Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Một số biện pháp rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ 24-36 tháng tuổi tại nhóm trẻ A1 - Trường mầm non Đông Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 28 trang )

TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3

2.3.1

2.3.2

2.3.3

2.3.4

2.3.5

2.4
3
3.1
3.2

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Một số biện pháp rèn luyện nề nếp trong sinh
hoạt hàng ngày của trẻ 24- 36 tháng tuổi tại nhóm trẻ
A1 - Trường mầm non Đơng Ninh

TRANG
2
2
3
3
3
4
4
5
7

Biện pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của nhóm
trẻ và đặc điểm riêng từng trẻ để có biện pháp tác động
giáo dục nề nếp, thói quen hàng ngày thích hợp
Biện pháp 2:Tạo niềm tin, yêu thương trẻ như người mẹ
giúp trẻ có cảm giác an tồn để tích cực tham gia các
hoạt động có nề nếp, thói quen tốt

7


Biện pháp 3: Xây dựng môi trường lớp học, sử dụng
hiệu quả đồ dùng, đồ chơi, vật thật để thực hiện các hoạt
động gây hứng thú cho trẻ để trẻ tích cực tham gia nhiều
hoạt động rèn luyện nề nếp
Biện pháp 4: Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên
trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi để hình thành nề
nếp thói quen bền vững cho trẻ

11

Biện pháp 5: Tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh
để rèn luyện nề nếp thói quen hàng ngày cho trẻ

17

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đạt được
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

18
19
19
20

9

14

1



1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Bác Hồ kính yêu đã nói
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan
Mỗi đứa trẻ sinh ra đều khơng có khả năng làm được mọi thứ một cách
ngẫu nhiên. Đó là kết quả của q trình tiếp thu, thích nghi với các tri thức, kinh
nghiệm lâu dài. Và lẽ dĩ nhiên, trẻ em sinh ra đâu phải đứa trẻ nào cũng ngoan
cũng lễ phép. Mà ngay từ những ngày đầu mới sinh đứa trẻ đã được người thân
tập cho một số thói quen đơn giản và nhẹ nhàng đó cũng chính là khởi đầu cho
việc hình thành nề nếp cho trẻ, để trẻ lớn lên trở thành người tốt thì ngày từ ban
đầu trẻ phải được rèn luyện, dạy dỗ, uốn nắn kịp thời. Chính vì vậy ngành học
mầm non ln coi trọng sự nghiệp chăm sóc- giáo dục trẻ là một nhiệm vụ vô
cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung [1].Việc rèn luyện
nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên về
giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện là hết sức khó khăn ln được đặt
hàng đầu. Để làm được điều này mỗi gia đình là nơi tập cho trẻ những thói quen
tốt ban đầu bằng tình u thường, chăm sóc và kích thích đầu tiên của trẻ, bố mẹ
là những người thầy đầu tiên và quan trọng nhất. Cô giáo là người mẹ thứ hai
của trẻ và cũng là tấm gương sáng cho trẻ noi theo.
Đất nước phát triển con người có nhiều điều kiện để chăm lo cho cuộc
sống, nhưng lại khơng có nhiều thời gian để chăm sóc con cái, chính vì vậy
nhiều gia đình cho rằng yêu thương con cái là phải bảo bọc con, nuông chiều
thích gì là được miễn là con vui, dẫn đến đứa trẻ thụ động, lười biếng ỉ lại ...
điều đó cho thấy nề nếp, thói quen của trẻ ở nhà chưa được hình thành.Vì vậy
nề nếp thói quen của trẻ phải được rèn luyện ngay từ trẻ nhỏ.
Trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ, còn non nớt, vụng về, nên rất cần sự chăm sóc về
mọi mặt từ tinh thần lẫn thể chất, và việc rèn luyện nề nếp cho trẻ chính là một

trong những bước hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ ở trường mầm non.
Giai đoạn này trẻ đang tập nói, nói chưa đủ câu đồng thời trẻ cũng mới bắt đầu
nhận thức được việc mình làm và việc làm của người khác, tuy nhiên trẻ chưa
phân định rõ ràng được việc làm đúng - sai, tốt – xấu… Hơn nữa ở trường tôi độ
tuổi 24-36 tháng tuổi là lớp học đầu tiên của trẻ ở trường mầm non, nên trẻ đến
trường mang theo các thói quen ở nhà, như quấy khóc, thích gì là địi kỳ bằng
được, không biết chào hỏi ai, đi vệ sinh lung tung…. Nề nếp thói quen của trẻ
chưa được hình thành. Chính vì thế vấn đề rèn luyện nề nếp của trẻ khi đến
trường mầm non là rất khó khăn và hết sức quan trọng, cần thiết. Để rèn luyện
nề nếp cho trẻ nhà trẻ trong giai đoạn này được sẽ là nền tảng vững chắc cho
việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ sau này.
Mỗi trẻ sinh ra đều có sự khác biệt về tính cách, sở thích, chính vì vậy để
đưa trẻ vào nề nếp trong lớp học không phải đơn giản, nhất là trẻ trong độ tuổi
nhà trẻ, lần đầu tin trẻ đến lớp, lần đầu tiên trẻ phải rời xa vòng tay yêu thương
của gia đình và người thân để đến bên cơ giáo và các bạn xa lạ. Điều này sẽ làm
ảnh hưởng rất lớn đến tâm lí và trạng thái của trẻ, vì vậy ngay từ đầu năm học
2


tôi đã dựa vào bảng phân phối nội dung chương trình chung cho độ tuổi để kết
hợp lồng ghép rèn luyện nề nếp cho trẻ khi tới trường. Ngoài ra tôi trực tiếp trao
đổi với phụ huynh để biết thêm về đặc điểm riêng của từng trẻ để có biện pháp
phù hợp trong việc rèn luyện nề nếp cho trẻ ngay từ đầu năm học, để làm được
điều này bản thân tơi đã tạo cho trẻ có một mơi trường học rộng rãi cho phép
chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Làm được
điều này cơ giáo phải có lịng u nghề mến trẻ, quan tâm âu yếm trẻ.Tạo cho
trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, trẻ trong độ tuổi này thích được cơ u
thương, quan tâm trị chuyện, tơn trọng trẻ cởi mở cùng trẻ. Điều này là động
lực để trẻ hứng thú tham gia các hoạt động rèn luyện nề nếp thường xuyên và
liên tục. Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một nề nếp tốt trong

sinh hoạt hàng ngày, góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách mới
cho trẻ.
Bản thân tơi là một giáo viên được trực tiếp chăm sóc ni dưỡng và giáo
dục trẻ. Tôi nhận thức được việc rèn luyện nề nếp cho trẻ là rất cần thiết và vô cùng
quan trọng đặc biệt trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng, là lớp học đầu tin của trẻ. Vậy làm
thế nào để trẻ đến lớp mà không bị ảnh hưởng đến tâm lí trẻ, và làm thế nào để
nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay từ những ngày đầu, những ngày
mà trẻ mới rời xa mẹ và những người thân trong gia đình để đến với cơ giáo và
các bạn. Chính vì vậy, đây cũng là điều tơi ln chăn trở suy nghĩ tìm ra những
giải pháp, biện pháp tối ưu nhất để trẻ được tiếp thu một cách có hiệu quả đáp
ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay, vì vậy tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp
rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ 24-36 tháng tuổi tại
nhóm trẻ A1 - Trường mầm non Đông Ninh” để làm đề tài nghiên cứu
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nhằm rèn luyện một số nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày phù hợp với trẻ
tại nhóm trẻ A1 trường mầm non Đơng Nnh.
1.3 Đối tượng nghiện cứu
Một số biện pháp rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ 2436 tháng tuổi tại nhóm trẻ A1 - Trường mầm non Đơng Ninh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
1.4.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
-Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để
xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. Thuộc nhóm này có các phương pháp cụ
thể sau đây :
-Phương pháp phân tích- Tổng hợp tài liệu
-Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
1.4.2.Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.(Tìm hiểu qua thơng tin đại
chúng, tập san, tài liệu bồi dưỡng, đài, báo, ti vi, tài liệu có liên quan đến đề tài)
-Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiển để
xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm này có các phương pháp cụ
thể sau đây :

-Phương pháp điều tra
-Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
3


-Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động
-Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
1.4.3.Phương pháp thống kê toán học
Để xử lý số liệu, thông tin thu được qua việc sử dụng các cơng cụ
tốn học như : cộng, trừ, nhân, chia, trung bình cộng, tỉ lệ phần trăm…
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân[2] đúng vậy trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi là giai đoạn trẻ đến trường và tham
gia lớp học đầu tiên, trẻ còn nhỏ nên nhạy cảm với tác động bên ngoài. Bởi thế
muốn rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, ngay từ những ngày
đầu trẻ mới vào lớp tôi đã gần gủi, yêu thương trẻ như con của mình, nhẹ nhàng
trị chuyện, chơi cùng trẻ để trẻ quên dần đi sự nhớ nhà.Từ đó trẻ cảm thấy tin
tưởng cơ, cảm thấy được sự che chở, an tồn mỗi khi đến lớp từ đó giúp trẻ hòa
nhập với các trẻ khác trong lớp học.
Theo chương trình giáo dục mầm non được ban hành kèm theo thông tư
số 28/2016TT- BGDĐT ngày 30/12/2016 của bộ giáo dục và đào tạo đã nêu rõ
mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm,thẩm
mỹ hình thành và phát triển ở trẻ em chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm
chất mang tính nền tảng, những kỷ năng sống cần thiết và phù hợp lứa tuổi.[3]
Như vậy với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi trẻ mầm non nói chung và
trẻ nhà trẻ nói riêng đặc biệt là trẻ 24 -36 tháng tuổi. Ở giai đoạn trẻ đang phát
triển lời nói do đó khả năng giao tiếp về ngơn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó
khăn, nhiều khi cơ giáo vừa dỗ dành lại vừa học ngôn ngữ trẻ để hiểu nhu cầu
trẻ đang muốn là gì? Để làm được điều đó cơ giáo cần nắm bắt đặc điểm tâm lí

