Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

HÌNH TƯỢNG đất nước TRONG THƠ CA VN 1945 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.6 KB, 9 trang )

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH
-Mơn học:Ngữ văn
-Lớp:12D1
-Nhóm:tổ 3
-Chủ đề thuyết trình: Hình tượng đất nước trong thơ ca Việt Nam 1945-11975
-Giáo viên:Tạ Thị Vân
-Danh sách nhóm và phân cơng:
THÀNH VIÊN
NHIỆM VỤ
Thái Thị Mỹ Hạnh
tổ trưởng,phân công cv,làm báo
cáo
Đinh Quang Hùng
thu thập tài liệu
Đinh Mai Anh
thu thập tài liệu
Phùng Mai Linh
thu thập tài liệu
Nguyễn Đình Sáng
thu thập tài liệu
Nguyễn Mai Linh
thu thập tài liệu
Trần Thúy Ngà
thu thập tài liệu
Trần Thị Diệu Linh
thuyết trình
Nguyễn Diệu Hằng
thu thập tài liệu
Võ Thu Hằng
thuyết trình
Huỳnh Ng Hoài An


làm powerpoint


BÀI BÁO CÁO:
HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ CA VIỆT NAM 1945-1975
Quê hương đất nước là nguồn thơ không bao giờ vơi cạn trong văn học nước ta. Nó xuyên suốt và là
nguồn cảm hứng chủ đạo trong mạch nguồn thơ dân tộc. Đất nước, đó là nơi mỗi chúng ta oa…oa cất
tiếng khóc chào đời,nơi những kỉ niệm ngọt ngào nhất in vào chúng ta qua những lời ru: Con cị bay
lả bay la…Là mảnh đất ơng cha ta đã nằm xuống cùng đồng đội mình, là Tháp Rùa rêu phong cổ
kính, là Trường Sơn mây mù che phủ. Để rồi mỗi chúng ta không khỏi bồi hồi khi đọc những câu thơ
mà hình ảnh, vóc dáng Tổ quốc hiện ra đến nao lịng:
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”
=> Như một mảng màu làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học Việt Nam , đất nước
trong thơ ca giai đoạn 1945-1975 là sự kế thừa và phát triển có tính biện chứng của thơ ca truyền
thống với những phẩm chất cao đẹp và mới mẻ, giản dị và đằm sâu.
I.KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM CHUNG
-Thơ ca 1945 - 1975 tập trung đi vào khắc họa hình tượng đất nước và con người Việt Nam trong hai cuộc
chiến tranh vệ quốc hào hùng của dân tộc: kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp
-Ở đó, đất nước và con người Việt Nam hiện lên rõ ràng hơn bao giờ hết với vẻ đẹp tỏa sáng, anh dũng,
kiên cường, bất khuất.
II.QUAN NIỆM VỀ ĐẤT NƯỚC TRONG THI CA GIAI ĐOẠN 1945-1975
Đất nước là khái niệm thân quen mà thiêng liêng, gần gũi mà trừu tượng; đã có hàng ngàn bài thơ
viết về đất nước mà ở đó mỗi tác giả đều đưa ra những định nghĩa, lý giải xúc cảm… của mình.
1.Đất nước-Nguyễn Đình Thi
- Điều khá thú vị trong thi phẩm “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi ở chỗ: Khi thể hiện ý thức làm
chủ đất nước, hình tượng đất nước được miêu tả trong cái nhìn khơng gian. Nhưng khi gợi tả hồn đất
nước, truyền thống dân tộc, tác giả lại cảm nhận đất nước theo chiều dài thời gian
-Cách định nghĩa đất nước của Nguyễn Đình Thi như tạo ra một khơng khí trang trọng thiêng liêng
trầm hùng khi nói về lịch sử dân tộc.

