Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.04 KB, 114 trang )

DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB Asia Development Bank
BOD Biological Oxygen Demand
COD Chemical Oxygen Demand
GATT General Agreement on Tariffs and Trade
ITC International Trade Central
HS Harmonised System
MOI Ministry of Industry
MONRE Ministry of Natural Resources and Environment
MFN Most Favoured Nation
NT National treatment
SPS Agreement on the Application of Sanitary and Phytosanitary Measures
TBT Technical barriers to trade
WTO World Trade organisation
VND Vietnam dong
VSC Vietnam Steel Cooperation
WTO World Trade Organization

MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển hết
sức mạnh mẽ. Trong giai đoạn 2001 – 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
khá cao, GDP tăng bình quân 7,5%, với khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và
thuỷ sản mức tăng trung bình là 3,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%,
dịch vụ tăng 7%. Cơ cấu của nền kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng của các ngành công nghiệp, xây dựng trong GDP
tăng từ 36,7% năm 2000 lên mức 41% năm 2005. Kết quả này chứng tỏ tầm
quan trọng của ngành công nghiệp, xây dựng trong sự tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp đối với quá trình trình phát
triển kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của các ngành sản xuất trong thời gian
qua cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định, đặc biệt là tới vấn đề môi
trường. Ô nhiễm từ nước thải công nghiệp, ô nhiễm đất, không khí cũng như


chất thải công nghiệp .. đã gây những tác động không nhỏ đến môi trường.
Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, thời gian qua chúng ta đã
đưa ra chủ trương cho phép nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước.
Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng và kịp thời của Nhà nước nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của các ngành sản xuất. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề
phát sinh từ việc kiểm soát trong khâu nhập khẩu phế liệu còn thiếu chặt chẽ.
Không chỉ nhập khẩu phế liệu, một lượng lớn rác thải đã được đưa vào nước
ta, gây tác động không nhỏ tới kinh tế, đặc biệt là vấn đề môi trường. Bài toán
kinh tế và môi trường được đặt ra và thực sự cần lời giải đáp từ phía các nhà
quản lý. Hơn thế, trong giai đoạn tới, với nhu cầu mở rộng sản xuất, các nhà
sản xuất sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu đầu vào để đáp ứng, trong đó, nhập
khẩu là một nguồn cung quan trọng. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả của
các công cụ quản lý nhập khẩu là hết sức cần thiết.
Việc nghiên cứu thực trạng vấn đề nhập khẩu phế liệu của Việt Nam giai
đoạn vừa qua và hiệu quả các công cụ quản lý nhập khẩu hiện có trên cơ sở
đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này trong
1
thời gian tới nhằm đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích kinh tế và môi trường cho
nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng là hết sức cần thiết. Đề tài
“Quản lý hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam” được thực hiện nhằm
giải quyết những vấn đề nêu trên.
1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm hướng tới những mục tiêu sau:
- Đánh giá thực trạng nhu cầu nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất giai
đoạn 2001 – nay; những tác động tới kinh tế và môi trường
- Đánh giá thực trạng các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ
sản xuất tại Việt Nam thời gian qua.
- Dự báo nhu cầu nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất của Việt Nam
trong giai đoạn tới.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý,

giám sát hoạt động nhập khẩu phế liệu cho sản xuất của Việt Nam trong thời
gian tới.
2. Đối tượng
Đối tượng:
- Các nhóm phế liệu được phép nhập khẩu theo qui định của pháp luật:
Tại thời điểm lựa chọn viết luận văn, Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg
đang có hiệu lực. Chính vì vậy, đối tượng được lựa chọn nghiên cứu của luận
văn là các loại phế liệu được phép nhập khẩu theo qui định này, bao gồm 4
nhóm: Nhóm phế liệu kim loại và hợp kim, Nhóm phế liệu nhựa, Nhóm phế
liệu giấy và bìa cattong và Nhóm thủy tinh. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, nhóm nghiên cứu đã tập trung vào các đối tượng: Sắt thép phế liệu (tại
nhóm phế liệu); nhựa phế liệu và giấy và bìa cattong phế liệu. Sở dĩ có sự lựa
chọn này là do những nguyên nhân sau:
+ Đối với nhóm kim loại và hợp kim: Theo Quyết định số 03/2004/TTg,
các kim loại và hợp kim được phép nhập khẩu bao gồm: Gang, thép, đồng,
2
hợp kim đồng, nhôm, hợp kim nhôm, kẽm, hợp kim kẽm, ni ken, hợp kim ni
ken phế liệu, tuy nhiên, ngoài sắt thép phế liệu các loại kim loại và hợp kim
khác đều có lượng nhập khẩu rất ít trong thời gian qua. Trong nhóm này, phế
liệu được nhập khẩu chủ yếu là sắt thép phế liệu. Vì vậy, đề tài lựa chọn việc
phân tích đánh giá thực trạng nhập khẩu loại sắt thép phế liệu làm đại diện
của nhóm phế liệu này.
+ Đối với nhóm thủy tinh phế liệu: Mặc dù theo qui định của nhà nước,
đây là loại phế liệu được phép nhập khẩu, tuy nhiên, theo thống kê của Trung
tâm thương mại quốc tế (ITC), trong thời gian qua, Việt Nam không tiến hành
nhập khẩu mặt hàng này. Do vậy, trong luận văn của mình, tôi cũng loại bỏ
việc thực hiện đối với thủy tinh phế liệu
- Doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng phế liệu
- Các văn bản, chính sách có liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu
thời gian qua

