A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Bác Hồ của chúng ta đã dạy “ tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô
cùng quý báu của dân tộc , chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ nó”
Trong các công tác giáo dục trẻ mầm non cho đất nước , chúng ta càng thấy
rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ . Ngôn ngữ góp phần đào
tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện .
Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một
thành viên của xã hội . Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp của trẻ là rất lớn . Ngôn ngữ
là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ
để người lớn có thể chăm sóc , điều khiển và giáo dục trẻ là một điều kiện rất
quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành
nhân cách.
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ . Trước hết
ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh . Bởi vì sự phát
triển trí tuệ của trẻ chỉ diễn ra khi các cháu lĩnh hội những tri thức về sự vật hiện
tượng xung quanh . Song sự lĩnh hội những tri thức đó lại không thể thực hiện
được khi không có ngôn ngữ. Phát triển và hoàn thiện nhân cách dần dần nhân
cách cho trẻ mầm non không những có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển trí tuệ
mà còn tác dụng quan trọng đối với việc giáo dục tình cảm , đạo đức . Ở lứa tuổi
mầm non. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng tronng việc giáo dục tác động có mục
đích , có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng
đắn về cái đẹp trong tự nhiên , đời sống xã hội , trong nghệ thuật, giáo dục trẻ
lòng yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp.
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành
con người phát triển toàn diện . Sự phát triển chậm về mặt ngôn ngữ có ảnh
hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ .Cho nên các nhà giáo dục cần phải đề
ra nhiệm vụ, nội dung , phương pháp phát triển ngôn ngữ trẻ đúng lúc và phù
hợp với lứa tuổi. Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi vốn từ còn ít, mức độ hiểu nghĩa
còn hạn chế, cách sử dụng từ chưa chính xác, với thực tế trẻ ở lớp tôi vốn từ của
trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn. Do đó việc phát
triên làm giàu vốn từ cho trẻ , dạy trẻ nói năng lưu loát, phát âm đúng có kĩ năng
1
trả lời một số câu hỏi, hiểu được yêu cầu đơn giản bằng lời nói là một điều rất
quan trọng. Là giáo viên chủ nhiệm nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi, nhận thúc được
tầm quan trọng của hoạt động NBTN qua quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi
mạnh dạn đề ra “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng
tuổi” đạt được kết quả cao hơn.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Dựa vào dặc điểm phát triển tâm sinh lí trẻ:
- Dựa vào đặc điểm phát triển sinh lí:
Trong sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu của ngôn
ngữ chủ động. Do vậy trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc một số
hạn chế: Phát âm chưa chính xác, hay nói ngọng chữ n – l, chữ x – s, dấu ngã –
dấu sắc, dấu hỏi – dấu nặng. Đồng thời do vài kinh nghiệm còn ít ỏi nên trẻ còn
nhầm lẫn, khi tri giác chủ yếu dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói.
- Dựa vào đặc điểm phát triển tâm lí:
Trẻ thích giao tiếp với người xung quanh và có nhu cầu bằng trực quan, cần
giải đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải. Trẻ thích được người lớn khen , động viên kịp
thời, thích đồ chơi sặc sỡ về màu sắc và có âm thanh, trẻ rất thích bắt chước
người lớn và hay đặt ra câu hỏi. Để giúp trẻ giải đáp được những câu hỏi hàng
ngày thì người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ một cách ngắn gọn dễ nghe
dễ hiểu mặt khác người lớn cần cung cấp thêm kiến thức và thông tin cho trẻ về
thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Là một giáo viên trực
tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ tôi đã chú trọng đến nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ
cho trẻ lên hàng đầu, bởi ngôn ngữ chính là phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức
về thế giới xung quanh một cách dễ dàng và hiệu quả nhất.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát tiển khả năng nghe hiểu ngôn ngữ, trình
bày có logic, trình bày đúng nội dung. Để trẻ mạnh dạn tự tin giao tiếp trước
mọi người chúng ta cần chú ý giúp trẻ thực hiện các yêu cầu sau:
+ “Làm giàu vốn từ cho trẻ”
+ “Xác định nội dung nói” sẽ giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo
rõ ràng.
2
+ La chon t: Sau khi ó la chn ni dung thỡ cn phi la chon t chớnh
xỏc cn thụng bỏo.
+ Din t ni dung núi: Cn dy tr noi ngng ngh ỳng cỏch, luyn cho tr
tỏc phong khi núi, mnh dn t tin.
+ Sp xp cu trỳc li núi: S liờn kt cỏc cõu núi li thnh vi nhau to
thnh chui li núi cú mc ớch nhm din t mt ý trn vn, trn ni dung giỳp
ngi nghe d hiu.
i vi nhúm tr tụi ang ph trỏch tụi thy vic cn thit v quan trng l
phi dy tr phỏt trin c ngụn ng, tr cú th phỏt trin ton din.