riêng của từng trẻ để có biện pháp phù hợp nhằm tạo cảm giác yên tâm khi ở bên
cô và các bạn, bên cạnh đó tơi kết hợp đưa ra một số hình thức rèn luyện nhẹ
nhàng mang tính kết hợp trong các giờ học hoặc giờ chơi tập của trẻ như nhắc
nhở trẻ phải tự giác lễ phép chào hỏi cô giáo và người lớn, tập cho trẻ khi học
bài không nằm ra chiếu, biết cất đồ chơi đúng nơi quy định, biết rửa tay trước
khi ăn, sau khi đi vệ sinh và những lúc tay bẩn, biết ngồi ngay ngắn trong giờ ăn,
biết đi vệ sinh đúng nơi quy định…vì thế khi tham gia cùng trẻ ở bất cứ hoạt
động nào thì tơi ln ở với vai trị là người bạn cùng chơi, người hướng dẫn trẻ
chơi và thực hiện. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên khơng khí cởi mở,
lơi cuốn, thu hút trẻ, như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời
cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó việc rèn luyện một số nề nếp thói quen
hàng ngày của trẻ cũng được thực hiện song song và linh hoạt tạo thành nề nếp
tốt trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi không chỉ đơn
thuần là giáo viên đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ mà cơ giáo cịn phải tạo ra
được mơi trường hoạt động tốt, trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức, thông
qua mọi hoạt động hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi... ngồi ra cơ giáo cần tạo cho
khơng khí lớp học vui vẽ, trẻ cảm thấy in tâm khi ở bên cơ và các bạn thì việc
4


rèn luyện nề nếp cho trẻ sẽ được dể dàng hơn, thuần thục hơn, kết quả sẽ đạt cao
hơn. Và tạo ra những cơ hội tốt cho trẻ phát huy khả năng chủ động, sáng tạo
một cách triệt để.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường mầm non Đông Ninh là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I tồn
trường có 10 nhóm lớp, có 25 đồng chí cán bộ giáo viên, nhân viên. Đầu năm
học 2019- 2020 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ A1 với số
trẻ là 22 trẻ, trong đó có 10 trẻ nam và 12 trẻ nữ, lớp có 2 cơ phụ trách.Trong
những năm qua cùng với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của đội ngũ cán bộ

giáo viên chất lượng giáo dục đã từng ngày thay đổi. Đặc biệt là hoạt động rèn
luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ đã có nhiều chuyển biến rõ rệt.
Nhưng trong thực tế về hoạt động rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ vẫn cịn
nhiều bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chất lượng cịn chưa được
thực sự như mong muốn. Trong q trình thực hiện nhiệm vụ được giao tôi đã
gặp một số thuận lợi và khó khăn sau
2.21 Về Thuận lợi
+ Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của phòng Giáo dục và Đào tạo,
thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên qua học chuyên đề, kiểm tra
chuyên môn nhà trường, sự quan tâm của lãnh đạo địa phương đã tiếp tục bổ
sung cơ sở vật chất và một số trang thiết bị, sân chơi vận động cho nhà trường.
+ Ban giám hiệu luôn quan tâm và chỉ đạo kịp thời để các hoạt động rèn
luyện nề nếp thói quen cho trẻ được thực hiện thường xuyên liên tục và đạt hiệu
quả cao trong các hoạt động, các phong trào của trường, lớp.
+ Các bậc phụ huynh đã quan tâm hơn đến việc học tập, rèn luyện nề nếp
thói quen của con em mình, cũng như việc đóng góp ngày công lao động tạo
cảnh quan môi trường xanh, sạch đẹp cho nhà trường. Ngồi ra các bậc phụ
huynh cịn có sự quan tâm chia sẻ, trao đổi về khả năng, sở thích cũng như
những hạn chế của con em mình giúp giáo viên có những hiểu biết về trẻ và có
biện pháp giáo dục, rèn luyện phù hợp hơn.
+ Đối với lớp tôi phụ trách trẻ đi học rất đều, và trẻ được phân chia theo
đúng độ tuổi, nên trẻ ngoan hơn khi bước vào các hoạt động rèn luyện nề nếp
trong sinh hoạt hàng ngày.
+ Đồ dùng, đồ chơi trong và ngoài lớp phục vụ cho việc rèn luyện nề nếp
hàng ngày phong phú về mầu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ tham gia
+ Bản thân là một giáo viên yêu nghề mếm trẻ, hàng năm được tham gia
các lớp học chuyên đề, thăm quan các hoạt động rèn luyện nề nếp, dự giờ các
tiết dạy sáng tạo do huyện tổ chức.
2.2.2 Về Khó khăn
Ngồi những thuận lợi trên cũng cịn khơng ít những khó khăn làm ảnh

hưởng trực tiếp đến việc rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ như
ngôn ngữ của trẻ chưa hồn thiện, trẻ đang cịn nói ngọng, nói lắp, trẻ ở nhà
được nng chiều nên khi trẻ đến lớp chưa có một nề nếp, trẻ quấy khóc bỏ ăn,
trẻ khơng chịu nói, nhút nhát…. Nên việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ gặp
rất nhiều khó khăn.
5


+ Trẻ đến nhập học rải rác không cùng lúc làm cho sự ổn định nề nếp kéo
dài thời gian, làm ảnh hưởng, gián đoạn đến nhiều các hoạt động khác trong
ngày.
+Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi nhà trẻ việc
rèn luyện nề nếp cho trẻ chưa quan trọng nên ở nhà các cháu được nng chiều
thái q muốn gì được nấy, nhiều phụ huynh cho con nghỉ học bừa bãi khiến
việc rèn trẻ lại càng khó khăn hơn.Và điều đó khiến trẻ trở nên ỉ lại, lười hoạt
động. Khi đến lớp trẻ mang theo thói quen ở nhà nên khơng có tổ chức kỷ luật,
nhiều trẻ đi lại lung tung, đến lớp không chào hỏi ai mặc dù đã được cha mẹ và
cô giáo nhắc nhở. Mỗi sáng đến lớp luôn mang theo q bánh, ngồi việc khiến
trẻ ăn uống khơng theo giờ qui định mà cũng khiến cho lớp học mất vệ sinh vì
trẻ xả rác bừa bãi khơng vào nơi qui định, đa phần các cháu chưa biết đi vệ sinh
đúng nơi quy định. Đến giờ ăn cũng vậy, bên cạnh nhiều trẻ chưa biết xúc ăn
khiến các cô rất vất vả lại có những cháu xúc ăn bừa bãi, đùa nghịch trong giờ
ăn làm cho lớp học náo loạn… Cụ thể được thể hiện qua việc khảo sát nề nếp
trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ khi đầu năm học.
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
Từ thực tế trên, ngay từ đầu năm học khi sĩ số lớp đã ổn định tơi tiến hành
khảo sát từng trẻ để tìm ra một số biện pháp rèn luyện nề nếp tốt đạt kết quả cao.
Bảng khảo sát trên trẻ đầu năm được thực hiện vào tháng 9/2019
( Nhóm trẻ A1- 24-36 tháng)
TT

Nội dung khảo sát
Tổng số
Đạt
Chưa đạt
trẻ khảo
sát
1 Trẻ có thói quen vệ sinh sạch
7
32%
15 68%
sẽ
2 Trẻ có thói quen nề nếp trong
8
36,6% 14 63,4%
học tập và vui chơi
22
3 Trẻ có thói quen cất đồ dùng,
9
41%
13 59%
đồ chơi đúng nơi quy định
4 Trẻ có thói quen nề nếp trong
5
22,8% 17 77,2%
giờ ăn- giờ ngủ
5 Trẻ tự giác và có thói quen
6
27,7% 16 72,3%
chào hỏi
6 Trẻ thích và đi học chuyên

5
22,8% 17 77,2%
cần
*Nhận xét
Qua khảo sát đầu năm kết quả khảo sát trên cho thấy việc rèn luyện nề
nếp thói quen hàng ngày của trẻ lớp tơi phụ trách cịn rất hạn chế như:
+ Trẻ có thói quen vệ sinh sạch sẽ: Các con ở nhà được gia đình và bố mẹ
nng chiều cho rằng đang con nhỏ nên mọi sinh hoạt của trẻ trong gia đình đều
có người làm hộ. Nên dẫn đến nhiều trẻ chưa biết thực hiện vệ sinh cá nhân tỉ lệ
trẻ đạt còn thấp 32% tỉ lệ trẻ chưa đạt còn chiếm tỉ lệ cao là 68%
6


