Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

SKKN tạo HỨNG THÚ học TV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 10 trang )

I. Lí do chọn đề tài
Tiếng việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc
Tiểu học. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic, việc học Tiếng Việt
sẽ giúp các em hình thành và phát triển tư duy ngơn ngữ.
Chúng ta đều biết, lớp 1 là lớp đầu cấp nên việc dạy Tiếng Việt cho học
sinh vô cùng quan trọng trong việc tạo nền tảng, tiền đề để các em tìm tòi, phát
hiện kiến thức trước mắt cũng như trong tương lai. Ở lớp 1, các em phải học tốt
Tiếng việt thì khi chuyển sang học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được
những yêu cầu cao hơn của các môn học khác, thuận lợi cho việc học tập sau
này. Năm học 2021-2022 là năm học thứ hai thực hiện chương trình giáo dục
phổ thơng 2018. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt lớp 1 là dạy và học theo
hướng phát triển phẩm chất và năng lực hủa học sinh.Cũng như các thầy cô giáo
khác, tôi luôn trăn trở, tìm tịi, từng bước thực hiện việc đổi mới phương pháp
giảng dạy phát huy tính năng động, sáng tạo, phát triển phẩm chất và năng lực
của học sinh. Yêu cầu đặt ra là khi học xong lớp 1 các em phải đọc thơng viết
thạo. Kết quả đó chỉ đạt được khi các em có hứng thú khi học mơn này. Các em
có hứng thú thì các em mới chủ động lĩnh hội kiến thức mới, hiệu quả giờ học
mới đạt kết quả cao. Chính vì lí do đó tơi đã mạnh dạn đưa ra : “ Một số giải
pháp tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1”
II.TÊN GIẢI PHÁP
“Một số giải pháp tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1”
III. LĨNH VỰC ÁP DỤNG GIẢI PHÁP
- Giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 1
IV. NGÀY GIẢI PHÁP ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU
- Ngày 21 tháng 9 năm 2021.
IV. NỘI DUNG CỦA GIẢI PHÁP.
1. Thực trạng học Tiếng Việt của học sinh lớp 1.
Năm học 2021-2022 tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 1B với
32 em học sinh, trong đó có 1 em lưu ban. Trong thời gian đầu dạy học môn
Tiếng việt tôi cảm thấy :



Có những em rất say mê nghe cơ giáo giảng bài và tương tác với các hoạt
động của cô rất tốt, tuy nhiên cũng có em khơng tập trung, khơng để ý cơ giáo
nói gì, u cầu gì, mà thậm chí làm việc riêng, có những em thì mắt nhìn ra cửa
sổ, hoặc nằm gục xuống bàn. Từ việc học sinh không hứng thú học Tiếng việt
dẫn đến giờ học trở nên trầm lắng, căng thẳng.Tối đến có nhiều phụ huynh gọi
điện phàn nàn với tơi: “cháu khơng thích học Tiếng Việt, chỉ thích học Tốn. Cứ
nhắc đến đọc bài, viết bài là cháu khóc”. Tơi cảm thấy rất lo lắng.
Trong đầu tôi lúc này đặt ra câu hỏi: Tại sao lớp học trở nên như vậy, tại
sao các em khơng có hứng thú học mơn Tiếng Việt mà khi học những môn học
khác các em lại rất hào hứng, phải chăng phương pháp dạy môn Tiếng việt của
tôi chưa phù hợp, chưa lôi cuốn hay bài giảng chưa hấp dẫn. Tơi đã tìm hiểu
ngun nhân và tơi cũng thấy rằng: Thứ nhất mình chưa đổi mới phương pháp
dạy học, thứ hai chưa biết vận dụng linh hoạt các hình thức và phương tiện dạy
học phù hợp. Đó chính là những nguyên nhân gây ra làm lớp học trầm lắng chưa
gây hứng thú cho học sinh. Để khắc phục được các thực trạng đó, tơi đã đưa ra
một số giải pháp và đã áp dụng vào thực tế, cụ thể như sau:
2. Nội dung giải pháp
2.1. Giải pháp thứ nhất: Sử dụng trò chơi trong dạy học.
Trò chơi học tập là trò chơi gắn liền với các hoạt động học tập và nội
dung bài học giúp học sinh khai thác kinh nghiệm vốn có của bản thân để chơi
và để học. Trong q trình chơi trị chơi các em sẽ bộc lộ nhiều cảm xúc rất rõ
ràng như: niềm vui khi thắng và buồn bã khi thua; vui mừng khi đồng đội hồn
thành nhiệm vụ, bản thân cảm thấy có lỗi khi khơng làm tốt nhiệm vụ của mình.
Vì tập thể mà cố gắng hết khả năng để mang lại chiến thắng cho tổ, nhóm của
mình. Đây cũng chính là đặc tính thi đua rất cao của trị chơi học tập. Đặc biệt,
đối với mơn Tiếng Việt thì trị chơi học tập càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong
việc tạo hứng thú học cho học sinh.
Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng
cố kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các