II,THC TRNG CA VN :
Qua quỏ trỡnh trc tip chm súc v giỏo dc tr tụi nhn thy: õy l giai
on tr ang hc núi hay bt chc ngi ln v chớnh thi im ny cụ giỏo s
dy tr, un nn tr cỏch núi rừ cõu, cỏch phỏt õm rừ rng. Mun lm c iu
ú ngi giỏo viờn phi cú ý thc trau di ngụn ng, t hc, t rốn luyn cho
mỡnh cỏch núi rừ rng, ngn gn, chớnh xỏc, núi chuyn vi tr ỳng n, thõn ỏi,
lch s. V sau khi ỏp dng iu ú tụi thy rng tr lp tụi ó tin b rt nhiu
v lnh vc phỏt trin ngụn ng.
1.Thun li.
* i vi giỏo viờn:
- Lp c s ch o sỏt sao ca BGH v vic chm súc giỏo dc tr c bit l
hot ng phỏt trin ngụn ng cho tr.
- Bản thân là giáo viên đợc tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, luôn tham khảo sách
báo, tập san, để tìm ra các phơng pháp, biện pháp dạy phù hợp vi tr.
- Giỏo viờn cú trỡnh chuyờn mụn, hiu c tõm quan trng ca vic phỏt
trin ngụn ng , nhit tỡnh trong vic chm súc giỏo dc tr.
- Ph huynh quan tõm n con em mỡnh nhit tỡnh ng h tụi trong vic dy d
cỏc chỏu. Thng xuyờn ng h tụi cỏc nguyờn vt liu lm dựng dy hc
v hot ng vui chi cho cỏc chỏu.
* i vi hc sinh:
- Tr ngoan ngoón , tớch cc tham gia vo cỏc hot ng trng.
2.Khú khn.
3
* Đối với giáo viên:
- Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn đặc biệt là các thiết bị giảng dạy
áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động có chủ đích: Máy chiếu, máy ghi
hình…
- Do trình độ nhận thức không đồng đều, 70% số trẻ lớp tôi lần đầu tiên tới
trường. Do đó gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình chăm sóc giáo dục.
- Đa số phụ huynh bận công việc hoặc một lý do khách quan nào đó mà ít có
thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói trẻ được đáp ứng quá đầy đủ nhu cầu
mà trẻ cần.
* Đối với học sinh:
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng
như trật tự các từ trong câu vì thế trẻ bỏ bớt từ bớt âm khi nói.
- Do điều kiện đặc thù của địa phương có rất nhiều phụ huynh phát âm chưa
chuẩn tiếng phổ thông làm cho trẻ học theo.
-Trẻ nói nhỏ, nói ngọng, vốn từ còn ít.
Kết quả thực trạng trên
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ 24-36 tháng tuổi , tôi đã tiến hành tổ
chức hướng dẫn trẻ thực hiện và thu được kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Kết quả trên trẻ
Tổng
số trẻ
Nội dung đánh
giá
Khả năng
hiểu
25
Tốt
nghe 4=16%
Khả năng phát âm 3=12%
đúng từ
Khả năng diễn đạt 2=0,8%
ngôn ngữ giao tiếp
Đạt
khá
6=24%
Chưa đạt
Trung bình
8=32%
7=28%
5=20%
10=40%
7=28%
5=20%
6=24%
12=48%
4
Từ thực trạng trên về việc phát triển ngôn ngữ của trẻ chính là khả năng
nghe hiểu ngôn ngữ khả năng trình bày có lôgíc, chính xác có trình tự và một nội
dung nhất định. Để trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người ngôn ngữ mạch lạc giúp
người nghe dễ hiểu tôi đã áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 24-36 tháng tuổi” như sau:
III.CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1.Tìm hiểu đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 24-36 tháng tuối.
Ở lứa tuổi này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển hoàn
thiện hơn trước. Trẻ có khă năng phát âm đúng hầu hết các âm và thanh điệu . Số
lượng từ tăng nhanh. Xét về số lượng các âm vị dần dần xuất hiện. Hầu hết các
phụ âm đầu lưỡi chưa được trẻ phát âm đúng hoàn toàn.
Ví dụ:
Âm đ thành âm t: Đóng - tóng.
Âm l thành âm n: Làm - nàm
Âm kh thành âm h: Không - hông
Âm th thành âm ch: Thật - chật
Âm ch thành âm t: Cháu - táu
Âm ng thành âm nh: Ngủ-nhủ
- Trong số các phụ âm đầu thì phụ âm “b, m” được trẻ nói đúng nhất.
- Âm đệm: Các từ có âm đệm khi phát âm thường bị lược bỏ:
Ví dụ:
Hoa – ha
Xoăn- xăn
Quả - cả
Hòe -- hè
- Âm chính : Các nguyên âm dài bốn nguyên âm ngắn và ba nguyên âm đôi đã
xuất hiện trong các từ của trẻ nhưng có một số âm trẻ nói chưa đúng như:
Ví dụ:
ê - â : ếch - ấc
i-ia: bút chì - bút chìa
ươ -iê: hươu - hiêu, rượu - riệu
- Phụ âm cũng xuất hiện trong vốn từ của trẻ, trong đó có một số âm cuối bị trẻ
phát âm sai.