+ Trẻ có thói quen nề nếp trong học tập và vui chơi:do đặc thù của độ tuổi
nên ngay từ đầu năm các con đến lớp các nề nếp thói quen của trẻ chưa có đa số
các con tồn thích tự do.Chính vì vậy ngay khi các con đã ổn định tôi đã dần dần
rèn cho trẻ một số nề nếp thói quen sinh hoạt hàng ngày ở lớp, tuy kết quả chua
cao, những đã phần nào trẻ hưởng ứng theo sự hướng dẫn của cô số trẻ đạt
chiếm tỉ lệ thấp 36,6%, số trẻ chưa đạt chiếm tỉ lệ cao 63,4%
+ Trẻ có thói quen cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định: Ngay từ đầu
năm tôi đã tiến hành rèn luyện cho trẻ thói quen cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi
quy định, tuy chưa thu hút được sự tham gia nhiệt tình của các trẻ trong lớp dẫn
đến tỉ lệ trẻ đạt còn thấp 41%, tỉ lệ trẻ chưa đạt cao 59%
+ Trẻ có thói quen nề nếp trong giờ ăn, giờ ngủ: Phần lớn các con ở nhà
được tự do, nên giờ ăn thì chạy lung tung, có khi cịn dùng tay để bốc thức ăn,
khi ngủ thì gia đình cho chơi thoải mái nên quên ngủ, nề nếp trong giờ ăn hết
sức lộn xộn. Qua khảo sát đầu năm cho thấy tỉ lệ trẻ đạt rất thấp 22,8%, trẻ chưa
đạt chiếm tỉ lệ cao 77,2%
+Tính tự giác và có thói quen chào hỏi: trẻ còn nhiều hạn chế do nhiều trẻ
còn nhút nhát, một số trẻ khi giao tiếp cịn nói thiếu từ, nói trống không nên số

trẻ đạt chiếm tỉ lệ thấp là 27,7 % và số trẻ chưa đạt chiếm tỉ lệ cao là 72,3%
+ Trẻ thích và đi học chuyên cần: ngay từ đầu năm khi trẻ đã ổn định nề
nếp tôi đã tiến hành khảo sát và theo dõi sự thích đi hoc, và đi học chuyên cần
của trẻ. Qua đó cho thấy số trẻ thích đi học, đi học chun cần cịn ít.vì do trẻ ở
nhà được gia đình nng chiều nên dẫn đến tỉ lệ trẻ đạt cịn thấp 22,8% tỉ lệ trẻ
chưa đạt còn chiếm tỉ lệ cao là 77,2%
Chính vì vậy là giáo viên chủ nhiệm tơi đã trăn trở tìm biện pháp rèn
luyện trẻ nhằm cải thiện tốt hơn về nề nếp cho trẻ ở lớp tôi được tốt hơn.
2.3. Một số biện pháp rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ
24- 36 tháng tuổi tại nhóm trẻ A1 - Trường mầm non Đơng Ninh
2.3.1 Biện pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của nhóm trẻ và đặc điểm
riêng từng trẻ để có biện pháp tác động giáo dục nề nếp, thói quen hàng ngày
thích hợp
Như chúng ta đã biết mỗi con người là một sự khác biệt, mỗi trẻ em
là một cá thể riêng biệt, khác nhau về thể chất, tình cảm, tâm lí cũng như khác
nhau về trí tuệ. Đặc điểm tâm sinh lý ở trẻ mầm non là nhanh nhớ nhưng cũng
nhanh quên. Đặc biệt hơn ở giai đoạn này ngơn ngữ của trẻ cịn hạn chế, vốn từ
ít, nhiều trẻ cịn rụt rè, nhút nhát. Vì thế tơi ln tìm hiểu nắm bắt đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ trong độ tuổi và đặc điểm riêng biệt của từng trẻ trong lớp từ đó
có biện pháp phù hợp để rèn luyện nề nếp cho trẻ khi trẻ tham gia các hoạt động
trong ngày. Từ việc trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong các buổi đầu đón và
trả trẻ để tơi có thể biết được tên trẻ, sức khỏe của trẻ, sở thích của trẻ và khả
năng nhận thức của trẻ ở nhà cộng với việc theo dõi quan sát trẻ ở lớp hàng ngày
của cô giáo. Để từ đó tơi tìm ra các biện pháp tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến nhóm trẻ và cá nhân từng trẻ thích hợp khích lệ trẻ kịp thời, tạo bầu khơng
khí ấm cúng cho trẻ trong thời gian ở lớp, để trẻ quen dần với lớp học, cô giáo,
các bạn trong lớp để trẻ quên đi nhớ nhà.
7



Ví dụ: Hàng ngày trong giờ trả trẻ tơi trao đổi với phụ huynh về tình hình
trẻ ở lớp và đồng thời hỏi phụ huynh xem ở nhà trẻ thường ăn gì, trẻ hay ăn cơm
hay ăn cháo, ở nhà trẻ hay chơi gì, thích gì? Để từ đó tơi có phương pháp rèn
luyện nhẹ nhàng thích hợp, vừa tạo bầu khơng khí ấm cúng, gây thiện cảm cho
trẻ để trẻ cảm thấy in tâm mỗi khi đến lớp.
Hay tôi có thể trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ qua công thông
tin điện tử bằng cách tạo nhóm zalo, facebook qua cổng thơng tin này phụ
huynh biết được con em họ ở lớp hoạt động như thế nào, học tập và rèn luyện nề
nếp của trẻ ở lớp diễn ra có được thường xun khơng, và qua đó cơ cũng nắm
bắt thơng tin về trẻ ở nhà từ phía phụ huynh, kết hợp với phụ huynh cùng có
biện pháp gây sự thích thú của trẻ mỗi khi đến trường, đến lớp. Đồng thời nhận
được sự ủng hộ từ phía phụ huynh trong việc rèn luyện về nề nếp thói quen cho
trẻ ở trường đạt kết quả cao hơn.
Ví dụ: Thực tế tại lớp tơi ngay từ đầu năm học tơi tạo nhóm zalo của lớp
để đưa các hình ảnh hàng ngày trẻ ở lớp học tập và rèn luyện để cha mẹ trẻ
được biết. Từ thực tế đó tơi nhận thấy phụ huynh rất nhiệt tình cùng trao đổi
với cơ về tình hình của trẻ ở nhà ra sao, kết hợp với phụ huynh cùng về nhà có
hình thức rèn luyện nhẹ nhàng kết hợp các lời khen trẻ để tạo cảm giác thích đi
học của trẻ.
Sau khi nắm bắt được đặc điểm tâm lí của trẻ trong lớp, tôi đã bắt tay
ngay từ những ngày đầu của đầu năm học tôi đã chú trọng đến việc rèn luyện nề
nếp thói quen cho trẻ nhẹ nhàng, đơn giản khi tham gia hoạt động như: Ngồi học
ngay ngắn, không nằm ra chiếu, không được chạy lung tung ra khỏi ghế, dạy trẻ
khơng nói chuyện riêng, khơng đùa nghịch, làm việc riêng trong giờ học. Khi
cô giáo hỏi biết giơ tay xin phát biểu ý kiến “ Thưa cô..”. khơng nói tự do trong
giờ học, từ đó tơi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho trẻ thật phù hợp thuận lợi cho
việc học, hoạt động theo nhóm của trẻ, và thuận lợi cho cô quan sát được các trẻ
trong lớp học.
Từ việc sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu cho đến việc phân nhóm trẻ tơi
đều phải nghiên cứu và sắp xếp hợp lí như:Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ nhanh

nhẹ, mạnh dạn,trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình, trẻ hiếu động, cá biệt hay nói
chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, trẻ hay khóc nhịe thì ngồi cạnh cơ giáo để dễ ràng
cho việc quan sát trẻ trong lớp, và thuận lợi cho cô trong việc điều hành các hoạt
động trong lớp. Nhằm rút ngắn lại và dần xóa được khoảng cách về tâm sinh lý
giữa các trẻ trong lớp. Hình thành dần sự hịa đồng, tự nhiên khi tham gia hoạt
động với nhau.
(Xem hình ảnh 1: 2.3.1- BP1- ảnh trẻ ngồi học theo sắp xếp của cô - Trang 24)
Thông qua việc sắp xếp chỗ ngồi này tôi thấy rất có hiệu quả trong việc
rèn luyện nề nếp của trẻ.
Ví dụ: Tơi xếp cháu học ngoan ngồi cạnh cháu hiếu động, cháu học khá,
giỏi ngồi cạnh cháu học trung bình khi tơi mời một cháu khá trả lời câu hỏi thì
cháu học trung bình ngồi cạnh bên bạn có thể nghe được câu trả lời của bạn và
khi được cơ mời lên trả lời lại thì cháu sẽ trả lời được. Với hình thức sắp xếp
chỗ ngồi này cho trẻ rất thuận lợi để tơi có thể quan sát được tất cả trẻ trong lớp
8


đồng thời thuận lợi cho việc rèn luyện nề nếp của trẻ thông qua các hoạt động
thường xuyên vừa nhẹ nhàng, gần gủi và tình cảm để uốn nắn trẻ dần dần.
Ngồi ra tơi cịn cho những trẻ cịn nhớ nhà hay khóc ngồi cạnh cơ
khi học sẽ rất phù hợp trong việc rèn nề nếp học cho trẻ. Khi dạy cô cho những
trẻ này ngồi cạnh cô, cô vừa có thể dạy, vừa có thể thể hiện cử chỉ thương yêu
che chở cho trẻ chỉ bằng cái vuốt ve nhẹ nhàng hoặc một cái xoa đầu cũng có
thể làm trẻ vơi đi nỗi nhớ nhà. Trong quá trình tổ chức các hoạt động trong ngày
của trẻ ở trường tôi sử dụng các hình thức học và chơi linh hoạt, sáng tạo vừa lôi
cuốn được trẻ tham gia đồng thời tôi kết hợp rèn luyện một số nề nếp như tập
cho trẻ cách đi nhẹ, nói vừa phải đủ nghe, biết cách trả lời cô giáo và người lớn
thân thiện, lễ phép… điều này sẽ giúp hình thành ở trẻ nề nếp thói quen tốt
trong sinh hoạt hàng ngày. Giúp trẻ nhanh chóng ngoan và nhanh ổn định nề nếp
học, nề nếp chơi hơn.