trị chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập
cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới.
Trong quá trình dạy học Tiếng Việt, tơi dựa theo nội dung của từng chủ
đề, từng bài và điều kiện thời gian trong mỗi tiết học để thiết kế trò chơi sao cho
phù hợp. Trị chơi học tập có thể tổ chức ở cả 4 hoạt động.
Đối với chương trình GDPT 2018 nói chung và đối với mơn Tiếng Việt
nói riêng thì trị chơi học tập là 1 phần khơng thể thiếu trong mỗi bài học.
Trong giờ học Tiếng việt lớp 1 tơi thường tổ chức trị chơi ở 2 phần: phần
khởi động và phần ghép chữ cái tạo vần,tạo tiếng mới.
- Phần ôn và khởi động: Tôi thường cho học sinh chơi trị chơi ai nhanh
hơn . Tơi mời 3 em lên chơi, ở dưới lớp làm trọng tài.
+ Cách tiến hành: giáo viên viết một số âm, vần, tiếng đã học lên bảng,
giáo viên sẽ đọc đến từ nào thì học sinh phải tìm từ đó, em nào tìm nhanh và
đúng nhiều hơn thì em đó sẽ thắng cuộc.
- Phần ghép chữ cái tạo vần và tiếng mới.
+ Cách tiến hành: Khi cả lớp cùng ghép chữ cái tạo tiếng,1 quản trò lên
cho cả lớp chơi, quản trò gọi đến tên bạn nào thì bạn đó sẽ đọc tiếng mình vừa
ghép được, sau đó cả lớp đánh vần lại tiếng đó.Trị chơi kết thúc khi quản trị
gọi tên được 5 bạn.
Trò chơi học tập được sử dụng như một phương pháp tổ chức cho học
sinh khám phá và chiếm lĩnh nội dung học tập hoặc thực hành, luyện tập một
kĩ năng nào đó trong chương trình mơn học. Đây là một phương pháp có tác
dụng hịa đồng sâu rộng và thu hút mức độ tập trung của học sinh mà ít có
phương pháp nào sánh kịp. Hơn thế nữa, từ mối quan tâm và hoạt động của
học sinh thể hiện qua tiết học có trị chơi sẽ làm cho học sinh thêm u thích
mơn học. Trị chơi giúp phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và tri
thức. Trò chơi làm học sinh phát triển về năng lực một cách tự nhiên, giúp các
em trao đổi kinh nghiệm, tương tác lẫn nhau, từ đó các em tiếp thu kiến thức

một cách dễ dàng và tự nhiên hơn.


Có thể tổ chức trị chơi theo các hình thức khác nhau như: thi đua giữa
các đội, thi đua giữa các cá nhân và thi đua giữa các nhóm. Từ đó giúp các
em tiếp thu bài học một cách tích cực, tự giác.
* Lược đồ quá trình dạy học vận dụng phương pháp dạy học trị chơi tốn học.
- Bước 1: Giới thiệu trò chơi
+ Nêu tên trò chơi: mỗi trò chơi cần một cái tên cụ thể, hấp dẫn để thu hút
học sinh tham gia: Chèo thuyền, Đi chợ, Ai nhanh hơn,…
+ Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi.
Giáo viên phổ biến luật chơi một cách cụ thể, dễ hiểu để học sinh nắm bắt
được cách chơi. Lưu ý cho học sinh một số lỗi các em có thể gặp phải khi tham
gia trị chơi.
Luật chơi: chính là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá thống nhất các
hành động chơi của mọi HS. Luật chơi có thể là một yêu cầu hoặc hai, ba yêu
cầu mà mọi người chơi đều phải thực hiện. Việc xác định luật chơi phải căn cứ
vào nội dung chơi và cách thức chơi của trò chơi. Luật chơi là yêu cầu bắt buộc
hành động của mọi người chơi phải thực hiện thì mới đem lại kết quả chơi cuối
cùng, ai có kết quả chơi nhanh và đúng thì người đó thắng cuộc. Hành động chơi
(cách thức chơi) được GV xác định sau khi đã vạch ra được mục đích của trị
chơi, nội dung chơi, luật chơi. Cách chơi gồm hình thức tổ chức chơi; cách GV
hướng dẫn và giải thích các hành động chơi giúp HS hiểu luật chơi và biết chơi
thực sự; là hành vi và cách thức chơi cụ thể mà HS
- Bước 2: Chơi trò chơi
Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi, có thể chơi theo ca nhân hoặc chơi
theo nhóm nhỏ. Học sinh tham gia chơi theo đúng luật chơi đã phổ biến và chơi
trong khoảng thời gian đã quy định. Giáo viên theo dõi cá nhân hoặc các nhóm
chơi, có thể giúp đỡ những cá nhân gặp khó khăn.
- Bước 3: Tổng kết trò chơi.