5
Ví dụ:
Âm ng thành n: Uống - uốn
Âm m thành n: Phim - phin
-Thanh điệu: Trong sáu thanh tiếng việt thì thanh ngã và thanh hỏi chưa ổn định,
chúng thường bị trẻ chuyển đổi thành dấu nặng hoặc dấu sắc.
Ví dụ:
Võng -vóng
Ngủ - ngụ
Ngủ - nhủ.
*Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ 24-36 tháng:
- Vốn từ của trẻ là rất ít khoảng 1200- 2000 từ, danh từ và động từ là chiếm ưu
thế, tính từ và các loại từ khác đã được trẻ sử dụng đôi chút.
- Trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ đồ vật con vật, hình dạng, kích thước trong giao
tiếp hàng ngày.
- Ngoài ra các khái niệm: Hôm qua, hôm nay ngày mai trẻ sử dụng còn chưa
chính xác.
* Đặc diểm ngữ pháp:
- Trẻ nói được một số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn của mình
bằng một hai câu đơn giản.
Ví dụ:
“Cô ơi! con uống nước” hoặc đọc các bài thơ 3-5 câu ngắn.
- Trẻ thường sử dụng câu cụt hơn. Trong nhiều trường hợp trẻ dùng từ trong câu
vẫn chưa chính xác.
Ví dụ:
Cô ơi! con muốn cái xe kia.
Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng.
2. Xây dựng các hoạt động phát triển ngôn ngữ.
- Cần xác định chủ đề và nội dung của chủ đề được thực hiện trong thời gian đó.
- Lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ phù hợp với chủ đề đó
- Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề
- Chuẩn bị các phương tiện học liệu theo chủ đề
6
- Lựa chọn cách trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề
- Phân phối các hoạt động theo tuần , ngày và tích hợp nội dung PTNN với các
hoạt động của các lĩnh vực khác.
Ví dụ:
Ở chủ đề “Những con vật đáng yêu” ở nhánh “Những con vật nuôi trong
gia đình” tôi lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ như sau:
+ Trò chuyện: Tôi và trẻ cùng trò chuyên về các con vật nuôi gần gũi trong
gia đình như: Chó , mèo, gà, vịt, ngan…(nhà con nuôi những con vật gì? Tiếng
kêu của chúng như thế nào? Chúng ăn gì?, Chúng được nuôi để làm gì? Chúng
có mấy chân, Lông của chúng như thế nào?...)
+ Đọc thơ , ca dao, đồng dao, tục ngữ.
Đọc bài thơ:
“Con Trâu”
Con Trâu
No bụng ngủ ngon
Nghe gà gáy dồn
Dạy đi cày ruộng”
“Cún Khoang”:
Cún Khoang chăm giữ nhà
Bé về , đuôi ngoáy tít
Chuột chạy, mồm khẽ rít
Khách đến sủa gâu gâu
……..
Các bài đồng dao: Con Gà cục tác lá chanh
Con Lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con Chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
+ Kể chuyện “Gà tơ đi học”,” Đôi bạn tốt”...
+ Trò chơi phát triển ngôn ngữ: Chơi “Gieo hạt nảy mầm, mèo và chim
sẻ…”
+ Làm sách tranh tuyện về các con vật nuôi trong gia đình
7
- Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề nhánh “ Những con vật nuôi trong
gia đình”:
Ví d ụ:
Ở góc xây dựng tôi cho trẻ xây chuồng cho Vịt , Ngan, Trâu, Bò
Ở góc hoạt động với đồ vật tôi cho trẻ xâu các con giống theo hai màu xanh đỏ
xen kẽ nhau.
Ở góc đóng vai tôi cho trẻ chơi trò chơi bác sĩ khám bệnh các chú chó, mèo,
Ở góc âm nhạc tôi cho trẻ biểu diễn các bài hát về các con nuôi trong gia đình:
“Gà trống mèo con và cún con”. “Con gà trống”, “Một con vịt”. “Rửa mặt như
mèo”….
- Chuẩn bị phương tiện học liệu phù hợp với chủ đề: Tôi chuẩn bị đồ dùng trực
quan là các con vật thật, chúng được chăm sóc sạch sẽ và an toàn với trẻ. Sử
dụng máy tính, băng đĩa có hình ảnh các con vật nuôi trong gia đình cho trẻ quan
sát và đàm thoại.
- Lựa chọn cách trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề: Tôi trang trí nhóm lớp
bằng tranh ảnh các con vật có liên quan đến chủ đề “Những con vật nuôi trong
gia đình” ở các góc trong nhóm lớp sao cho trẻ dễ quan sát và đàm thoại.
- Phân phối các hoạt đông theo tuần: Mỗi tuần tôi lên kế hoạch cung cấp kiến
thức cho trẻ về 2-3 con vật nuôi trong gia đình tùy vào khă năng của trẻ .