Ví dụ: Thơng qua bài hát “ Lời chào buổi sáng” tôi rèn luyện cho trẻ nề
nếp thói quen biết chào hỏi người lớn và cơ giáo như “ Đến lớp con chào ai?” (
Chào cô giáo ạ) “ Khi về nhà con chào ai?” ( Chào ông bà, bố mẹ ạ) “ Khi chào
các con phải làm gì?” tơi kết hợp khoanh tay chào mẫu trước một vài lần để trẻ
làm theo. Nhờ sự ân cần giúp đỡ của cô trẻ được uốn nắn kịp thời, thường
xuyên, liên tục. Do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ ở các hoạt động sẽ
mang lại hiệu quả cao.
Trong quá trình trẻ tham gia các hoạt động rèn luyện tơi thường nhắc nhở,
khuyến khích trẻ bằng hình thức khen, động viên kịp thời những trẻ tích cực,
nghe lời cô giáo bằng những lời động viên, thưởng bằng những tràng pháo tay
kịp thời để làm gương cho những trẻ chưa ngoan
Trẻ nhỏ rất thích được khen đặc biệt là trẻ nhà trẻ, nắm được đặc điểm
tâm sinh lý này tơi ln sử dụng hình thức khen và động viên kịp thời.
Ví dụ: Với những trẻ ngoan, nghe lời cơ giáo, tích cực tham gia hoạt động
ở lớp cuối ngày tôi cho trẻ nhận xét các bạn, sau đó tơi tun dương trẻ, thưởng
cờ, cuối tuần thưởng bé ngoan cho trẻ, có thể 2 bé ngoan. Những trẻ chưa tích
cực, chưa ngoan, tơi nhẹ nhàng nhắc nhở, cuối tuần tôi động viên trẻ 1 bé ngoan
để tuần sau trẻ cố gắng hơn. Vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn trẻ đã đi vào nề
nếp, ngoan hơn và mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động hơn.
2.3.2 Biện pháp 2:Tạo niềm tin, yêu thương trẻ như người mẹ giúp trẻ có cảm
giác an tồn để tích cực tham gia các hoạt động có nề nếp, thói quen tốt
Trẻ bắt đầu đi học trong thời gian đầu trẻ đến trường, lớp trẻ còn bỡ ngỡ
mọi cảnh vật mọi người xung quanh đều xa lạ, mới mẻ đối với trẻ. Vì vậy cơ
giáo phải là người thứ hai sau mẹ và người thân của bé giang rộng vòng tay yêu
thương trẻ, đón trẻ và đem đến cho trẻ cảm giác an tồn, thân thiện, gần gũi khi
đến bên cơ. Tôi xác định cô giáo phải là chỗ dựa vững vàng về tinh thần cho trẻ
trong thời gian trẻ ở lớp đồng thời tạo cho trẻ một số nề nếp thói quen thường
xuyên và từ từ giáo dục trẻ, uốn nắn trẻ dần đưa trẻ đi vào nề nếp của lớp đồng
thời trẻ biết vâng lời cô giáo. Để làm được điều đó tơi phải thường xun trị
chuyện với trẻ.

9


Ví dụ: tơi thường ân cần, thân thiện trị chuyện với trẻ bằng các câu hỏi
gần gũi quen thuộc như : Con tên là gì? Đố con biết hơm nay cơ Thảo mặc áo
màu gì? Hay tơi cho trẻ ngồi quanh cô để kể cho trẻ nghe các câu chuyện gần
gũi xung quanh, dỗ dành trẻ tạo cho trẻ trong lớp học bầu khơng khí ấm áp u
thương gần gũi và thân thiết với trẻ như người thân trong gia đình, hoặc tơi có
thể tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi nhẹ nhàng để làm tăng thêm sự hứng thú, tự
tin, tích cực của trẻ khi đến lớp học.
Sau khi trẻ đã bắt đầu quen lớp, quen cơ thì tôi bắt đầu cho trẻ làm quen
với việc học (giờ học) trong lớp việc đầu tiên tơi dạy trẻ đó là trẻ ngồi học ngay
ngắn, khơng nói chuyện riêng trong giờ học, trong quá trình cho trẻ làm quen
với việc học tôi dạy trẻ một số khẩu hiệu chung trong lớp mà cô sẽ sử dụng
trong các hoạt động học, và các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường như:
“Lắng nghe, lắng nghe” “nghe gì, nghe gì”……. “nhìn xem, nhìn xem”….. với
các khẩu lệnh đó sẽ gây thêm sự chú ý tị mị trong trẻ. Qua thời gian cơ cũng
tạo cho trẻ có nề nếp học, nề nếp chơi, nề nếp ăn, ngủ đúng giờ giấc tạo cho trẻ
có một thói quen tốt khi đến lớp và cả khi về nhà.
Ngồi ra trong giờ học tơi đã chú trọng rèn luyện cho trẻ khả năng tập
trung chú ý trẻ biết chú ý lắng nghe cơ giáo nói, ngồi học ngay ngắn khơng làm
ồn, khơng nói leo, khi muốn nói phải giơ tay xin phép, khi phát biểu phải đứng
ngay ngắn nói rõ ràng, nói đủ câu hoặc khi trẻ trả lời phải đủ câu.
Ví dụ: Khi cơ hỏi “ cơ vừa kể song câu chuyện gì?” trẻ khơng được nói
leo mà phải giơ tay xin phép, khi trả lời trẻ phải khoanh tay lễ phép để trả lời.
Tôi làm mẫu động tác giơ tay, khoanh tay để cho trẻ làm theo, khi trẻ trả lời
mạnh dạn, đứng ngay khi cô giáo yêu cầu. Cô vừa kể xong câu chuyện“Đôi bạn
tốt ạ”.
( Xem hình ảnh 2: 2.3.2- BP2- ảnh trẻ lễ phép khoanh tay trả lời cô – Trang 24)
Để rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, ngồi tình u

thương tơi dành cho trẻ ra thì hoạt động mà tôi cũng thường xuyên rèn luyện nề
nếp cho trẻ ở hoạt động chơi tập các khu vực. Đây có thể coi là một hoạt động
quan trọng nhất, bởi đồ chơi là một phần quan trọng trong vui chơi của trẻ mầm
non. Đồ chơi là người bạn đồng hành, thân thiết của trẻ và là khởi nguồn của
những cảm xúc, tình cảm tích cực của trẻ[4]. Như vậy thơng qua giờ chơi có tác
dụng rất lớn trong việc rèn luyện nề nếp, trong giờ chơi, trẻ biết nhường nhịn
chia sẻ đồ chơi cho nhau, và cùng nhau chơi đồn kết.
Thơng qua giờ chơi này cơ rèn cho trẻ nề nếp thói quen khi chơi song biết
cùng cơ cất đồ chơi đúng nơi quy định, và khi chơi biết giữ gìn trật tự chung ở
các khu vực chơi, khi chơi phải biết nhường nhịn cùng nhau chơi đồ chơi, khơng
tranh dành đồ chơi của nhau… ngồi việc rèn luyện nề nếp cho trẻ trong khi
chơi thông qua hoạt động này tơi cịn rèn luyện cho trẻ tính mạnh dạn giao tiếp
thông qua việc giao lưu cùng các bạn trong nhóm, giao lưu giữa các nhóm chơi
với nhau.
Ví dụ: Trị chơi khu vực thao tác vai: trò chơi thao tác vai trẻ được chơi bế
em, ru em ngủ, cho em ăn, khi trẻ chơi trẻ biết giao tiếp với bạn cùng chơi, biết
ru em ngủ à ơi.
10


+Con đang chơi gì? (Con bế búp bê)
+ Bế búp bê để làm gì? (Ru cho em búp bê ngủ)
+ Con ru như thế nào? (À ơi, em bé ngủ ngon)…
+Khi chơi song con cất búp bê ở đâu ?(Khu vực thao tác vai ạ)
+Khi chơi phải chơi với nhau như thế nào ?( Chơi đồn kết ạ )
Cơ kết hợp nhắc nhở trẻ khi chơi xong các con để đồ chơi vào đúng nơi quy
định, biết giữ gìn đồ chơi. Vì hàng ngày tơi thường xun cho trẻ chơi ở các khu
vực chơi trong lớp, nên việc sắp xếp, để đồ chơi ở các khu vực nào thì hàng
ngày cô và trẻ thường xuyên thực hiện, ban đầu tôi và trẻ cùng thực hiện cất đồ
chơi đúng nơi quy định, về sau cơ giáo chỉ giữ vai trị là người hướng dẫn để trẻ

cùng nhau thực hiện và qua thời gian rèn luyện nó trở thành nề nếp ăn sâu vào
tiền thức mỗi trẻ trong lớp.Vì vậy qua hoạt động chơi ở các khu vực này trẻ lớp
tôi dần dần hình thành nề nếp, thói quen khi chơi song là biết cất đồ chơi, trẻ sẽ
thích thú hơn khi tự tay mình được giúp cơ cất những đồ chơi đúng nơi quy
định, thơng qua đó giúp trẻ hào hứng hơn khi tham gia các hoạt động trong lớp.
Như vậy thơng qua trị chơi, đồ chơi ở các khu vực để tơi rèn cho trẻ thói
quen chơi song biết cất đồ chơi đúng nơi quy định, bằng tình cảm chân thành,
gần gũi tôi không chỉ chiếm được trái tim của trẻ trong từng bữa ăn, từng giấc
ngủ, mà còn là chỗ dựa tinh thần cho trẻ mỗi khi tới lớp. Đây cũng là lợi thế để
tơi có thể sử dụng nhiều hình thức rèn luyện để hình thành cho trẻ một số thói
quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, cứ như vậy trẻ sẽ thực sự yêu mến cơ
giáo, u q các bạn và u mến lớp, tình cảm thân mật giữa cô và các bạn
ngày càng gắn bó và gần gũi hơn.
2.3.3 Biện pháp 3: Xây dựng môi trường lớp học, sử dụng hiệu quả đồ dùng,
đồ chơi, vật thật để thực hiện các hoạt động gây hứng thú cho trẻ để trẻ tích
cực tham gia nhiều hoạt động rèn luyện nề nếp
Đối với độ tuổi này hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo vì nhờ nó
mà chức năng của đồ vật lần đầu tiên được bộc lộ và đồ vật trở thành đối tượng
thu hút sự chú ý của trẻ, giúp trẻ khám phá tìm tịi [5]. Chính vì vậy mà tơi ln
tìm tòi các nguyên vật liệu tự nhiên để làm những đồ dùng đồ chơi sáng tạo để
cho trẻ chơi, kích thích sự hứng thú tham gia hoạt động của trẻ, qua đó kết hợp
rèn luyện nề nếp, thói quen thơng qua các hoạt động, thao tác với đồ vật, đồng
thời cung cấp vốn từ, kích thích ngơn ngữ nói mạch lạc của trẻ phát triển
Môi trường trong lớp học: Ngay từ đầu năm tơi trang trí lớp đẹp theo các
chủ đề, để gây hứng thú cho trẻ khi đến lớp, tới trường. Với mỗi chủ đề tơi ln
có sự thay đổi phù hợp, đồ dùng, đồ chơi được sắp xếp gọn gang, vừa tầm mắt
với trẻ để trẻ dễ lấy và dễ cất giúp trẻ hoạt động một cách thoải mái và tự tin
hơn. Đồng thời gợi mở ý tưởng sáng tạo của trẻ trong hoạt động chơi ở các khu
vực tạo các sản phẩm của trẻ và cô để trang trí lớp học và trẻ được chơi, được
nhìn ngắm.Qua đó khơi gợi niềm vui thích thú của trẻ khi đến lớp, ngồi ra tơi