Kết thúc và tổng kết kết quả chơi. Giáo viên nhận xét thái độ của học sinh
tham gia chơi, khen ngợi những cá nhân (nhóm) chơi tốt, nhắc nhở những cá


nhân ( nhóm) chơi chưa hiệu quả và tổng kết những tri thức được rut ra qua trò
chơi, những sai lầm cần tránh.
Tơi nhận ra rằng khi tổ chức trị chơi học sinh đều hứng thú với giờ học
giúp các em có tâm thế thoải mái, bớt căng thẳng, tiếp thu bài tốt hơn và ngôn
ngữ của các em ngày càng được trau dồi nhiều hơn.
2.2. Giải pháp 2: Động viên, khen ngợi học sinh kịp thời
Khen ngợi là một phần thưởng tinh thần to lớn đối với học sinh tiểu học.
Lời khen giúp các em tạo động lực và cải thiện kết quả học tập. Hiện nay, cả
giáo viên và phụ huynh đều đánh giá cao sự khích lệ, động viên học sinh của
thông tư 27. Việc động viên, khích lệ học sinh kịp thời sẽ giúp học sinh tự tin,
nhân cách của học sinh ngày càng được kiện tồn, hành vi tích cực sẽ được phát
huy. Ngược lại, phê bình, trách mắng, chỉ trích làm cho lịng tự trọng của trẻ bị
tổn thương.

Chính vì vậy hàng ngày thay vì trách phạt và chê bai học sinh tơi sẽ dành


cho các em những lời khen ngợi trân thành khi các em có sự tiến bộ. Đối với
những em đọc bài chưa tốt, chữ viết chưa đẹp, làm bài còn mắc lỗi tơi gợi ý để
các em tìm ra lỗi sai trong bài và sửa lại dưới sự dẫn dắt của cơ giáo.
Ngồi nhận xét bằng lời, tơi dùng cử chỉ, ánh mắt, nụ cười hay những cái
xoa đầu để khích lệ các em. Những em nào tiến bộ tơi có thể thưởng bơng hoa,
sticker hay thư khen cuối tuần. Khi các em được nhận những lời khen, thư khen
của cô các em cảm thấy rất vui và hạnh phúc.
Bên cạnh đó, tơi thường xun viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học
tập của học sinh để động viên, khích lệ các em.

2.3. Giải pháp thứ ba: Sử dụng đồ dùng trực quan
Như chúng ta đã biết đồ dùng trực quan ( tranh ảnh, đồ vật thật đều gây
hứng thú cho học sinh trong giờ học. Vì đồ dùng trực quan giúp cho việc dạy
học cụ thể hơn, vì vậy tăng khả năng tiếp thu kiến thức về các sự vật, hiện
tượng.
Ở Tiểu học phần lớn các em rất tị mị, rất hứng thú với đồ dùng trực
quan. Chính vì vậy tơi đã sử dụng đồ dùng trực quan vào bài dạy để thu hút học
sinh.
Trong giờ dạy Tiếng việt lớp 1 có phần đọc từ, đọc đoạn văn, luyện nói,
dạng bài ơn tập và kể chuyện có phần kể chuyện tôi sẽ sử dụng vật thật và tranh
minh họa câu chuyện để các em tập trung và nhớ bài học lâu hơn.


Ví dụ trong phần đọc từ, có từ vở vẽ, quả chanh, kính râm, muốn học sinh nhận
biết được sự vật và đọc được từ đó, tơi sẽ đưa ra 1 quyển vở vẽ, 1 quả chanh,
hay chiếc kính râm cho học sinh quan sát.Qua đó học sinh biết được vở vẽ, quả
chanh, kính râm dùng làm gì và đọc nhanh được từ đó .