3. Phát triển nôn ngữ thông qua giờ hoạt động có chủ đích.
* Để tổ chức tôt hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi đạt kết
quả cao cô cần phải xác định rõ mục đích yêu cầu của đề tài các hoạt động để áp
dụng hình thức nào cho phù hợp với trẻ , chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho tốt đảm
bảo an toàn vệ sinh , chính xác linh hoạt. Ở lứa tuổi này trẻ thường hay trả lời
trống không hoặc nói những câu không có nghĩa vì vậy tôi luôn thường xuyên
nhắc nhở trẻ và nói mẫu cho trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại theo
cô. Tôi tạo điều kiện dáp ứng nhu cầu của trẻ một cách tỉ mỉ, chu đáo, ngắn ngọn
dễ hiểu, chính xác để mọi hoạt động của trẻ trong giờ hoạt đông chung đạt hiệu
quả nhất.
Ví dụ: Ở chủ đề “Cây xanh , hoa quả và những bông hoa đẹp” Với giờ hoạt
động có chủ đích NBTN “Quả cam, quả táo.”
8
Sau khi giáo án được soạn đầy đủ, tôi chuẩn bị các loại quả thật, xây dựng
mô hình vườn cây ăn quả, và chuẩn bị các lô tô về các loại quả để chuẩn bị cho
trẻ hoạt động để đạt được kết quả tốt nhất.
Để gây hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ hát bài “Đố quả” trò chuyện một chút về
chủ đề dang thực hiện, tôi cho trẻ đi thăm mô hình vườn cây ăn quả tôi cùng trẻ
trò chuyện bằng hình thức đặt câu hỏi gợi mở, khuyến khích trẻ trả lời, để trẻ có
cảm giác được đi thăm quan vườn cây chứ không phải là trẻ bị gò ép học bài.
- Các con có thích được đi thăm quan vườn cây ăn quả không?
- Ai làm ra vườn cây ăn quả?
- Có những loại cây ăn quả nào mà các con thấy trong vườn của bác nông
dân?
- Cô chỉ vào tùng loại cây và hỏi trẻ cây cho quả gì? Quả có màu gì?…
=>Mỗi câu hỏi tôi cho một vài trẻ trả lời sau đó cho cả lớp được nhắc lại.
Tôi chú ý sửa sai và khuyến khích trẻ nhắc lại. (trẻ nói “Cả táo”cô sửa lại “Quả
táo”,”Quả hế” cô sửa lại “Quả Khế” và cho cả lớp cùng nhắc lại.
Thông qua hoạt động NBTN trẻ được nói nhiều và có kiến thức cơ bản về
các loại quả mà cô cung cấp. Qua họt động trẻ được giáo dục thêm về yêu quý và
bảo vệ cây xanh vì cây xanh không những cho chúng ta bóng mát mà còn cho
chúng ta những loại quả ngon cung cấp nhiều Vitamin và Muối khoáng.
* Khi dạy trẻ dọc thơ, ca dao, đồng dao:
- Khi đọc thơ cho trẻ nghe giáo viên đọc diễn cảm rõ ràng toàn bộ bài thơ, kết
hợp với động tác minh hoạ nhẹ nhàng, chú ý các từ tượng hình , tượng thanh.
- Ngoài các hoạt động luyện tập có chủ định dạy trẻ đọc thuộc bài thơ tôi đọc
cho trẻ nghe các bài thơ (ca dao, đồng dao) có nội dung phù hợp với chủ đề và
với thời điểm lúc đó.
Ví dụ: Trình tự dạy trẻ đọc thuộc bài thơ:
+ Tôi đọc diễn cảm bài thơ nhiều lần và khuyến khích trẻ đọc nhẩm theo cô
+ Cho từng trẻ hoặc tốp 2-3 trẻ đọc toàn bộ bài thơ. Nếu trẻ gặp khó khăn , cô
có thể nhắc nhẹ nhàng giúp trẻ nhớ lại và đọc tiếp đến hết bài thơ.
+ Cô cùng cả lớp đọc lại bài thơ.
+ Cho trẻ vừa đọc vừa làm động tác mô phỏng, minh họa nội dung bài thơ.
9
+ Ngoài các lần dạy trên giờ chơi tập có chủ định tôi cồn đọc thơ cho trẻ
nghe và dạy trẻ đọc ở mọi lúc mọi nơi.
*khi dạy trẻ kể chuyện.
-Tôi bố trí cho trẻ ngồi thuận tiện sao cho tất cả trẻ đều nhìn được cô và đồ dùng
minh họa
- Trước tiên tôi khơi gợi hứng thú của trẻ đến việc nghe kể chuyện
Ví dụ: Với câu chuyện “Đôi bạn tốt” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách tạo tình
huống: Có bạn vịt con và gà con cùng nhau đi kiếm ăn vịt con thì bơi xuống ao,
còn gà con thi ở trên bờ tìm giun , có một con chó sói nấp ở đó nó rình gà con
liệu chó Sói có bắt được gà con không? Muốn biết câu trả lời thì các con hãy
lăng nghe cô kể câu chuyện nhé!