cịn bố trí các khu vực chơi trong lớp hợp lí, thuận tiện khi trẻ hoạt động nhằm
lơi cuốn, hấp dẫn trẻ giúp trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Đồ dùng, đồ chơi trực quan đối với học sinh mầm non đó chính là sách của
trẻ, đối với trẻ mầm non đặc điểm tư duy của trẻ chính là trực quan hình tượng,
11


điều này cịn quan trọng và có ý nghĩa hơn nhiều đối với trẻ nhà trẻ bởi vì, trẻ
nhà trẻ mọi sự vật hiện tượng xung quanh với trẻ đều mới lạ, đều hấp dẫn nhưng
đối với bản thân trẻ lại chưa có được kinh nghiệm. Do đó tơi xác định muốn rèn
luyện nề nếp cho trẻ tốt, nhất định phải có đồ dùng trực quan, đặc biệt tơi chú ý
đến sử dụng vật thật để cung cấp đến trẻ một cách chính xác nhất và khoa học
nhất, phải đảm bảo an tồn cho trẻ, sử dụng hợp lí và phù hợp với nội dung, với
độ tuổi.
Ví dụ: Khi cho trẻ nhận biết “Quả bưởi” tôi đã sử dụng quả bưởi thật để giờ
học thêm sinh động, bởi vì khi trẻ được học bằng quả bưởi thật trẻ sẽ được sử
dụng các giác quan của mình như: Xúc giác, thị giác, vị giác,... giờ học sinh
động gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và
vững chắc hơn, trẻ được phát âm nhiều hơn, phát triển ngôn ngữ nhiều hơn. Từ
các trãi nghiệm đơn giãn như ngửi mùi và thử vị của quả bưởi thật này tôi kết
hợp giáo dục rèn luyện nề nếp cho trẻ khi ăn phải bóc vỏ, bỏ hạt, và trong quá
trình ăn phải nhai kỷ, quan trọng hơn là trước khi ăn trẻ phải biết mời mọi người
cùng ăn.Như vậy qua sử dụng vật thật trong các hoạt động của trẻ hàng ngày ở
trường rất có ích cho trẻ, khơng những trẻ được trãi nghiệm, được nói, được phát
triển ngơn ngữ mà qua đó trẻ được rèn luyện một số nề nếp tốt để phục vụ trong
cuộc sống sau này của trẻ.
Hay trong giờ nhận biết phân biệt “đồ dùng để ăn và đồ dùng để uống” tôi
sử dụng vật thật là những cái bát hàng ngày cho trẻ ăn ở trường và ở tại gia đình
trẻ để trẻ quan sát và dễ nhận biết phân biệt được sự khác biệt của đồ dùng dùng
để ăn và đồ dùng dùng để uống từ mục đích sử dụng cho đến hình thức cấu tạo

của đồ dùng, tơi cho trẻ trải nghiệm bằng cách sờ bát sành, bát inox, bát nhựa.Từ
những trải nghiệm đó trẻ nói lên được cảm nhận của trẻ về chất liệu của đồ dùng
thơng qua đó tơi kết hợp giáo dục trẻ cách sử dụng đồ dùng và bảo quản đồ
dùng từ các chất liệu như đối với bát sành thì khi dùng phải nhẹ nhàng, cẩn thận
không rất dễ vỡ, khi vỡ các mảng sành sắc nhọn làm đứt tay, đứt chân. Nên khi
sử dụng bát sành các con phải ngồi vào bàn ăn ngay ngắn, không bê bát chạy
lung tung sẽ làm cơm đổ ra sàn nhà làm mất vệ sinh. Qua giờ học tôi không chỉ
giáo dục trẻ cách sử dụng đồ dùng mà tơi cịn rèn luyện cho trẻ cách cầm bát
bằng tay trái và cầm thìa bằng tay phải, biết giữ gìn vệ sinh chung khi ăn....từ đó
trẻ biết cách sử dụng đúng mục đích đồ dùng dùng để ăn và đồ dùng dùng để
uống.
Để rèn luyện nề nếp cho trẻ đạt kết quả cao thì đồ dùng, đồ chơi khơng thể
thiếu đối với trẻ. Đồ dùng, đồ chơi là một phần quan trọng trong vui chơi của
trẻ. Nhưng đồ dùng, đồ chơi của trẻ nhỏ phải đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu
về mặt giáo dục, vệ sinh, an toàn và thẩm mĩ. Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã
kiểm tra đồ dùng dạy học xem đồ dùng đã phù hợp với chủ đề, với đề tài, hình
thức dạy. Từ đó tơi có kế hoạch tham mưu với ban giáo hiệu nhà trường và phụ
huynh để bổ sung đồ dùng, đồ chơi cịn thiếu, mặt khác tích cực làm đồ dùng, đồ
chơi tự tạo phục vụ hoạt động dạy học và rèn luyện nề nếp hàng ngày của trẻ.
Từ những nguyên vật liệu siêu tầm được như len, vải vụn, bìa lịch củ, xốp, gỗ,
12


lõi ngô… tôi đã cùng giáo viên trong lớp làm bổ sung những đồ dùng còn thiếu
cho đủ để phù hợp với đề tài, phù hợp với chủ đề.
Ví dụ : Cô làm nhiều đồ dùng đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu tự nhiên
như làm bộ ấm chén bằng các hộp sữa chua, hay cô làm cái trống từ vỏ hộp sữa
bột, kết hợp với giấy dạ vừa tạo màu sắc hấp dẫn cho trẻ, với đồ chơi này trẻ vừa
được quan sát, vừa được sử dụng, trong khi trẻ nhìn, trẻ sử dụng thì cơ có thể tạo
ra nhiều tình huống để hỏi trẻ, kích thích trẻ trả lời và tự nói theo những gì trẻ

cảm nhận được, đồng thời cô kết hợp nhắc nhở, rèn luyện trẻ khi chơi, sử dụng
đồ chơi phải nhẹ nhàng, không được đưa đồ chơi lên miệng cắn, hay dùng tay để
bóc hoặc xé đồ chơi. Để làm được điều này tôi thường xuyên rèn luyện, nhắc
nhở trẻ hàng ngày, vừa mang tính giáo dục trẻ, vừa rèn luyện cho trẻ nề nếp thói
quen khi chơi phải biết giữ gìn đồ chơi. Như vậy qua đồ dùng, đồ chơi tự tạo
càng kích thích sự tị mị khám phá của trẻ đồng thời ngôn ngữ của trẻ ngày càng
phát triển hơn, đặc biệt là giúp trẻ tự nhiên, tự tin hơn khi thực hiện các hoạt
động rèn luyện nề nếp.
(Xem hình ảnh 3:2.3.3-BP3- ảnh rèn luyện nề nếp khi chơi với đồ chơi tự tạo
Trang25 )
Ở nhà trẻ đồ chơi, đồ dùng không chỉ là đồ dùng trực quan phục vụ cho
các hoạt động hoc, hoạt động chơi ở các khu vực. Mà nó cịn là dụng cụ để gây
hứng thú lơi cn trẻ tham gia các hoạt động tích cực hơn, bên cạnh đó đồ dùng
đồ chơi cịn là phương tiện để dỗ dành trẻ, giúp trẻ quên đi nỗi nhớ nhà.
Ví dụ: Cháu mới đến lớp đang cịn khóc vì nhớ nhà khi bế và rổ cháu chơi
tôi hỏi trẻ trong lớp có rất nhiều đồ chơi, con thích đồ chơi nào, trẻ chỉ về khu
vực thao tác vai tôi và trẻ cùng lại khu vực chơi đó và trẻ sẽ tự tay mình lấy đồ
chơi mình thích trong khi trẻ bề búp bê vào người tôi sẽ nhẹ nhàng hỏi trẻ vừa
thăm dị tâm lí trẻ vừa tạo cảm giác yên tâm của trẻ khi ở bên cô như : Ai đây? (
Búp bê) Đây là cái gì? ( bát và thìa ạ) Cơ thấy bạn búp bê rất là ngoan, bạn búp
bê khơng khóc nhè đâu, con cũng đừng khóc nữa để cơ cháu mình cùng nấu bột
cho búp bê ăn nhé, ban đầu tôi sẻ cùng chơi với trẻ sau đó tơi rút dần để các bạn
khác đến chơi cùng trẻ để trẻ dần hòa nhập với các bạn khác trong lớp. Qua đó
tơi thấy cháu đang khóc nín liền để tham gia chơi cùng các bạn và cô. Sau khi
trẻ quen lớp, quen cô và các bạn thì tơi nhẹ nhàng rèn luyện trẻ cách chơi đồ
chơi, sử dụng đồ chơi, và quan trọng hơn là khi chơi phải cùng chơi với các bạn
trong lớp. Từ đó tơi nhắc nhở trẻ biết nhường nhịn, chia sẻ đồ chơi cùng các bạn
trong lớp, thơng qua trị chơi, đồ chơi tôi dần dần dạy trẻ biết cách thao tác với
đồ vật, bắt trước người lớn bế em, rổ dành em và biết xúc bột cho em….
(Xem hình ảnh 4: 2.3.3- BP3- ảnh trẻ tậpbế em và xúc cho em ăn–Trang25 )

