viết là tranh trong từ tranh bóng, bức
tranh, tranh giành.
Hay giáo viên vận dụng một số “mẹo luật” giúp học sinh ghi nhớ khi
viết chính tả để giúp học sinh viết đúng giữa ch và tr.
Thường viết là ch với những từ chỉ đồ vật, những từ chỉ quan hệ thân
thuộc trong gia đình.
Ví dụ: chăn, chiếu, chum, chai,…

13


cha, chú, chị, cháu,…
Hay trong chữ âm tiết có oa, oă, oe, thì âm tiết đó có thể âm đầu viết
ch.( không viết tr )
* Giúp các em phân biệt giữa l-n:
Trong những âm tiết có êm đệm thì viết là l chứ không viết là n
(trừ 2 tiếng nỗn, noa nhưng rất ít dùng). do đó, khi gặp chữ âm tiết có hai
hay ba chữ nguyên âm đi liền với o hay u đứng trước thì chữ phụ âm chỉ viết
l: loa, loăn, luân, loe, luyện,…

Những từ chỉ màu sắc viết là n và n chỉ lặp lại với chính nó khơng lặp
lại với bất cứ phụ âm nào khác.
Ví dụ: nợ nần, nao núng, no nê,…
Trong các bài tập có một âm tiết viết là l hay n yêu cầu điền tiếp âm đầu
của tiếng nữa thì chắc chắn nó sẽ lặp lại là l hay n.
Ví dụ:

lo …ắng

no …ê.

* Ngay từ các bài học vần và sau những bài tập chính tả g- gh, ng-ngh,
c-k, giáo viên cần cho học sinh thấy được:
+ Viết là gh, ngh, k khi đứng trước các nguyên âm i, e, ê.
+ Viết là g, ng, c khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ Viết là “qu” khi đứng trước các nguyên đôi: ua, âu, yê.
chỉ có riêng tiếng “cuốc” trong từ “con cuốc, cái cuốc” và tiếng “cuống”
thì viết là “c”.
2.3.4- Quan tâm đến việc nhận biết mặt chữ của học sinh:
- Giáo viên cần tăng cường kĩ năng đọc của học sinh bằng cách cho các
em luyện đọc nhiều, đọc thành thạo để nhận biết mặt chữ làm tiền đề cho việc
nhớ lại hình ảnh chữ để viết đúng.
- Cần phân biệt để học sinh nắm được trong tiếng Việt thường thì đọc
như thế nào thì viết như thế đó (trừ một số âm, tiếng, từ địa phương).
- Trước khi đọc cho học sinh viết, giáo viên treo bảng phụ đã ghi sẵn
nội dung cần viết cho học sinh đọc lại, để học sinh nhận biết mặt chữ, nét chữ,
cũng là để học sinh xem những tiếng nào khó viết trong nội dung cần viết.
Sau đó cho học sinh phân tích lại rồi luyện viết ra bảng con để giáo viên nhận
xét chỉnh sửa cho học sinh.
14



2.3.5- Rèn kĩ năng viết hai hình thức chính tả ở lớp 1 (chính tả nhìn
- viết và chính tả nghe - viết).
Ở lớp 1 đến tuần lễ thứ 25 các em mới bắt đầu thực hiện viết chính tả.
Tuy nhiên các bài chính tả ở lớp 1 hầu như là hình thức chính tả nhìn - viết và
có xen lẫn một số bài chính tả nghe - viết. Chính tả nghe - viết là tiền đề, là
cơ sở để các em viết thành thạo ở các lớp cao hơn.
Chính tả nhìn - viết là hình thức chính tả dễ nhất, học sinh vừa đọc lại
tiếng, từ vừa trực quan chuyển từ dạng âm thanh (tiếng, từ) sang dạng hình
ảnh (chữ viết).
Học sinh chỉ việc chép lại chữ viết mình vừa được đọc, được thấy (hình
ảnh) vào vở viết của mình.
Cịn đối với chính tả nghe - viết địi hỏi yêu cầu cao hơn. Tức là học
sinh vừa phải nghe âm thanh (các tiếng, từ) ở giáo viên phát ra, vừa phải nhớ
và chuyển đổi lại từ các tiếng, từ đó ra thành các chữ viết. Bởi thế nếu học
sinh chưa thật sự đọc thành thạo, chưa ghi nhớ hết các con chữ, cách ghép các
con chữ thì các em rất khó thực hiện được yêu cầu đặt ra.
Để học sinh vừa viết đúng chính tả lại vừa viết đúng theo tốc độ quy
định ở hình thức chính tả nghe - viết người giáo viên cần phải thực hiện được
các yêu cầu: - Quan tâm đến việc rèn, viết các chữ khó, chữ học sinh hay viết
sai (theo sự suy đoán của giáo viên, và qua việc kiểm tra bài viết của học sinh
hàng ngày). Giáo viên cần phân tích, chỉ rõ cho học sinh thấy được giữa chữ
viết đúng và chữ viết sai, chữ viết của các em sai ở chỗ nào? Và có thể cho
các em viết lại ngay để các em nhớ kĩ.
- Quan tâm đến việc rèn cho học sinh kĩ năng trình bày một bài chính
tả phù hợp với hình thức văn bản dùng để nhìn – viết hay nghe – viết (yếu tố
thẩm mĩ của việc trình bày một bài chính tả).
- Cần cho học sinh luyện viết theo hình thức nghe – viết nhiều để các
em tri giác từ âm thanh (tiếng, từ) sang hình ảnh (chữ) một cách thành thạo.