- Tiếp theo tôi kể chuyện kèm theo đồ dùng minh họa, kết hợp với cử chỉ điệu
bộ minh họa nhẹ nhàng gây sự chú ý của trẻ.
- Mỗi câu chuyện cần kể cho trẻ nghe vài lần , tùy theo từng lần kể mà giúp trẻ
hiểu nội dung câu chuyện , nhớ được trình tự các sự kiện của câu chuyện , hiểu
và biết cách sử dụng các từ ngữ văn học nghệ thuật trong mỗi câu chuyện .
Ví dụ: Tôi hỏi trẻ các câu hỏi sau:
+ Tên câu chuyện là gì? Ai đây? Bạn đang làm gì? Trong câu chuyện
có những ai?
+ Làm gì? Đang làm gì? Ở đâu?
+ Như thế nào? Tại sao? Để làm gì?
- Tôi cho trẻ mô phỏng hành động hoặc lời nói của các nhân vật trong truyện.
- Tôi kể lại diễn cảm 1 - 2 lần có kèm tranh minh họa hoặc cũng có thể không
tranh minh họa
- Với các truyện ngắn có nội dung đơn giản nhất là các truyện thơ dễ nhớ , có thể
cho trẻ tự kể lại cùng với sự giúp đỡ của tôi.
- Để giúp trẻ nhớ và kể lại được truyện tôi đã kể lại truyện cho trẻ nghe vào các
hoạt động chơi, đặc biệt vào các hoạt động chiều mỗi ngày.
*Kể truyện theo tranh.
- Trò chuyện về bức tranh
- Trước tiên tôi để vài phút cho trẻ tự xem tranh, tự trò chuyện với nhau
10
về bức tranh.
- Tôi hướng dẫn trẻ xem tranh bằng cách đặt các câu hỏi về nhân vật, hành
động , đặc điểm, trạng thái của nhân vật.
Ví dụ:
+ Ai đây? Con gì đây? Cái gì đây? Màu gì?
+ Đang làm gì? Như thế nào? Để làm gì?
+ Có những ai? Có nhứng cái gì?
+ Hãy làm giống ai đó?
- Xen kẽ các câu hỏi cho từng trẻ với các câu hỏi đồng thanh cho cả nhóm trả
lời.
- Để trẻ hiểu rõ hơn các hình ảnh và gọi tên các nhân vật, hành động.
- Trong tranh, tôi đã phối hợp các thủ thuật khác nhau như: Nói mẫu, nhắc lại,
giảng giảí, khen ngợi trẻ, nhắc nhở và bắt chước các hành động trong tranh.
* Với hoạt động âm nhạc:
Ví dụ: Họat động dạy hát ở chủ đề Giao thông.“Em tập lái ô tô” Trò chơi tai ai
tinh”
Tôi hỏi trẻ:
- Cô vừa hát cho các con nghe bài hát gì?
- Bài hát nói về ai? Lớn lên con thích làm gì?
- Cô cùng các con hát bài hát này nhé!
- Cô hỏi trẻ tên bài hát và tác giả?
- Cô giảng nội dung và hỏi lại trẻ?
- Ô tô là phương tiện giao thông đường gì?
- Khi tham gia giao thông các con phải làm gì?
- Ngồi trên xe các con phải làm gì?
- Tổ chức trò chơi: Cô gõ các dụng cụ âm nhạc và hỏi trẻ tên dụng cụ đó?
=>Qua đó giáo dục trẻ khi tham gia giao thông phải có sự giúp đỡ của
người lớn. Khi ngồi trên xe phải ngồi im , không được thò đâu hoặc tay ra cửa sổ
xe khi đi ô tô, Tàu hỏa…
11
Tóm lại: Trong tất cả các hoạt động cô phải luôn luôn linh hoạt trong mọi
cử chỉ , từ khi bắt đầu tiết học đến khi kết thúc tiết học thì giữa các phần phải có
sự liên kết thông nhất thì giờ học mới hấp dẫn thu hút trẻ và đạt kết quả cao.
4.Cho trẻ nhận biết tập nói ở mọi lúc mọi nơi.
Để phát triển tốt ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, tôi đã dạy trẻ ở các
hoạt động có chủ định như: Âm nhạc, kể truyện, đọc thơ và dạy trẻ ở mọi lúc
mọi nơi. Ngoài ra tôi còn áp dụng lồng môn học này để tích hợp cho môn học
khác cho tiết học thêm sinh động kích thích sự say mê học của trẻ.
4.1. Thông qua giờ đón trẻ. Tôi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi.
- Con đã chào cô và các bạn chưa?
- Con chào mẹ rồi vào lớp với cô, chiều mẹ đến đón.
- Hôm nay ai đưa con đi học?
- Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì?
- Sáng nay con được mẹ cho ăn gì?
- Trước khi đi học con chào ai ở nhà nữa nhỉ?