Các khu vực chơi trong lớp, mỗi chủ đề tôi đều sắp xếp các đồ dùng, đồ
chơi tự tạo khác nhau, những đồ chơi đó nó phải phù hợp với chủ đề, nội dung
chơi ở các khu vực, để làm sao thu hút và lôi cuốn trẻ tham gia. Ở trong lớp
ngoài các khu vực chơi cố định ra tơi cịn tạo thêm các khu vực chơi mở để cơ
và trẻ cùng hịa nhập, cùng suy nghĩ và sáng tạo thêm nhiều đồ chơi mới, kích
thích vào các giác quan khiến trẻ chủ động và tự tin hơn khi đến lớp.
13


Ví dụ: Sáng mai đến lớp trẻ cịn lưu luyến bố mẹ khơng muốn vào lớp tơi
đến đón trẻ vào lớp dỗ dành trẻ. Tơi đưa cháu đến góc chơi mở vừa trị chuyện
vừa dùng giấy màu gấp hình chiếc máy bay, hình con sâu cho trẻ xem, sau đó
bằng cử chỉ âu yếm tôi lôi kéo trẻ ngồi gấp cùng cô và các bạn điều này sẽ đem
lại niềm vui trẻ được sáng tạo và sử dụng những sản phẩm tự tay bé làm.
Khơng những thế tơi cịn tận dụng các khoảng khơng gian và vị trí ngồi
lớp học đã được trang trí các đồ chơi tự tạo do cơ và trẻ làm được để trẻ nhìn
ngắm, và chơi ở đó qua đó khơi gợi niềm vui thích thú của trẻ khi đến lớp.
Ví dụ: Khi cho trẻ chơi ngồi trời, những hơm trời nắng hoặc mưa tơi
thường cho trẻ chơi ở ngồi góc thư viện, và góc vận động của trường trẻ chơi ở
đây trẻ được thao tác với búp bê, được học cách giở sách, hay ở góc vận động
trẻ được chơi với vịng, gậy…. làm trẻ hứng thú quên đi nỗi nhớ nhà.
Ngoài việc làm đồ dùng đồ chơi đẹp thu hút trẻ thì tơi cịn suy nghĩ để tìm
cách sử dụng đồ chơi đó một cách hợp lý để phát huy tác dụng của đồ dùng đồ
chơi. Đồ dùng đồ chơi đẹp không chỉ giúp trẻ nhanh ngoan nhanh quên đi nỗi
nhớ nhà mà đồ dùng, đồ chơi đẹp còn thu hút trẻ vào giờ học và giờ hoạt động
chơi tập các khu vực một cách húng thú. Từ đó nề nếp học, chơi của trẻ cũng
nhanh chóng ổn định và giờ học, giờ chơi đạt kết quả cao.
2.3.4 Biện pháp 4: Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt
động, mọi lúc mọi nơi để hình thành nề nếp thói quen bền vững cho trẻ
Ngay từ đầu năm học khi trẻ đã quen cô, quen lớp và các bạn tôi đã bắt

tay ngay vào việc rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Xã hội
càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên
quan trọng. Ngay từ lứa tuổi mầm non, người lớn đặc biệt là giáo viên mầm non
tôi luôn chú trọng rèn luyện các nề nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn
nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ, khi
nói vừa phải, đủ nghe, khơng la hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngơn ngữ nhẹ
nhàng tình cảm để thể hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cơ giáo và
người thân. Vì vậy mọi hoạt động của cô giáo và người lớn phải thực sự gương
mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời
Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây”, thì cơ
cần sửa cho cháu nói lại “Bạn ơi! Cho mình mượn quả bóng”. Hay khi trẻ nói
ngọng “khơng” trẻ nói thành “hơng”, cô giáo, người lớn cần sửa sai cho trẻ
“không”…
Giáo dục các cháu biết cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn khi giao
tiếp, biết chào hỏi cô khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ, người lớn và giáo
dục trẻ khơng nói dối, khơng nói tục, khơng chửi bậy. Và nội dung giáo dục
này được tôi sử dụng phù hợp với nội dung từng bài học và nội dung của từng
chủ đề.
Ví dụ: Khi cơ phát q buổi chiều cho trẻ cô dạy trẻ phải biết đưa hai
tay ra nhận và biết nói “cháu xin cơ”, “cháu cảm ơn cơ”. Qua đó đã rèn cho
trẻ có nề nếp thói quen lễ phép, phát triển lời nói cho trẻ, trẻ biết cảm ơn, biết
xin khi có người cho quà.
14


Hằng ngày các hoạt động mà trẻ tham gia ở trường đều là những hình
thức để trẻ được rèn luyện. Đối với trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi này để đưa các
cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Bởi các cháu còn
rất bé, chưa ý thức được hành vi của mình, điều này cũng là một thử thách cho
bản thân tôi. Để tạo cho trẻ có được nề nếp thường xuyên bản thân tơi phải

ln nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để nắm bắt được sở thích cũng như
sở trường riêng của từng trẻ tử đó tơi có biện pháp kịp thời uốn nắn để dần
hình thàng nề nếp bền vững cho trẻ. Làm được điều này ngoài các phương
pháp trên tơi cịn sử dụng hình thức thơng qua bài hát, bài thơ, câu chuyện... trị
chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, để giáo dục, nhắc nhở trẻ thường
xun. Qua hình thức này tơi thấy trẻ lớp tôi hào hứng tham gia các hoạt động
rèn luyện và nề nếp lớp tôi dần được cải thiện hơn so với đầu năm học.
Ví dụ: Khi cho trẻ chơi ở các khu vực, đến khi hết giờ tôi dùng xắc xô
lắc nhẹ
và đọc bài thơ
Giờ chơi đã hết
Nào các bạn ơi
Ta cùng cất dọn
Đồ dùng, đồ chơi
Vào nơi quy định [6]
Tất cả trẻ trong lớp cùng đọc thơ cùng tham gia cất đồ chơi vào đúng nơi
quy định. Nhờ sự uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục đó nên việc rèn
luyện nề nếp của trẻ lớp tôi trong mọi hoạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại
hiệu quả cao hơn, các cháu ngoan và có nề nếp hơn.
Như chúng ta đã biết với tình hình hiện nay có rất nhiều dịch bệnh phát
sinh do môi trường thay đổi đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của mọi
người dân.Nhất là trong giai đoạn này khi dịch bệnh cov19 đang lây lan nhanh
và để phòng tránh bệnh dịch lây lan, bản thân tơi ln dạy trẻ biết giữ gìn vệ
sinh thân thể sạch sẽ, không khạc chổ bừa bãi nơi cơng cộng, tập cho trẻ có thói
quen tự phục vụ như: Tự đi dép, đội mũ, biết rửa bằng xà phòng trước giờ ăn,
sau khi đi vệ sinh, rửa tay khi tiếp xúc nơi công cộng…,biết cất đồ dùng, đồ chơi
đúng nơi quy định khi chơi xong, biết bỏ vỏ bánh, vỏ sữa vào thùng rác, biết
cùng cô giáo nhặt lá rụng ở sân trường hàng ngày, biết giữ gìn vệ sinh trong và
ngồi lớp học. Trong q trình tơi rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ tơi ln sử
dụng hình thức trị chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua hệ thống câu hỏi mở, kết

hợp giáo dục trẻ để nhằm mục đích giúp trẻ mở rộng vốn từ, khuyến khích trẻ
thực hiện một số nề nếp thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường
cũng như ở trong gia đình.
Ví dụ: Khi trẻ uống sữa xong, cô hỏi trẻ: Con uống sữa hết chưa? Trẻ trả
lời: “rồi” cô sẽ sửa sai và yêu câu trẻ nói lại “con uống sữa hết rồi”. “Uống sữa
hết rồi thì bỏ vỏ vào đâu?”, cơ sẽ hướng dẫn và dạy trẻ bỏ vỏ sữa vào thùng
rác…
Hay giờ ăn: Trước khi ăn cô cho trẻ xếp hàng và rửa tay. Trong khi trẻ
xếp hàng để rửa tay tôi thường trò chuyện với trẻ như: Các con xếp hàng đi
đâu?( Đi rửa tạy ạ) Rửa tay để làm gì?(Để ăn cơm ạ) Chúng ta thường rửa tay
15


vào lúc nào?(Rửa tay trước khi ăn cơm, sau khi đi vệ sinh, và rửa tay những lúc
tay bẩn ạ). Trong khi trẻ rửa tay tơi có thể hỏi trẻ như: tay ai đây?( tay con ạ) Ai
đang rửa tay cho con? ( Cơ giáo ạ)…. Ngồi ra tơi có thể thay đổi hình thức trị
chuyện bằng hình thức đọc các bài thơ nói về giữ gìn tay, chân sạch sẽ để trẻ
không nhàm chán mà vẫn gây hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động rèn luyện
nề nếp.
“Rửa tay sạch”
Cô dặn bé
Trước giờ ăn
Khi tay bẩn
Phải rửa ngay
Với xà phịng
Bé ghi lịng
Lời cơ dặn [6]
Việc làm này thường xuyên sẽ giúp trẻ rèn luyện nề nếp thói quen rửa tay hàng
ngày và giúp trẻ biết giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ.
(Xem hình ảnh 5: 2.3.4-BP4- ảnh trẻ rèn luyện nề nếp thói quen rửa tay trước