- Có các thủ thuật để nhận biết những học sinh nào đã viết xong, những
học sinh nào viết chưa xong để có biện pháp giúp đỡ cũng như hiểu được
nguyên nhân tại sao học sinh viết không kịp với các học sinh trong lớp.
2.3.6- Giọng đọc của giáo viên:
- Giọng đọc của giáo viên cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Nó
ảnh hưởng đến việc viết đúng tốc độ, viết đúng chính tả của học sinh. Bởi học
sinh có nghe hiểu được tiếng, từ giáo viên vừa đọc một cách chính xác thì các
em mới viết được đúng chính xác. Cịn nếu học sinh nghe tiếng từ giáo viên
đọc khơng chính xác dẫn đến các em phải chờ để nghe giáo viên đọc lại hoặc
các em viết luôn dẫn đến chữ viết của các em sai chính tả hay khơng đúng
theo tốc độ quy định.
- Trong phần viết chính tả, học sinh chủ yếu là nhìn chép, cịn nghe viết
rất ít. Bên cạnh đó sự nhớ của học sinh lớp một cịn hạn chế, các em khơng
thể tri giác được những câu dài chính vì vậy trước hết giáo viên phải đọc toàn
bài một lượt cho học sinh nghe, sau đó giáo viên đọc từng câu ngắn hay cụm
từ.
15


- Cách đọc : Chậm, rõ ràng từng câu ngắn hay cụm từ đọc 3 lượt.
* Đọc lượt đầu cho học sinh nghe.
* Đọc nhắc lại 2 lượt cho học sinh viết kịp.
2.3.7- Sự phối hợp nghe - viết của học sinh:
Học sinh mới làm quen với việc nghe - viết: cho nên khi đọc cho học
sinh viết giọng đọc của giáo viên là rất cần thiết cho học sinh khi nghe - viết.
Trước khi đọc cho học sinh viết giáo viên cần chọn chỗ đứng ở một vị trí nhất
định không đi tới đi lui trong khi học sinh viết, để tránh sự phân tán của các
em .
Giọng đọc của giáo viên phải chính xác, rõ ràng, kết hợp theo dõi tốc
độ viết của học để điều chỉnh cách đọc như: Đối với các em viết chậm (Đọc

chữ còn chậm - ở những chữ có nhiều con chữ ghép lại) thì giáo viên cần
đánh vần, đọc từng con chữ ghép lại cho học sinh viết hoặc viết tiếng đó lên
bảng để cho học sinh viết lại.
2.3.8- Quan tâm đến rèn kĩ năng, kĩ thuật viết chữ cho học sinh:
Để giúp học sinh viết bài đúng, đúng tốc độ và đẹp theo mẫu chữ của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo viên cần phải chú ý đến kĩ thuật nối các con
chữ cho học sinh. Trước khi viết giáo viên cần nhắc lại cho học sinh nhớ lại
các kĩ năng, kĩ thuật viết chữ.
Trong đó giáo viên quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh các kĩ thuật
viết chữ như: viết liền mạch (đây là một trong những yêu cầu cơ bản giúp cho
chữ viết được nhanh, đúng và đẹp); kĩ thuật “lia bút”; kĩ thuật “rê bút”. Cụ thể
như sau:
- Viết liền mạch: Đây là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc
của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau. Thực hiện được điều
này sẽ tạo cho chữ viết được mềm mại hơn và viết được nhanh hơn. Trong
quá trình hướng dẫn học sinh viết giáo viên cần quan tâm hướng dẫn kĩ thao
tác này.
- Kĩ thuật “lia bút”: Đây là thao tác mà trong quá trình viết nét bút
được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn ...) không được
chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng ...). Thao tác đưa bút trên không ấy gọi
là “lia bút”. Để đảm bảo viết được nhanh, viết liền mạch tạo cho nét chữ
được mềm mại thì kĩ thuật “lia bút” là kĩ thuật không thể thiếu. Khi viết mẫu
bản thân giáo viên cần thể hiện một cách thật cụ thể kĩ thuật này để các em
nắm vững và thực hiện một cách nhuần nhuyễn.
- Kĩ thuật “rê bút”: Đây là thao tác viết đè lên theo hướng ngược lại
với nét chữ vừa viết. Thao tác này xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi
bút, phấn, ...) “chạy nhẹ” từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt
đầu của nét liền sau.
2.3.9- Chú ý tư thế ngồi của học sinh:
Giáo viên cần chú ý đến các tư thế cần thiết để có thể viết chữ đẹp lại