- Trong cảm quan của Nguyễn Đình Thi đất nước là bầu trời xanh bao la, tươi đẹp hiền hoà, đất nước
là ruộng đồng thẳng cánh cò bay thơm ngát hương lúa. Đất nước là những ngả đường bát ngát xuôi
ngược từ Bắc vào Nam rộng dài từ Đơng sang Tây. Đất nước cịn là những dịng sơng phù sa màu
mỡ.
2.ĐẤT NƯỚC-Nguyễn Khoa Điềm
- Về cách định nghĩa về “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca “Mặt đường khát
vọng”, có thể nói ngắn gọn: Đó là tư duy thơ mới mẻ.
- Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa “Đất Nước” theo lối chiết tự và qui tụ về tư tưởng “Đất nước của
Nhân dân”, khiến cho hình tượng “Đất Nước” hiện ra trong sự hình dung của người đọc vừa lớn lao,
thiêng liêng, vừa gần gũi, quen thuộc.
- Cách định nghĩa Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm rất thơ và khúc chiết, không chung chung trừu
tượng mà khá cụ thể. Quan niệm đó, vừa có tính kế thừa, vừa phát triển mang ý nghĩa triết lí rộng
lớn. Đất nước vốn là khái niệm khơng gian, đã được nhà thơ thời gian hoá, từ phạm trù khách quan,
chuyển hoá thành chủ quan: Đất Nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người: “Trong
anh và em hơm nay - Đều có một phần Đất Nước - Khi hai đứa cầm tay - Đất Nước trong chúng ta


hài hoà nồng thắm”... Đất Nước được cảm nhận như sự thống nhất hài hồ của các phương diện văn
hố, truyền thống, phong tục tập quán, đời sống cá nhân và cộng đồng... Cách định nghĩa “Đất
Nước” theo lối qui nạp trong “Mặt đường khát vọng” thể hiện chiều sâu, bề rộng văn hoá, những trải
nghiệm, suy tưởng riêng và xúc động mãnh liệt, chân thành của Nguyễn Khoa Điềm.
=> Như vậy, cả Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm đều có cách định nghĩa khác nhau về đất
nước. Điều đó đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về hình tượng đất nước. Điểm chung
lớn nhất trong cảm quan đất nước của hai thi nhân là đều cắt nghĩa đất nước từ cội nguồn văn hoá,
lịch sử độc đáo, từ khơng gian địa lí cụ thể đến khơng gian có tính chất biểu trưng của dân tộc Việt.
Cách định nghĩa đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi thực tế là sự tiếp nối cách
định nghĩa đất nước từ thời Lí Thường Kiệt và Nguyễn Trãi.
II.VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC
1.Đất nước tươi đẹp
a,Vẻ đẹp thiện nhiên

a.1 Việt Bắc-Tố Hữu
Với Việt Bắc, đất nước thật giàu đẹp, Tố Hữu đem đến cho ta những bức tranh tuyệt diệu về quê
hương cách mạng Việt Bắc. Có những bức tranh chan hòa màu sắc, đường nét, ánh sáng, âm thanh
thật bình dị và thơ mộng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
a.2 Đất nước-Nguyễn Đình Thi
-Vẫn là Việt Bắc nhưng Nguyễn Đình Thi lại cảm nhận vùng đất này ở phát hiện rất riêng, Đất nước
của ông bắt đầu từ Hà Nội: “Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Cảm xúc về Hà Nội đã dẫn dắt vào cảm xúc đất nước. Từ hôm nay mà nhớ về hôm qua. Chỗ đứng
của tác giả là giữa chiến khu Việt Bắc còn hoài niệm trở về là một phố phường Hà Nội xa xăm. Hai
bờ thời gian ấy nối liền với nhau bằng cơn gió mùa thu, một tín hiệu mùa thu ngàn đời không đổi: cái
mát trong và một chút hương trầm (hương cốm mới). Cơn gió hơm nay gợi về cơn gió ngày nào gần
gũi đó mà rất xa xơi trong cái chớm lạnh đầu mùa, trong cái xao xác khơng gian:những phố dài xao
xác hơi may. Phải có một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế mới cảm nhận được cái mơ hồ phảng phất ấy.
Lặng lẽ mà dồn dập, tự nó thành nhạc, mùa thu nay khác rồi là ở đây chăng? Hà Nội xưa đẹp, buồn.
Giờ Việt Bắc đẹp, vui. “Cảnh chỉ vui khi lòng người đang vui, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”
(Nguyễn Du). Tâm trạng của Nguyễn Đình Thi lúc này phải chăng cũng là tâm trạng của Chế Lan
Viên: con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ - cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa dù đó là hai hoàn
cảnh khác nhau. Niềm vui ấy cang lúc càng mở rộng, bao trùm cả trời xanh, núi rừng:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta



Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sơng đỏ nặng phù sa”
-Hình tượng Đất nước được Nguyễn Đình Thi xây dựng bằng những vẻ đẹp của thiên nhiên xanh
tươi, dạt dào sức sống. Cảm nhận đất nước từ chỗ đứng, tấm lòng của chúng ta, nên đất nước hiện lên
vừa bình di, vừa rất đỗi thân thương. Âm điệu các câu thơ ở đây quấn quýt cộng với nhịp dài ngắn,
tất cả tạo nên dáng hình một đất nước trường chinh trên vạn dặm dài lịch sử, một đất nước mang vẻ
đẹp tầm vóc của một thời đại mới. Và đó cũng là nỗi lịng u quý tha thiết non sơng, đất nước của
chính tác giả Nguyễn Đình Thi.
a.3 Bên kia sơng Đuống
- Hồng Cầm đã biến những dịng thơ truyền cảm của mình thành đường dẫn lối ta về với quá khứ
của vùng Kinh Bắc tươi đẹp- một vùng quê tươi đẹp, trù phú, ngọt lành, thơm thảo tình đất tình
người, đậm đà bản sắc văn hóa vật chất và tinh thần với biết bao di tích lịch sử, đền đài, biết bao hội
hè gắn với những sinh hoạt văn hóa nổi tiếng như Hội Gióng, Hội Lim, Hội Chùa Dâu,... Có thể nói
âm hưởng và nhịp điệu thơ đọng lại trong lòng mỗi người đọc là âm hưởng trầm bổng của những làn
điệu dân ca đất Kinh Bắc rất đỗi quen thuộc với tâm hồn Việt Nam. Bài thơ Bên Kia Sông Đuống là
một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ Hoàng Cầm. Nếu như phần đầu tiên, Hoàng Cầm hay
nhắc đến những hình ảnh bình yên thơ mộng của làng quê trù phú vùng quan họ thì đến phần sau,
tác giả hồi nhớ về những nét văn hóa của quê hương Kinh Bắc, những nét truyền thống đặc sắc, bắt
rễ sâu kín trong tâm hồn ông:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
a.4 ĐẤT NƯỚC-Nguyễn Khoa Điềm
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Ngày xửa ngày xưa là ngày nào ? Miếng trầu bây giờ bà ăn- một miếng trầu giản dị, đơn sơ đã vắt
ngang bao nhiêu thế kỷ để còn lại đến bây giờ ? Miếng trầu mở ra cả một đời sống tinh thần của
người dân miếng trầu là đầu câu chuyện. Và cứ thế cái định nghĩa Đất nước là những gì có thể bắt
gặp ở ngay trong cuộc sống mỗi gia đình, mỗi con người, gắn liền với những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Những tập quán bới tóc sau đầu chẳng phải tự nhiên mà có. Trong quan niệm của
nhân dân, cái đẹp phải gắn liền với cuộc sống thường ngày, với công cuộc mưu sinh vất vả, cái đẹp


phải gọn gàng. Trong hịa bình, để có được miếng cơm manh áo thì phải đổ mồ hơi nước mắt, phải
xay, giã, giần, sàng,... làm nên đất nước muôn đời.
-Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm còn là Đất nước của ca dao thần thoại, Đất nước của nguồn cội.
Đó là dòng giống con Lạc, cháu Rồng :
“Hằng năm ăn đâu làm đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
Khơng chỉ là sự thành kính với tổ tiên. Mỗi người Việt với nhau cịn có cái nghĩa đồng bào vì Lạc
Long Quân và Âu Cơ- Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng. Đó là chiều dài lịch sử của đất nước.
Về không gian địa lý, đất nước là núi sơng, rừng và bể Con chim phượng hồng bay về hịn núi Bạc,
Con cá ngư ơng móng nước biển khơi. Đất nước cịn là cái khơng gian sinh tồn gần gũi với cuộc
sống con người : đất là nơi anh đến trường- nước là nơi em tắm- Đất nước là nơi ta hị hẹn. Đây
chính là cái nhìn tồn vẹn của nhà thơ về Đất nước.
=>Ở nhiều góc độ khác nhau, từ một bờ bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đến một vùng núi rừng
Việt Bắc của Tố Hữu, một Đất nước của Nguyễn Đình Thi rồi Nguyễn Khoa Điềm...quê hương Việt
Nam lần lượt hiện lên với vẻ đẹp riêng có đặc sắc của nó. Có lúc q hương hùng vĩ, tráng lệ, có lúc
thì thơ mộng, hiền hịa.
b,Vẻ đẹp con người