giờ ăn - Trang26 )
Trong giờ ăn tôi rèn cho trẻ có thói quen cầm thìa xúc ăn, biết nhặt cơm
rơi vãi bỏ vào đĩa, khi ăn không được bốc bằng tay, ngồi ngay ngắn để ăn cơm.
Giờ ngủ: Trước khi ngủ cơ có thể cùng trẻ trị chuyện cùng nhau hay
nghe những bản nhạc hát ru nhằm mục đích vừa phát triển ngôn ngữ cho trẻ vừa
tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, an tồn trước khi ngủ
(Xem hình ảnh 6: 2.3.4-BP4- ảnh trẻ có nề nếp thói quen trong giờ ăn, giờ ngủ
Trang26 )
Trẻ nhỏ khi rời vòng tay của bố mẹ và người thân để đến trường phần lớn
các con cịn chưa có nề nếp, thói quen gì, và khi trẻ đến lớp cô giáo sẽ hướng
dẫn các con từ những cái đơn giản nhất mà ở gia đình các con thường được bố
mẹ và người thân làm hộ như : cách đi vệ sinh đúng cách, đúng nơi quy định,
cách ngồi bơ làm sao cho an tồn và sạch sẽ. Chính vì vậy ngay từ đầu năm tôi
đã chú ý hướng dẫn trẻ đi vệ sinh theo thời điểm, đúng nơi quy định.Bên cạnh
đó vẫn cịn có những cháu thường có biểu hiện thay đổi thói quen do mơi trường
hoặc thức ăn thì tơi cũng thường xun chú ý quan sát và theo dõi để có hướng
giải quyết tốt nhất. Từ việc làm nhỏ đó giúp trẻ hình thành nề nếp, thói quen ở
trường cũng như ở nhà.
Khi tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động trong ngày ở trường bất cứ
hoạt động nào cũng vậy tôi đều chú trọng đến việc rèn luyện nề nếp thói quen
cho trẻ một cách nhẹ nhàng, mà trẻ vẫn hứng thú tham gia.
Ví dụ: Hoạt động chơi ngồi trời, thể dục buổi sáng việc đầu tiên tôi rèn cho
trẻ là biết cách xếp hàng, và biết chờ đến lượt, khơng được chen lấn, xơ đẩy
nhau. Khi xếp hàng thì phải đi theo hàng không được phá hàng chạy lung
tung: Các con xếp hàng đi đâu?( Tập thể dục ạ), khi xếp hàng có được chen
lấn, xơ đẩy nhau khơng?(Khơng ạ). Khi trẻ xếp hàng tôi cũng luôn dùng các
hiệu lệnh để thu hút trẻ tham gia thực hiện.
16



(Xem hình ảnh 7: 2.3.4-BP4- ảnh rèn luyện thói quen xếp hàng- Trang 275)
Như vậy, trong các hoạt động ở các thời điểm trong ngày tôi luôn luôn rèn
luyện bằng nhiều hình thức khác nhau vừa nhẹ nhàng, gần gũi, gây được sự
hứng thú của trẻ và dần nề nếp trở thành thói quen bền vững hàng ngày của trẻ.
Ngồi việc tạo thói quen tốt cho trẻ trong khi rèn luyện nền nếp tơi ln trị
chuyện, giao tiếp với trẻ còn giúp cho trẻ phát triển vốn từ, phát triển ngơn ngữ
nói mạch lạc, trẻ tự tin, mạnh dạn giao tiếp khi trị chuyện, đàm thoại cùng cơ.
2.3.5 Biện pháp 5: Tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh để rèn luyện nề
nếp thói quen hàng ngày cho trẻ
Trường mầm non là nơi cha mẹ trẻ tin tưởng và gửi gắm tất cả vào cơ
giáo, trẻ có chăm ngoan khỏe mạnh cha mẹ mới tin tưởng và yên tâm với cơng
việc. Hàng ngày trẻ tới trường cơ chăm sóc cho từ bữa ăn giấc ngủ tới các hoạt
động vui chơi
Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ ở trường khơng phải là đủ mà trẻ phải
được rèn luyện mọi lúc, mọi nơi. Do đó cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
gia đình và nhà trường để hình thành một số nề nếp thói quen tốt cho trẻ.
Trong năm học 2019-2020, Ngay từ đầu năm học,dưới sự chỉ đạo của nhà
trường tôi đã tổ chức họp phụ huynh, thông qua nhiệm vụ trọng tâm năm học và
để đạt hiệu quả tối đa của cuộc họp, trước đó tơi đã dựa vào phân phối chương
trình lập kế hoạch sẵn cho cả năm học, xây dựng qũy thời gian thực hiện cụ thể
từng chủ đề, kế hoạch cho từng thàng, từng ngày, kế hoạch cân, đo sức khỏe cho
trẻ suy dinh dưỡng theo giai đoạn… và đề ra phương hướng để nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ cũng như việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ
trong nhà trường. Trong buổi họp phụ huynh tôi đã tuyên truyền để phụ huynh
hiểu giáo dục dinh dưỡng- sức khỏe là cung cấp cho trẻ kiến thức và trau dồi kỉ
năng nhằm hình thành các nề nếp thói quen tốt, hành vi có lợi cho sức khỏe.
Thơng báo những trẻ suy dinh dưỡng, thấp cịi, và tình trạng những cháu nhút
nhát, chưa mạnh dạn để phụ huynh biết. Vấn đề này đã được đưa ra trước cuộc
họp, đã được phụ huynh đặc biệt quan tâm và thảo luận sôi nổi. Tôi trao đổi với
phụ huynh về kiến thức và sự cần thiết phải rèn luyện nề nếp thói quen hàng

ngày cho trẻ như thế nào. Tôi đề nghị các bậc phụ huynh cần quan tâm tìm hiểu
chương trình chăm sóc giáo dục trẻ trong độ tuổi mầm non, nhất là độ tuổi nhà
trẻ 24- 36 tháng tuổi để tìm ra phương pháp hiệu quả kết hợp cùng nhà trường
trong việc rèn luyện nề nếp thói quen cũng như chăm sóc giáo dục trẻ.
(Xem hình ảnh 8: 2.3.5-BP5- ảnh tổ chức buổi họp phụ huynh đầu năm họcTrang 27)
Hàng ngày vào giờ đón, trả trẻ, tơi cùng cơ giáo ở lớp ln chú ý trao đổi
tình hình sức khỏe, việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ tới phụ huynh kịp
thời
Ví dụ: Tôi trao đổi với phụ huynh về nhà rèn luyện cho trẻ giờ ăn, giấc
ngủ để trẻ ngủ đúng giờ và ăn đủ bữa, nhắc nhở phụ huynh hãy rèn cho con
mình thói quen vệ sinh, thói quen tự phục vụ bản thân hay thói quen giữ gìn vệ
sinh thân thể, thói quen giữ gìn vệ sinh chung vứt rác vào đúng nơi qui định. Khi
17


gia đình và nhà trường cùng phối hợp với nhau trong việc rèn luyện trẻ, điều đó
sẽ khiến cho việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
(Xem hình ảnh 8: 2.3.5-BP5- Cô giáo đang trao đổi với phụ huynh –Trang 27)
Ngồi ra tơi thường sử dụng các kênh thơng tin của zalo, facebook để
thông báo cho phụ huynh được biết hàng ngày con em họ ở trường được học tập,
vui chơi, rèn luyện theo đúng giờ giấc khoa học, và kết quả đạt được là trẻ
không chỉ ngoan mà các bé cịn nhanh nhẹ hoạt bát, thơng minh, biết thực hiện
được một số công việc tự phục vụ vừa sức của mình mà khơng cần bố mẹ hoặc
người thân trong gia đình làm hộ. Qua đó tơi cũng nhận được phản hồi từ phía
phụ huynh khi trẻ ở nhà,từ đó cô giáo và phụ huynh kết hợp để việc rèn luyện nề
nếp cho trẻ được thường xuyên và liên tục mang lại kết quả cao.
Bản thân tôi luôn trao đổi với phụ huynh về việc rèn luyện nề nếp thói
quen hàng ngày của trẻ ở trường là rất cần thiết. Cùng với phụ huynh tơi ln
động viên khuyến khích trẻ ăn nhiều, ăn hết xuất, ăn đầy đủ các chất dinh
dưỡng, thường xuyên rèn luyện nề nếp thói quen để kịp thời uốn nắn cùng với

phụ huynh nhắc nhở và rèn luyện thêm cho trẻ ở gia đình. Giúp việc rèn luyện
thói quen nề nếp của trẻ theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc,
giáo dục trẻ.
Nhờ trao đổi hàng ngày với phụ huynh và nắm được tình hình rèn luyện
nề nếp thói quen hàng ngày của trẻ ở trường, cùng với sự nổ lực chăm sóc giáo
dục các con tận tình, sức khỏe, học tập, rèn luyện nề nếp của các cháu tốt hơn.
Các cô giáo ở lớp đã tạo được niềm tin với phụ huynh, phụ huynh rất tin tưởng
khi đưa con tới lớp. Tôi cũng làm tốt công tác tuyên truyền tới từng phụ huynh
về vấn đề rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ. Phụ huynh đã nhiệt tình ủng hộ,
qun góp nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc
giáo dục trẻ đạt kết quả tốt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi tiến hành các biện pháp trên cuối cùng lớp tôi đã đạt kết quả sau
Bảng khảo sát trên trẻ cuối học kỳ I được thực hiện vào tháng 1/2020
( Nhóm trẻ A1- 24-36 tháng)
TT
Nội dung khảo sát
Tổng số
Đạt
Chưa đạt
trẻ khảo
sát
1 Trẻ có thói quen vệ sinh sạch
19 86.4%
3
13.6%
sẽ
2 Trẻ có thói quen nề nếp trong
18 81.8%
4