khơng gây ra những dị tật cho học sinh: Cận thị, vẹo cột sống, …trong quá
trình ngồi viết của học sinh như: Tư thế ngồi, để vở, cầm bút. Ngồi viết: Ngực
không tì vào cạnh bàn, lưng thẳng ,đầu hơi cúi, để mắt cách vở 20 đến 25cm.
16


Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở
khơng xê dịch khi viết. Cánh tay phải cùng ở trên mặt bàn. Với cách để tay
như vậy, khi viết bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái
sang phải dễ dàng.
2.3.10 - Biện pháp phối hợp thường xuyên tổ chức tốt các phong
trào thi đua
- Giáo viên cần trao đổi với gia đình học sinh về cách thức thực hiện
sao cho đúng cách nhất từ chuẩn bị những đồ dùng tập viết cần thiết, tư thế,
cách cầm bút chuẩn xác,.. đặc biệt là với những em viết còn chậm để kèm học
thêm ở nhà: vừa luyện đọc kết hợp với luyện viết các bài tập đọc, nhằm giúp
các em đọc chữ được vững hơn cũng như luyện viết thêm.
- Mặt khác, giáo viên cần gần gũi an ủi, động viên, khích lệ, khen ngợi
học sinh kịp thời, bồi dưỡng lòng say mê và quyết tâm rèn chữ viết cho học
sinh thông qua những phong trào thi đua theo tuần, theo chủ điểm và kết hợp
với hội cha mẹ học sinh khen thưởng kịp thời để giúp các em có hứng thú học
tập và hưng phấn hơn trong việc rèn chữ viết.
2.3.11- Kết hợp song song với các môn học khác
Để học sinh viết đúng và đẹp thì phải tiến hành song song và đồng bộ
việc dạy - học phân môn Tập viết với các môn học khác. Học sinh không chỉ
viết đúng và đẹp ở vở Tập viết mà cần phải viết đẹp ở tất cả các loại vở.
Muốn viết đẹp và thành thạo thì cần phải nắm được kĩ thuật viết. Muốn
viết đúng, không sai, khơng mắc lỗi thì cần phải đọc đúng, đọc hiểu. Vì vậy
trong quá trình dạy học cần phải rèn cho học sinh khơng những viết thạo mà
cịn phải đọc thơng.

Để làm được điều này khi dạy các giờ Tập viết, Học vần, Tập đọc,
Chính tả, giáo viên ln chú ý hướng dẫn học sinh phát âm đúng, phân biệt và
sửa ngọng cho những học sinh đọc còn ngọng.
Giúp các em đọc đúng, hiểu đúng những từ ngữ địa phương hoặc
những tiếng, những từ ngữ khó có âm đầu hay nhầm lẫn như : l/n, x/s, tr/ch,
r/d...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Sau khi thực hiện các biện pháp trên tôi nhận thấy bản thân tự tin và chủ động
hơn khi dạy luyện viết cho học sinh lớp 1. Học sinh học tích cực hơn, tiết học
trở nên nhẹ nhàng hơn. Nhưng điều quan trọng nhất đó là việc các em viết
đúng chính tả được nhiều hơn, số các em viết chữ đẹp cao hơn. . Dưới sự
giảng dạy nhiệt tình,chỉ dẫn cụ thể,ln thương u giúp đỡ học sinh. Cùng
với chuyên môn sư phạm và kinh nghiệm trong giảng dạy của giáo viên các
em đã dần khắc phục được những hạn chế của bản thân.Cụ thể là kĩ năng về
viết của học sinh có tiến bộ rõ rệt . Đặc biệt kĩ năng viết dấu câu đã đạt 90 %.
17