Sau khi đón trẻ xong tôi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích , trẻ được chơi
tự do Trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang học và
tự mình khám phá. Trẻ có thể trò chuyện cùng cô và các bạn về bức tranh mà trẻ
thấy.(tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vong của trẻ sau đó nhằm
thỏa mãn nhu cầu tò mò ham học hỏi chủ trẻ). Từ đó trẻ sẽ được nói nhiều và
ngôn ngữ cũng sẽ phát triển theo hướng tích cực.
4.2. Thông qua hoạt động góc.
Thông qua trò chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận được trước đây được
chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các tri
thức đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ. Đồng thời tạo ra các
tình huống để trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ đã tích lũy được.
Ví dụ:
Thông qua trò chơi “Người bán hàng, em tập làm cô giáo...” , trò chơi dân
gian như: “Nu na nu nống”,” Tập tầm vông”…trẻ được tự mình nói và đóng vai
các nhân vật.
4.3. Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ hoạt động lao động.
12
Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra cơ sở vật chất cho xã
hội, nhưng chúng ta phải giáo dục trẻ ý thức lao động, cho trẻ tham gia váo các
công việc lao động nhẹ nhàng, lao động tự phục vụ mình. Khi trẻ được tham gia
vào các hoạt động lao dộng , trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với đồ dùng lao
động, đồ dùng sinh hoạt… Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng
chưa có và khắc sâu các biểu tượng đã có. Từ đó trẻ sẽ biết sử dụng ngôn ngữ
trong các hoạt động lao động. Vốn ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
Ví dụ: Trẻ biết nói Cái ca , Cái chậu, Cái khăn, Cái chổi, Cái xúc rác…
4.4. Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi tham quan
Dạo chơi tham quan có tác dụng rất lớn đối với các việc mở rộng tầm hiểu biết
cho trẻ. Vì vậy dạo chơi tham quan có tác dụng to lớn trong việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các hiện tượng tự nhiên. Trẻ biết thế nào là mưa , là
nắng, gió…
- Khi cho trẻ đi tham quan trẻ biết thêm một số các khái niệm về các Địa danh.
4.5. Phát triển ngôn ngữ trong giờ hoạt động hàng ngày,
Ngoài các giờ hoạt động có chủ đích, giờ hoạt động chơi, giờ hoạt động lao
động… Trẻ còn có giờ ăn, giờ ngủ . Ở những giờ này tôi đã dạy nói thêm cho
trẻ . Trong khi giúp trẻ tiến hành các công việc hàng ngày . Tôi lựa chọn nghững
nội dung thích hợp và nòi tên các công việc đó cho trẻ biết.
Ví dụ: Ở giờ ăn trước khi trẻ ăn tôi hỏi trẻ tư thế ngồi, ăn uống như thế nào là vệ
simh và cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”. Ở giờ ngủ: Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi
ngủ”
Tóm lại:
Việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi là một nhiệm vụ
cơ bản và thiết thực. Những người làm công tác giáo dục trẻ ở mọi lứa tuổi mầm
non phải biết tận dụng mọi hình thức dạy nói cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Và tôi đã làm điều đó cho trẻ của lớp mình.
5. Tổ chức môi trường và sử dụng đồ dùng cho hoạt động giáo dục phát
triển ngôn ngữ.
13
Trước hết tôi xác định rằng: Tổ chức môi trường và sử dụng đồ dùng cho
hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ chính là: Sử dụng những nguyên vật liệu
nào sẵn có tại địa phương có thể sử dụng cho hoạt động phát triển ngôn ngữ của
trẻ: Về tên gọi? Cách sử dụng? Cho trẻ ở lứa tuổi nào? tác dụng đối với trẻ trong
việc phát triển ngôn ngữ ? Ta cần quan tâm tới những điểm sau:
- Môi trường hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cần đảm bảo không khí
thân thiện , đầm ấm , vui vẻ thoải mái.
- Môi trường có sự giao tiếp , hướng dẫn bằng lời nói, cử chỉ hành động
- Có đủ các trang tiết bị , đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoat động giáo dục
PTNN: rối, sách tranh, truyện, sách khổ to, chữ to, băng đài, cát sét…
- Việc sắp xếp bố trí các góc chơi phải tăng cường tính độc lập cho trẻ khi hoạt
động, thuận tiện cho trẻ dễ lấy và sử dụng ; dễ dàng cho việc giám sát của giáo
viên.
- Góc sách , thư viện được đặt nơi yên tĩnh có ghế, đủ không gian cho trẻ hoạt
động.
- Các góc chơi cần được thay đổi phù hợp với chủ đề và chỉ nên xác định 2 hoặc
3 góc trọng tâm.
- Môi trường vật chất:
+ Đồ chơi bằng nhựa hoặc cao su mềm, phát ra âm thanh về các con vật, phương
tiện giao thông, bóng , các loại quả…
+ Tranh ảnh , sách về các con người, con vật, hoa quả, phương tiện giao thông,
đồ chơi gần gũi với trẻ.