18.2%
học tập và vui chơi
22
3 Trẻ có thói quen cất đồ dùng,
22 100%
0
0%
đồ chơi đúng nơi quy định
4 Trẻ có thói quen nề nếp trong
21 95.4%
1
4.6%
giờ ăn- giờ ngủ
5 Trẻ tự giác và có thói quen
20 90.9%
2
9.1%
chào hỏi
6 Trẻ thích và đi học chuyên cần
22 100%
0
0%
18


*Nhận xét:
Sau một thời gian sử dụng các biện pháp này lớp tôi đã thu được kết quả
khả quan hơn so với đầu năm:
+ Trẻ có thói quen vệ sinh sạch sẽ: các cháu về nhà đã biết tự mình làm
một số việc tự phục vụ: Tự xúc ăn, tự uống nước, biết gọi người lớn khi có nhu

cầu đi vệ sinh, khi chơi xong tự cất đồ chơi… biết đọc thơ, hát bi bô cho ông bà,
bố mẹ nghe.số trẻ thực hiện được chiếm tỉ lệ cao so với đầu năm 86,4%, trẻ chưa
thực hiện được giảm hơn so với đầu năm là 13,6% Vì vậy các bậc phụ huynh rất
vui, càng yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan tâm đến việc
học tập của các cháu nhiều hơn.
+ Trẻ có thói quen nề nếp trong học tập và vui chơi của trẻ đã ổn định và
mang lại hiệu quả cao trong các hoạt động trong ngày của trẻ. Số trẻ đạt tăng cao
81,8%, trẻ chưa đạt cịn 18,2%
+ Trẻ có thói quen cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định:qua thời gian
rèn luyện hiện tại tất cả các cháu trong lớp đều biết giúp cô cất đồ dùng, đồ chơi
đúng nơi quy định, hoạt động này trẻ đạt chiếm tỉ lệ cao 100%
+ Trẻ có thói quen nề nếp trong giờ ăn- giờ ngủ: các nề nếp thói quen của
trẻ ở trường như ăn ngủ đúng giờ đã tạo thành nếp cho trẻ khi về sinh hoạt tại
gia đình nó được thể hiện số cháu đạt cao hơn so với đầu năm là 95,4%, trẻ chưa
đạt gảm xuống cịn 4,6%
+Trẻ có thói quen tự giác chào hỏi người lớn, khơng nói tục, chửi bậy,
biết vâng lời ông bà, cha mẹ, yêu quý con vật, biết yêu thiên nhiên, biết quan
tâm đoàn kết với bạn, biết cảm ơn xin lỗi. Số trẻ đạt cao 90,9% số trẻ chưa đạt
giảm xuống còn 9,1%
+Trẻ đã thực sự u mến cơ giáo, các bạn và thích đi học, có nề nếp tham
gia trong mọi hoạt động, trẻ có tác phong mạnh dạn và tự tin hơn, cụ thể là trẻ
thích đi học và đi học chuyên cần đạt cao 100%
Thông qua các biện pháp rèn luyện này mà trẻ lớp tơi đã hình thành nề
nếp thói quen tự phục vụ nên tôi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục một
cách dễ dàng.
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sau một thời gian thực hiện áp dụng các biện pháp rèn luyện nề nếp hàng
ngày cho trẻ tại nhóm trẻ A1. Tơi thấy các hoạt động của trẻ trong lớp tiến bộ rõ
rệt, trẻ yêu trường, yêu lớp, trẻ nhanh nhẹn hoạt bát, biết tự làm một số việc tự

phục vụ bản thân. Thông qua việc áp dụng các biện pháp mới này tôi đã rút ra
được một số bài học kinh nghiệm sau:
+ Bản thân tôi luôn yêu nghề mến trẻ không ngừng bồi dưỡng nâng cao
trình độ chun mơn. Tơi ln linh hoạt sáng tạo các hình thức dạy, rèn luyện
trẻ phù hợp và đạt kết quả cao
+Tôi luôn chú trọng rèn luyện cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, không phân
biệt giữa các trẻ, ln tìm tịi học hỏi sáng tạo nhiều loại đồ dùng đồ chơi mới
phong phú và sinh động để thu hút trẻ. Bản thân luôn là tấm gương tốt, mẫu mực
trong mọi hoạt động,
19


+ Tôi luôn trao đổi thường xuyên và kịp thời với phụ huynh những gì trẻ
làm được và chưa làm được để cùng phối hợp tìm ra nguyên nhân và cách rèn
luyện trẻ tốt nhất.
+ Tôi thường xuyên quan sát tạo cơ hội cho trẻ tự làm các việc phù hợp
với khả năng của trẻ và có hành vi văn hóa.
3.2 Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả của việc rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày
của trẻ 24-36 tháng theo hướng tích cực hóa, tơi có một số kiến nghị sau:
* Về phía nhà trường
+ Ban giám hiệu có sự định hướng chỉ đạo giáo viên các lớp nhà trẻ, các
lớp mẫu giáo thực hiện tốt việc giáo dục rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho
trẻ .
+Thiết lập các kênh thơng tin về chăm sóc giáo dục trẻ để giáo viên trong
nhà trường cập nhật nhanh nhất những tri thức, khoa học hiện đại về quá trình
ni dạy trẻ, vận dụng có hiệu quả những tri thức đó phục vụ trong việc rèn
luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ.
* Về phía giáo viên
+ Khơng ngừng nâng cao, hồn thiện về trình độ chun mơn, nghiệp vụ

để thực hiện tốt chương trình đổi mới trong giáo dục.
+Trang trí,sắp đặt đồ dùng, đồ chơi gọn gang, đẹp mắt, sưu tầm, làm đồ
dùng, đồ chơi từ những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương phục vụ cho các
tiết dạy để trẻ hứng thú
+ Phối hợp với nhà trường và gia đình, cha mẹ trẻ cùng nhau trao đổi, kết
hợp để việc rèn luyện nề nếp cho trẻ ở trường cũng như ở nhà được được tốt
hơn.
Trên đây là một số biện pháp và kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn trong quá
trình tổ chức “rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ 24-36 tháng
tuổi tại nhóm trẻ A1- trường mầm non Đơng Ninh” mà tơi đã tích luỹ được
trong q trình chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Rất mong được sự giúp đỡ
và đóng góp ý kiến của các quý ngành đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
ĐôngNinh, ngày 18 tháng 3 năm 2020
HĐKH CẤP TRƯỜNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
SKKN xếp loại:……………………
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
CTHĐKH
Người viết sáng kiến
HIỆU TRƯỞNG
Lê Thị Lương

Lê Thị Thảo

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
- [1] Tạp chí giáo dục mầm non.
- [2] Tài liệu bồi dưỡng hè 2009 và các văn bản quản lí giáo dục mầm non
- [3]Thơng tư 28/2016/TT-BGD và ĐT
- [4] Mô đul mầm non 30: Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo – Phùng thị
tường
- [5] Tài liệu tâm lí học trẻ em.
- [6]BộGD&ĐT, Nhà xuất bản, Sáchtuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện,
câu đố theo chủ đề ( nhà trẻ 3-36 tháng tuổi)
- Module MN 39: Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ Mầm Non.

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN XẾP LOẠI TỪ C
TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường MN Đông Ninh
Kết
quả
Cấp đánh giá xếp đánh
loại
giá
Năm học
(Ngành GD cấp
TT
Tên đề tài SKKN
xếp đánh giá

huyện/tỉnh;
loại xếp loại
Tỉnh...)
(A, B,
hoặc
C)
Số: 429/PGD&ĐT
Một số biện pháp rèn
V/v thông báo tạm
luyện nề nếp trong sinh
thời kết quả chấm
hoạt hàng ngày của trẻ
SKKN năm học
1
A
2019- 2020
24- 36 tháng tuổi tại
2019-2020. ngày
nhóm trẻ A1 - Trường
22 tháng 6 năm
mầm non Đông Ninh”
2020

2

Một số biện pháp nhằm
phát huy tính tích cực,
chủ động khi tham gia
hoạt động ngồi trời cho
trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi

trường Mầm non Đông
Ninh, huyện Đơng Sơn
3 Một số biện pháp nhằm
phát huy tính tích cực,
chủ động khi tham gia
hoạt động ngoài trời cho
trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi
trường
Mầm non Đông Ninh,
huyện Đông Sơn
4 Một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 2536 thàng tuổi qua hoạt
động nhận biết ở trường
mầm non Đông Ninh

HĐKH cấp Tỉnh

C

2017-2018

HĐKH cấp huyện
Quyết định số
1386/QĐHĐKHSK

A

2017-2018

Hội đồng khoa

học cấp huyện
Quyết định số
1325/QĐHĐKHSK
Ngày 21/6/2017

B

2016- 2017

22


5 Một số biện pháp giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ thông
qua các hoạt động của trẻ
24 – 36 tháng tuổi
6 Một số biện pháp hình
thành biểu tượng về số
lượng, con số, và phép
đếm cho trẻ MG 5-6 tuổi
làm quen với toán

Hội đồng khoa
học cấp huyện

B

2014 - 2015

Hội đồng khoa

học cấp huyện
Quyết định số
175/ QĐ- GD
Ngày 15/5/2014

B

2013 -2014

23


CÁC HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO CÁC BIỆN PHÁP
1.Các hình ảnh minh họa cho biện pháp 1
Hình ảnh 1: (2.3.1- BP1)

Hình ảnh trẻ ngồi học theo sắp xếp của cơ
2.Các hình ảnh minh họa cho biện pháp 2
Hình ảnh 2: ( 2.3.2 – BP2)

Hình ảnh :Trẻ lễ phép khoanh tay trả lời cô giáo
24


3.Các hình ảnh minh họa cho biện pháp 3
Hình ảnh 3: ( 2.3.3 – BP3)

Hình ảnh: rèn luyện nề nếp khi chơi với đồ chơi tự tạo
Hình ảnh 4: ( 2.3.3 – BP3)


Hình ảnh trẻ tập bế em và xúc cho em ăn

25


×