Kĩ năng viết phụ âm đầu , vần , dấu câu , dấu thanh và thực hiện quy ước viết
hoa cũng đạt tỉ lệ khá cao từ 85% trở lên và đang dần được hồn thiện.
Điều đó được thể hiện qua các số liệu như sau:
Năm học 2017 -2018.
Kết quả Giáo viên rèn chữ cụ thể như sau:
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VSCĐ THÁNG 9
TSHS
Loại A
Loại B
Loại C
25

SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
7
28%
11
44%
7
28%

TSHS
25

TSHS
25

TSHS
25

TSHS
25

SL
10

SL
12


SL
16

SL
19

KẾT QUẢ XẾP LOẠI VSCĐ THÁNG 10
Loại A
Loại B
Loại C
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
40%
9
36%
6
24%
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VSCĐ THÁNG 11
Loại A
Loại B
Loại C
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %

48%
9
36%
4
16%
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VSCĐ THÁNG 12
Loại A
Loại B
Loại C
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
64%
7
28%
2
8%
KẾT QUẢ XẾP LOẠI VSCĐ THÁNG 1,2
Loại A
Loại B
Loại C
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
76%
5

20%
1
4%

KẾT QUẢ XẾP LOẠI VSCĐ THÁNG 3,4
TSHS
Loại A
Loại B
Loại C
25
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
22
84%
3
12%
0
0
3. Kết luận và kiến nghị:
3.1. Kết luận:
Để thực hiện tốt và có hiệu quả việc rèn kĩ năng cho học sinh lớp 1 viết
đúng tốc độ và đúng chính tả theo quy định, bản thân tôi rút ra bài học kinh
nghiệm sau:
* Giáo viên phải tìm hiểu kĩ nguyên nhân dẫn đến học sinh viết chưa
đúng tốc độ, chưa đúng chính tả theo quy định xuất phát từ đâu để từ đó có
biện pháp cũng như có hướng điều chỉnh kịp thời trong quá trình hướng dẫn

kĩ năng viết cho học sinh.
* Giáo viên phải quan tâm đến việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Để
đảm bảo các em viết được đúng tốc độ, viết đúng chính tả trước hết các em
18


phải đọc được một cách thành thạo, đồng thời ghi nhớ hình ảnh của chữ viết
từ các tiếng các từ mình vừa đọc chuyển từ tiếng từ (âm thanh) sang chữ (hình
ảnh).
* Giáo viên phải quan tâm đến việc luyện tập viết nhiều ở học sinh (ở
lớp và ở nhà), tạo cho học sinh có một thói quen luyện viết.
* Giáo viên cần thực hiện tốt việc phân tích, sửa sai lỗi chính tả cho học
sinh, làm cho các em hiểu chữ nào viết đúng chính tả, chữ nào viết sai chính
tả để các em khắc phục.
* Hướng dẫn kĩ lưỡng để các em hiểu và nắm được các kĩ thuật viết chữ
(viết liền mạch, các kĩ thuật nối nét, lia bút, rê bút ...) để các em vận dụng và
thực hiện trong khi viết luyện viết.
* Giáo viên cũng cần quan tâm đến các yêu cầu khác như:
- Tư thế ngồi của học sinh phải đảm bảo đúng theo quy định.
- Tay cầm bút viết, cách để vở, chân, lưng ... (đây cũng là các yêu cầu
tạo tâm thế thoải mái khi viết).
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh để tăng cường việc luyện đọc,
luyện viết của các em ở nhà. Phối hợp với giáo viên bộ mơn để tăng cường
luyện viết đúng chính tả, đúng tốc độ khi học các môn học do giáo viên bộ
môn giảng dạy.
Với kết quả đạt được qua áp dụng kinh nghiệm ở lớp, tơi muốn góp
phần nhỏ vào việc nâng dần chất lượng giảng dạy - học tập môn học tập viết,
chính tả nói chung ,phần chính tả nghe - viết nói riêng cũng như góp phần vào
việc nâng cao chất lượng học tập các môn học khác ở tiểu học cũng như các
bậc học tiếp theo.