2.4. Giải pháp thứ tư: Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Một trong những định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực là ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào dạy học, điển hình là sử dụng giáo
án điện tử. Ngày nay, giáo án điện tử được sử dụng rất phổ biến bởi những tiện
ích mà nó đem lại nhưng làm thế nào để mỗi giáo án điện tử có chất lượng, thực
sự phát huy được hiệu quả, góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ
học mà không gây sự nhàm chán thì cần sự sáng tạo, sự đầu tư nghiêm túc của
giáo viên. Bởi vậy, tôi luôn đầu tư thời gian, cơng sức, trí tuệ cho mỗi bài soạn,
sử dụng linh hoạt và phong phú các hiệu ứng.
Đặc biệt sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 có rất nhiều kênh hình và kênh
chữ nên việc thiết kế giáo án điện tử với hiệu ứng đổi màu chữ, gạch chân dưới

yêu cầu của đề bài sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn. Hoặc khi tóm tắt bài tốn có
thể dùng hình ảnh phù hợp để minh họa cho đề bài. Khi tổ chức trị chơi có thể
thêm âm thanh như tiếng chng, tiếng vỗ tay,…để thu hút sự chú ý của học
sinh.


Ngồi ra, tơi thường xun vào các trang violet, kinhnghiemdayhoc.net.
Hành trang số,… để tham khảo cách thiết kế giáo án điện tử của đồng nghiệp.
Bên cạnh đó, tơi cịn ứng dụng CNTT vào việc hỗ trợ cho các em còn hạn
chế về nhận thức. Tơi lập nhóm học trực tuyến để bổ trợ kiến thức tốn cho các
em theo hình thức nhẹ nhàng, học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt là trong bối
cảnh hiện nay, với những áp lực từ công việc, từ cuộc sống đã khiến nhiều phụ
huynh rất ít thời gian ở bên con, nhiều đứa trẻ có thể bị rơi vào trạng thái cơ đơn
trong chính ngơi nhà của mình nên việc tạo sân chơi lành mạnh cho trẻ là vơ
cùng cần thiết, trong đó có một phần trách nhiệm của các thầy cô. Bởi vậy, tôi
thường tạo những sân chơi cho các em thông qua việc ứng dụng công nghệ
thông tin và đặc biệt là những trị chơi tốn học.
Việc ứng dụng CNTT khơng chỉ góp phần tạo được hứng thú cho học sinh
mà cịn làm cho tình cảm giữa cơ với trị, trị với trị ngày thêm gắn kết . Khơng
chỉ những thời gian trên lớp mà ngay cả khi ở nhà tôi đã thực sự trở thành người
mẹ thứ hai của các em.
V. HIỆU QUẢ GIẢI PHÁP
Sau 1 thời gian áp dụng các biện pháp này tôi thấy đa số các em đều
hứng thú khi học mơn Tiếng việt. Giờ học có sự thay đổi rõ rệt: Lớp học sôi
nổi, học sinh chăm chú nghe cô giảng và tương tác với các hoạt động của cô rất
tốt. Tiết kiệm thời gian cho giáo viên.
Chất lượng học sinh được cải thiện, giúp phụ huynh yên tâm, tin tưởng
vào phương pháp dạy học của giáo viên.
* Kết quả thực hiện
Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến

- Tỉ lệ học sinh hứng thú với môn Tiếng Việt đạt 55%
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng giải pháp
- Tỉ lệ học sinh hứng thú với mơn Tiếng Việt đạt 94%
Trong q trình thực hiện giải pháp, tơi đã cố gắng tìm đọc những tài liệu
dạy học của bộ môn cũng như học hỏi từ đồng nghiệp .Tuy nhiên đề tài cũng
không tránh khỏi những sai sót. Tơi sẽ tiếp tục vận dụng và tham khảo ý kiến
đồng nghiệp để giải pháp này càng hiệu quả và hoàn thiện thêm.
VI. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ÁP DỤNG GIẢI PHÁP.


- Về giáo viên.
+ Không ngừng trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững kiến thức
cần cung cấp. Từ hệ thống kiến thức đó GV sâu chuỗi lại để có định hướng
giảng dạy cung cấp kiến thức cho HS đúng trọng tâm hơn. Khơng những thế,
GV cịn cần có lịng nhiệt tình tâm huyết.
+ Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài.
+ Trong từng tiết học cần vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy
học khác nhau.
+ Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Về nhà trường:
+ Cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất như, máy chiếu, tranh, ảnh, đồ dùng trực
quan….để tạo điều kiện cho các em học tập tốt.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×