Khơng chỉ khám phá vẻ đẹp ở thiên nhiên, các nhà thơ trong thời kỳ này còn đi sâu khám phá những
nét đẹp trong tâm hồn con người. Nếu như thơ ca cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp, thì
ở đây các nhà thơ hiện đại lại lấy chuẩn mực từ con người, con người trong thơ hiện đại hiện ra rất
rõ nét, chân thật, không bị che lấp bởi cảnh vật thiên nhiên như thơ xưa.
- Rất tự nhiên, Hoàng Cầm lồng hình ảnh quê hương vào trong hình ảnh những truyền thống văn
học. Những hình ảnh con người xứ Kinh Bắc duyên dáng, dễ thương, những cô hàng xén răng đen
môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già tóc trắng, những khn mặt búp sen cười như mùa thu tỏa nắng.
Hình ảnh con người dưới ngịi bút tài hoa của Hồng Cầm hiện lên duyên dáng, kỳ ảo đến lạ thường.
-Con người là chủ thể của thiên nhiên, chính thiên nhiên làm nền nổi bật hình ảnh con người. Như
đã nói ở trên mỗi khung trời, mỗi cảnh vật Tây Bắc là một bức tranh nên thơ thì trên nền tranh ấy là
hình ảnh con người hịa điệu vào nhau trong lao động, trong cuộc sống thanh bình, dung dị. Ở đó là
dáng vẻ con người khỏe khoắn đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng, có chút tỉ mỉ, cần cù, chịu khó
của người đan nón chuốt từng sợi giang, và không khỏi xốn xang trước vẻ đẹp hồn nhiên, hiền hịa
trong hình ảnh hùng vĩ của núi đồi Phong Châu.
- Điều đặc sắc ở đây là cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về nhân dân, về những con người bình
thường đã làm nên Đất nước:
“Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha”
-Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của Đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng
nổi tiếng mà trước hết nhắc đến vơ vàn những lớp người vơ danh bình dị:
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm


Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Những con người vơ danh và bình dị đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa,
văn minh tinh thần và vật chất của dân tộc: từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói, ngơn ngữ. Họ cũng là

những người khi có ngoại xâm thì chống ngoại xâm- có nội thù thì vùng lên đánh bại.
=>Bằng những giác quan nhạy cảm, những nhà thơ hiện đại đã khám phá, phát hiện những vẻ đẹp
thiên nhiên và vẻ đẹp trong tâm hồn con người.
2.Đất nước đau thương nhưng anh dũng bất khuất
Càng tự hào về hình tượng đất nước giàu đẹp, trù phú của ngày xưa bao nhiêu, ta càng đau đớn, xót
xa bấy nhiêu khi chứng kiến cảnh quê hương bị giày xéo dưới gót giày quân xâm lược tàn bạo. Bốn
bài thơ, mỗi bài có một cách thể hiện riêng nhưng tất cả đều dựng nên hình tượng một đất nước đau
thương trog cuộc kháng chiến ác liệt chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc Pháp – Mĩ.
a.1 Bên kia sông Đuống
-Hình tượng đất nước đau thương ấy bắt đầu với một hình ảnh giàu sức gợi “rụng bàn tay”. Con sơng
Đuống như một sinh thể có hồn, có vía nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì nay bờ bên
kia đã bị giặc chiếm đóng, đứng bên này vùng tự do kháng chiến tác giả như chết đi nửa người: “Sao
xót xa như rụng bàn tay”. Hình ảnh đó là nỗi đau đã cụ thể hóa, nỗi đau của chết chóc, chia lìa.
Những câu thơ như nhói vào tim ta và tan ra giữa một biển tình cảm mênh mơng. . Cũng bởi vì tình
cảm yêu thương ấy mà nhà thơ đau đớn đến tột cùng và Bên kia sông Đuống ra đời sau một đêm thức
trắng viết theo dòng cảm xúc. Nỗi căm hờn xót xa khi quê hương xiết bao u dấu chìm ngập trong
khói lửa chiến tranh được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh thật ấn tượng:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khơ
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đơi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
-Vừa nhớ về những ngày tháng yên bình, hạnh phúc thuở xưa, vừa đau xót trước thực tại phũ phàng,
nhà thơ đưa ta vào trong nhịp thơ dồn dập, hối hả, ngắt quãng thể hiện một nỗi căm hận tột cùng. Có