Kinh nghiệm của tôi cũng đã được bàn bạc, trao đổi, thảo luận qua các
lần sinh hoạt chuyên môn ở tổ và được áp dụng ở các lớp trong khối.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1- Đối với nhà trường :
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp của trường của từng khối
lớp.
- Duy trì các phong trào thi đua “ Giữ vở sạch- viết chữ đẹp”. Hội thi
viết chữ đẹp cấp trường.
- Trưng bày các bài viết đẹp , vở sạch cho học sinh toàn trường tham
khảo.
- Nhà trường tạo điều kiện về thiết bị dạy học: như chuẩn bị bảng dành
cho giờ học Tập Viết có kẻ ơ đúng theo quy định.
- Mua đầy đủ bộ mẫu chữ viết Tập Viết đầy đủ trên mỗi giáo viên / lớp.

19


- Hiện nay có vở ơ li có mẫu chữ sẵn rất phù hợp với yêu cầu rèn chữ
viết cho học sinh nhưng cần cải tiến thêm: nên có 3- 4 dịng chữ để học sinh
tơ sau đó các em viết tiếp xuống dưới.(đối với chữ nhỏ việc làm này sẽ rất
hiệu quả vì các em sẽ xác định được rõ độ rộng, hẹp, độ cao của từng chữ.)
3.2.2- Đối với giáo viên :
- Không ngừng nâng cao chất lượng chữ viết của mình để mỗi chữ giáo
vên viết ra sẽ làm khuôn mẫu cho các em học sinh noi theo. Chữ của giáo
viên khi chữa bài, chấm bài cũng được học sinh quan sát như một loại chữ
mẫu, vì thế, giáo viên cần có ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
- Kết quả việc rèn chữ viết cho học sinh khơng phải ngày một, ngày hai
mà có được. Mà đó là kết quả của một q trình dày cơng khổ luyện của cả
thầy và trị, dưới sự dìu dắt, chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cơ giáo chính

vì vậy mà mỗi thầy cơ hãy ln mang trong mình bầu nhiệt huyết, lịng nhiệt
tình, sự kiên trì. Sự nhiệt tâm, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu
tố đảm bảo sự thành công của giờ dạy viết.
- Giáo viên cần thường xuyên gặp gỡ với phụ huynh học sinh nhất là
đối với những em viết hay bị mắc lỗi để trao đổi và thống nhất cách dạy các
em ở nhà cùng với cách dạy của cô ở trên lớp để phụ huynh biết và giúp đỡ
con em mình luyện viết ở nhà tốt hơn.
3.2.3- Đối với phụ huynh học sinh :
- Các bậc phụ huynh hãy tạo cho con em mình điều kiện vật chất tốt
nhất có thể được và tạo cho các em có tâm lý vui vẻ nhất khi đến lớp.
- Phụ huynh cần trao đổi với giáo viên để có cách dạy các cháu ở nhà
thống nhất với giáo viên ở lớp.
- Cần mua vở tập viết có chất lượng cao, khơng nên mua giấy q mỏng,
học sinh viết bị nhịe …
Để sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng có hiệu quả, tơi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Thanh Hóa, ngày 03 tháng 3 năm 2019
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, khơng sao
chép nội dung của người khác.
Người viết
Chủ tịch HĐKH - Hiệu trưởng
Hoàng Thị Hiếu

20



4. Tài liệu tham khảo
- Chuẩn KTKN môn Tiếng Việt lớp 1.

- Tạp chí giáo dục.

- Sách giáo khoa Tiếng Việt 1.

- Rèn luyện kĩ năng viết chữ đẹp.

- Sách hướng dẫn giáo viên Tiếng Việt 1.
giảng dạy.

- Mẫu chữ viết theo chương trình

- Vở Tập viết lớp 1 tập 1 + tập 2
* Đề tài SKKN đã được Hội đồng cấp phòng GD & ĐT, cấp Sở GD & ĐT
và các cấp cao hơn đánh giá đạt từ loại C trở lên:
TT

Tên SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại ( Phòng,
Sở, Tỉnh…)

Kết quả đánh
giá xếp loại: A,
B hoặc C

Năm học

đánh giá xếp
loại

1

Các biện pháp dạy
Phịng GD & ĐT
học phân mơn chính
tả và xây dựng một số
tiết dạy chính tả (buổi
2) ở lớp 2

B

2008 - 2009

2

Một số biện pháp rèn Phòng GD & ĐT
kĩ năng đọc cho học
sinh lớp 1
Một số kinh nghiệm Phòng GD & ĐT
trong việc tổ chức trò
chơi học tập giờ học
tốn lớp 2 tại trường
TH và THCS Đơng
Phú

B


2012 - 2013

C

2017 - 2018

3

21



×