+ Các bộ tranh kể truyện (kể truyện theo tranh, kể truyện theo tác phẩm văn học,
tranh chủ đề)
Ví dụ: Ở lớp tôi được nhà trường cung cấp 1 quyển truyện tranh , một quyển thơ
theo chủ đề. Và tôi cũng sưu tầm được rất nhiều tranh để ứng dụng vào tiết học
kể truyện theo tranh (Sự phát triển của cây, Gà con sinh ra như thế nào,…)
+ Tôi làm một số sách tranh cho trẻ xem bằng bìa cứng và vải ni nông mà
phụ huynh đã ủng hộ.
14
+ Tôi phối hợp cùng phụ huynh sưu tầm các bài hát ru, các bài hát của trẻ
em, các nhạc cụ các đồ chơi âm nhạc. Tạo điều kiện cho công tác giáo dục trẻ
phát triển ngôn ngữ.
+ Tôi sử dụng các nguyên vật liệu, các hiện tượng tự nhiên.
+ Các vật liệu đã qua sử dụng: Tạp chí, tranh ảnh, sách , báo cũ…
- Khai thác , sử dụng đồ dùng đồ chơi:
+ Các nguyên vật liệu tự nhiên: Lá cây, sỏi, hạt, quả khô, cát nước…
+ Các phế liệu, phế thải: Vỏ chai, cúc áo, tạp chí, tranh ảnh, sách báo cũ…
+ Các đồ dùng đồ chơi được sản xuất theo danh mục : Các bán thành phẩm,
các lô tô, đô mi nô, thẻ số, sử dụng các bài tập trên giấy …
+ Các hiện tượng tự nhiên được coi là phương tiện hữu hiệu cho trẻ quan
sát, phát hiện và trao đỏi về những biến đổi
+ Cơ thể của trẻ được coi là phương tiện trực quan.
+ Sử dụng hợp lý máy vi tính .
Ví dụ: Khi dạy trẻ về các phương tiện giao thông tôi đã trình chiếu power point
cho trẻ quan sát và kết quả là trẻ rât hứng thú với sự mới mẻ này. Trẻ đưa ra rất
nhiều các câu hỏi về các phương tiện giao thông mà trẻ thấy ( Cô ơi máy bay sao
lại có cánh? Máy bay kêu thế nào? Xe máy có bay không?...) qua đó ngôn ngữ
của trẻ cũng được phát triển và trẻ còn biết được thêm nhiều thông tin rằng nhờ
có cánh mà máy bay mới bay được, xe máy chỉ cỏ thể chạy được ở trên đường
bộ thôi…)
6. Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp.
Trong quá trình trò chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử dụng các loại câu
hỏi khác nhau. Các câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng , dễ hiểu, là những câu hỏi mở
để phát triển tư duy sáng tạo của trẻ.
- Câu hỏi kích thích trẻ nhận biết phân biệt sự vật, hiện tượng tình huống mà trẻ
đang trực tiếp tri giác , gợi ý trẻ đến hoạt động:
Ví dụ:
+ Ai đây? Cái gì đây? Màu gì ? Hình gì?
+ Ở đâu? Khi nào? Bao giờ ?
+ Với ai? Cho ai? Để cho ai ?
15
+ Người này, Những con vật này đang làm gì?
+ Có những thứ gì? (có gì ở trên bàn, có gì ở trong túi/giỏ? Có
những .
đồ dùng gì ở trong bếp
+ Cần những gì? (con cần gì để rót nước uống, con cần gì để xúc
cơm
ăn?...)
- Câu hỏi kích thích trẻ tìm hiểu sâu về bản chất sự vật, hiện tượng , tả sự vật nêu
đặc điểm sự vật cảm xúc của bản thân.
Ví dụ:
+ Tiếng kêu này của con gì? Tiếng gõ này của dụng cụ nào?
+ Bên trong túi/hộp có gì?
+ Hai quả này quả nào to hơn?
+ Chỗ nào nhiều hơn, Chỗ nào ít hơn? Cái nào to hơn? Cái nào bé
hơn?
+ Trời hôm nay mưa hay không mưa?
+Trong bức tranh có những ai? Có nhũng con vật nào?
- Câu hỏi kích thích trẻ giải thích , phỏng đoán suy doán diễn biến và kết quả sự
vật hiện tượng .
Ví dụ:
+ Cái này dùng để làm gì?
+ Con vật này có ích lợi gì?
+ Phương tiện này dùng để làm gì?
+ Nhờ cái gì mà chim bay được?
+ Làm thế nào để nước có vị ngọt?
+ Cháu xếp nhà như thế nào?
- Câu hỏi kuyến khích trẻ giải thích ý kiến, đánh giá sự vật.
Ví dụ:
+ Tại sao thỏ con lại khóc?
+ Cái này dùng để làm gì?
+ Vì sao chim lại biết bay?
+ Tại sao cháu lại giúp bạn?
16
+ Con thích cái nào? vì sao?