sống trong làng quê thanh tịnh với: Xanh xanh bãi mía bờ dâu- Ngơ khoai biêng biếc ta mới thấu hết
nỗi đau của nhà thơ khi phải nhìn những giá trị bị hủy diệt mà khơng có cách nào cứu vãn. Hình ảnh
đặc rưng của xứ Kinh Bắc: Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong- Màu dân tộc sáng bừng trên giấy
điệp nay đã khơng cịn, thay vào đó là sự chia lìa, ngăn cách: Mẹ con đàn lợn âm dương- Chia lìa đơi
ngả- Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã- Bây giờ tan tác về đâu. Đâu cịn nữa: Mấy trăm năm
thấp thống mộng bình n- Những hội hè đình đám- Trên núi Thiên Thai- Trong chùa Bút ThápGiữa huyện Lang Tài; để rồi gửi về may áo cho ai- Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu. Đại từ
phiếm chỉ ai làm câu hỏi tu từ của nhà thơ như rơi tõm vào khoảng trống mênh mông, vào hố sâu của


tuyệt vọng, hụt hẫng. Điệp khúc: Tan tác về đâu; nay người ở đâu hiện diện như một nỗi khắc khoải
mong chờ day dứt đầy nhức nhối thương đau.
Nếu ở bài thơ Núi đôi Vũ Tao diễn tả nỗi đau trước cảnh quê hương bị tàn phái bằng hình ảnh thật
đáng nhớ:
“Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc đến
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”
Thân cau nơi ngõ chùa bình yên cũng phải cháy đổ, sự đau thương mất mát lên đến cực điểm; thì ở
Bên kia sơng Đuống nỗi đau cực tả bởi kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang, ruộng khơ nhà cháy, dịng nước
mắt của những người dân vơ tội lăn dài. Đã khơng cịn nữa cuộc sống n bình ngày xưa với những
nàng mơi thắm má đào cười như mùa thu tỏa nắng, những cụ già tóc bạc phơ, em nhỏ ngây thơ trong
sáng… Bao vùng đất yêu thương, địa danh quen thuộc chợ Sủi, bãi Trầm Chỉ, núi Thiên Thai, chùa
Bút Tháp… nay chôn vùi theo lửa đạn chiến tranh khốc liệt để lại trong lòng người điệp khúc ngân
nga khắc khỏi: Bây giờ đi đâu về đâu…
-Nỗi đau ấy còn được đãy lên cao độ bở hình ảnh mẹ già nua và bầy con thơ vơ tội.
a.2 Đất nước-Ng Đình Thi
-Nỗi đau thương ấy được đúc kết lại trong gương mặt đất nước bị hủy diệt tàn bạo trong số phận cực
nhục của người dâ nô lệ:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bây còn dằng khỏi miệng ta

Thằng giặc tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da”
-Qủa thật, khơng có gì đê hèn hơn lũ giặc giữ cướp phá và giết hại người vô tội để thỏa mãn lịng
tham muốn, mục đích bất chính của mình. Chẳng những bóc lột dân ta tàn bạo, chúng còn ra sức vơ
vét và giết hại những người dân vô tội quanh năm một nắng hai sương, cần cù chất phát. Tội ác của
chúng khiến: Từng gốc lúa bờ tre hồn hậu- Cũng bật lên thành tiếng căm hờn. Để rồi tất cả thốt lên:
Đã có đất này chép tội- Chúng ta không biết nguôi hờn (Bên kia sơng Đuống).
a.3 Việt Bắc-Tố Hữu
-Việt Bắc khơng nói đến những nỗi đau như thế bởi bài thơ vừa là một khúc ca ân tình ân nghĩa cách
mạng, lại vừa là một bài ca chiến thắng của một thời kì lịch sử. Do đó, đau thương của đất nước chỉ
được bộc lộ giá tiếp qua nỗi gian khổ, khó khăn trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
a.4 ĐẤT NƯỚC –Nguyễn Khoa Điềm
Qua trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước đau thương tuy
khơng thể hiện rõ nét nhưng ta vẫn cảm nhận được điều đó qua lịch sử đau thương mà hào hùng. Dù
giọng văn khơng đau đớn xót xa như Bên kia sơng Đuống, khơng căm phẫn như Đất nước của
Nguyễn Đình Thi cũng khơng nhiều minh chứng rõ ràng về khó khăn, gian khổ trong chiến đấu như
Việt Bắc nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa trong từng lời văn đầy tự hào ta vẫn thấy hiện hữu nỗi đau qua
bốn nghìn năm thăng trầm lịch sử:
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con


Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết khơng
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”

Đó đâu chỉ đơn thuần là nỗi gian khổ khi chống giặc bảo vệ Tổ quốc mà còn là đức hi sinh và những
mất mát to lớn chưa gọi thành lời.
=>Bốn nhà thơ, bốn phong cách, bốn cá tính sáng tạo với bốn vúng quê khác nhau và nỗi đau thương
được khắc họa ở nhiều cung bậc nhưng đọng lại trong tất cả vẫn là nỗi đau xót khắc khỏi trước cảnh
quê hương bị tàn phá tan hoang dưới gót dày quân xâm lược. Qua đó bộc lộ niềm căm phẫn tột đỉnh
với bọn giặc dữ đồng thời thể hiện tấm lòng yêu nước thiết tha của các tác giả.
=> Có thể nói, các bài thơ đã tạc nên bức tượng đài sừng sững về đất nước. Tuy phải chịu bao mất
mát đau thương trong chiến tranh nhưng khơng vì thế mà ta tuyệt vọng bng xi; ngược lại lịng
căm thù đã hóa thành sức mạnh, niềm tin chống lại lũ cướp nước đê hèn thể hiện qua những vần thơ
hùng tráng, bi mà không lụy.
b, Anh dũng kiên cường,bất khuất
Và những tháng ngày chiến đấu gian khổ đầy vất vả hi sinh ấy đã làm sáng ngời hình tượng một đất
nước bất khuất – quật khởi – kiên cường.
-Tinh thần anh dũng ấy trước hết thể hiện ở lòng căm thù giặc sục sôi và sự tự nguyện đứng lên
chống lại kẻ thủ hung bạo để giành lại từng tấc đất của q hương
-Khơng chỉ dừng lại ở đó, hình tượng đất nước kiên cường bất khuất còn thể hiện ở tinh thần đoàn
kết chống giặc ngoại xâm, là niềm lạc quan u đời, khơng nao núng trước bao khó khăn gian khổ.
III.TỔNG KẾT
Tóm lại,với mỗi bài thơ hình tượng đất nước lại mang những nét đẹp riêng. Nếu với Hoàng Cầm
đất nước gắn liền với vùng Kinh Bắc cổ kính, Tố Hữu với Việt Bắc ân tình- ân nghĩa thì Nguyễn
Đình Thi lại khắc họa hình tượng đất nước từ đau thương hiện lên tươi thắm vô ngần và Nguyễn
Khoa Điềm với tư tưởng Đất nước của nhân dân. Nhưng dù thế nào thì tựu chung lại vẫn là những
tình cảm yêu mến, tự hào về một đất nước giàu đẹp, một dân tộc anh hùng- tình nghĩa, và càng tự hào
bao nhiêu lại càng đau xót, căm phẫn khi đất nước rơi vào tình cảnh đau thương, mất mát. Để rồi từ
đó cất cao tiếng hát ngợi ca về một đất nước anh dũng trong chiến đấu, tỏa sáng, rạng ngợi và vẹn
trịn to lớn: từ mái tóc xanh đầu nguồn Pắc Bó, tới gót chân hồng mũi Cà Mau.
Mỗi bài thơ là một gương mặt đẹp về đất nước: giàu đẹp, đau thương trong chiến tranh và kiên cường
, bất khuất trong chiến đấu, thơng qua hình ảnh một vùng đất Kinh Bắc dân gian- cổ kính, một quê
hương cách mạng Việt Bắc tình nghĩa- anh hùng, một đất nước trưởng thành tỏa sáng theo chiều dài
lịch sử dân tộc và một đất nước của nhân dân với những giá trị lâu bền trong . Hình tượng đất nước

ấy bắt nguồn từ truyền thống yêu nước cao đẹp được hun đúc suốt mấy ngàn năm lịch sử dân tộcvà
còn được khơi nguồn từ những thử thách ác liệt của lịch sử 30 năm đấu tranh 1945-1975.


=> Thế nên chính những trang thơ đó đã bộc lộ thấm thía, cảm động tấm lịng u nước của con
người Việt Nam , khơi dậy trong lịng mỗi cơng dân Việt niềm tự hào dân tộc, tình yêu, sự gắn bó
cũng như trách nhiệm đối với đất nước trong hiện tại và tương lai.



×