=>Sau khi sử dụng đa dạng các loại câu hỏi với trẻ tôi thấy sự thay đổi rõ
rệt ở trẻ lớp tôi. Trẻ tiến triển về nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm. Trong khi trò
chuyện, đàm thoại tôi sử dụng câu hỏi một cách linh hoạt tùy thuộc vào sự phát
triển của trẻ.
7. Tuyên truyền và phối hợp vơi phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ phát
triển ngôn ngữ.
Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ. Trẻ em là một tờ giấy
trắng thì gia đình và nhà giáo dục là những cây bút màu vẽ lên những tác phẩm
đầy màu sắc cho trẻ vì thế công tác giáo dục phối hợp giữa gia đình và nhà
trường là một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao hoạt đông phát triển ở trẻ
đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
- Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ
huynh biết và phối hợp với giáo viên để rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, dụng cụ hóa
trang, vỏ chai , non bia sạch…
- Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: Nói ngọng, ít nói, để phụ huynh
phối kết hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt
hơn.
- Tôi phô tô thêm các tài liệu : Thơ, truyện, bài hát để phụ huynh nắm bắt được
chương trình , kết hợp dạy trẻ ở gia đình, như vậy sẽ tận dụng được thời gian dạy
trẻ, phát triển tư duy với môi trường xung quanh, ngôn ngữ trẻ được phát triển
tốt.
Sau khi phối kết hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vố từ của trẻ
được phát triển khá rõ, đặc biệt là việc nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát
âm chuẩn, nói rõ ràng trẻ hoạt động một cách sôi nổi tự tin, giao tiếp trước mọi
người không còn rụt rè e sợ. Tôi thấy thực hiện được biện pháp này là khoa học
và hợp lý mang lại hiệu quả rất cao.
IV.KIỂM NGHIỆM.
Từ những biện pháp trên tôi đã áp dụng trên trẻ và đạt được một số kết quả
như sau:
17
- Trẻ mạnh dạn tự tin và hăng hái tham gia vào các hoạt động.
- Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, vốn từ của trẻ
phong phú. Trẻ nói được nhiều câu có nhiều từ, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng mạch
lạc, trẻ nói ngọng chiếm tỉ lệ thấp.
- Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm đạt được như sau:
Kết quả trên trẻ
Tổng
số trẻ
Nội dung đánh giá
Khả
hiểu
25
năng
Tốt
nghe 10=40%
Khả năng phát âm 8=32%
đúng từ
Khả năng diễn đạt 6=24%
ngôn ngữ giao tiếp
Đạt
khá
9=36%
Chưa đạt
Trung bình
5=16%
1=4%
6=24%
9=36%
2=8%
5=20%
8=32%
2=8%
Dạy trẻ ở giai đoạn này vô cùng quan trọng và thiết thực vì đây là cơ sở
ban đầu giúp trẻ phát triển toàn diện vì thế ngôn ngữ đóng vi trò rất quan trọng.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
*Kết luận:
Trong quá trình thực hiện tôi đã đúc rút lên một số kinh nghiệm sau: Để
phát triển toàn diện về mặt ngôn ngữ thì nhiệm vụ của người giáo viên là:
- Tạo môi trường giao lưu ngôn ngữ tự do , thoải mái. Tạo cơ hội cho trẻ nghe
âm thanh khác nhau từ môi trường xung quanh.
- Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ , khích lệ động viên , thu hút trẻ trò chuyện
với giáo viên, với các bạn và với những người khác .
- Hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học thiếu nhi phù hợp với khả năng
của trẻ
- Tổ chức cho trẻ hoạt động kết hợp với lời nói trong các trò chơi, bài hát , đóng
kịch.
- Tôn trọng khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng câu, từ.
18
- Quan sát đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của từng trẻ để lên kế hoạch phù hợp
với khả năng của trẻ trong lớp.
- Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ , từ đó có biện pháp thích
hợp để giúp đỡ trẻ.
* Đề xuất
Đề xuất với Phòng giáo dục tổ chức các tiết học về cách sử dụng các
phương tiện nghe nhìn tiên tiến: Cách sử dụng máy chiếu hình, ghi hình…và bổ
sung thêm tài liệu học tập cho giáo viên mầm non về sử dụng các phương tiện
nghe nhìn để phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn.
Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp , các ngành lãnh
đạo địa phương mua sắm trang thiết bị , đồ chơi ngoài trời cho trẻ . Xây dựng
trường chuẩn Quốc gia để trẻ có điều kiện học tập và vui chơi tôt hơn. Xây dựng
khuôn viên trường có vườn hoa, cây cảnh vườn cây ăn quả, vườn cây của bé , để
giúp trẻ hoạt động đạt kết quả cao hơn.
Trong quá trình thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu nhà
trường và các đồng nghiệp , giúp tôi làm phong phú hơn kinh nghiệm dạy trẻ
phát triển ngôn ngữ nói riêng và các môn học khác nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nga Bạch , ngày 5 tháng 4 năm 2012
Người viết:
Hoàng Thị Thùy.
19