3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung làm rõ thực tiễn của hoạt
động nhập khẩu phế liệu thời gian qua cũng như thực tiễn công tác quản lý
hoạt động này. Trên cơ sở đó, định hướng và giải pháp lớn nhằm quản lý,
giám sát một cách hiệu quả hoạt động nhập khẩu phế liệu trong thời gian tới.
- Phạm vi về không gian: trong phạm vi cả nước
- Phạm vi về thời gian:
+ Trong khâu đánh giá, nghiên cứu chọn giai đoạn từ 2001 – 2006 (bắt
đầu đánh giá tình trạng nhập khẩu phế liệu sau quyết định 65/2001/QĐ-
BKHCNMT của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường về Về việc ban hành
Danh mục các loại phế liệu đã được xử lý đảm bảo yêu cầu về môi trường
được phép nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất)
+Về các giải pháp, kiến nghị: được áp dụng trong giai đoạn 2007 - 2010
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp cụ thể khác nhau, trong đó tập trung
chủ yếu vào các phương pháp sau:
- Thu thập số liệu về tình hình nhập khẩu các thiết bị cũ và các sản phẩm
có hại cho môi trường.
- Phương pháp thống kê (phân tổ, phân tích...).
Phương pháp thống kê được sử dụng trong tổng hợp và phân tích các số
liệu có được từ việc điều tra thực tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng sử dụng
phương pháp này nhằm thu thập một số số liệu và thông tin liên quan khác.
Ngoài ra, các tài liệu tham khảo trong và ngoài nước cũng được thu thập
thông qua phương pháp này.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
5. Nội dung
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia làm 3
chương chính:
Chương I: Hoạt động nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước giai

đoạn 2001 – 2006
Chương II: Thực trạng các công cụ quản lý nhập khẩu phế liệu phục vụ
sản xuất trong nước giai đoạn 2001 – 2006
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý nhập
khẩu phế liệu phục vụ sản xuất của Việt Nam trong thời gian tới
4
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU PHỤC VỤ SẢN
XUẤT TRONG NƯỚC GIAI ĐOẠN 2001-2006
1.1. Sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu phục vụ sản xuất trong nước
1.1.1. Vài nét về phế liệu
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phế liệu, tuy nhiên, trong khuôn khổ
luận văn này, khái niệm phế liệu được căn cứ theo văn bản có hiệu lực tại thời
điểm lựa chọn luận văn – Quyết định 03/2004/TTg. Theo Điều 3 của Quyết
định này, phế liệu được hiểu là:
Phế liệu là sản phẩm, vật liệu được loại ra trong sản xuất hoặc tiêu dùng nhưng
đáp ứng yêu cầu làm nguyên liệu sản xuất, bao gồm:
- Nguyên liệu thứ phẩm là nguyên liệu không đáp ứng yêu cầu về quy cách,
phẩm chất để sản xuất một loại sản phẩm nhất định nhưng có thể được gia công
để sản xuất lại sản phẩm ấy hoặc để sản xuất các loại sản phẩm khác;
- Nguyên liệu vụn là nguyên liệu được loại ra của một quá trình sản xuất (đầu
mẩu, đầu tấm, đầu cắt, phoi, sợi rối, mảnh vụn);
- Vật liệu tận dụng là vật liệu đồng nhất về chất được tháo gỡ, bóc tách, thu hồi
từ sản phẩm đã qua sử dụng hoặc từ thứ phẩm, phế phẩm.
Điều 3 – Quyết định số 03/2004/TTg
Từ khái niệm này có thể thấy một số đặc điểm cơ bản của phế liệu như
sau:
- Được loại ra trong quá trình sản xuất, tiêu dùng nhưng vẫn có giá trị sử
dụng – làm nguyên liệu sản xuất
- Phế liệu có nhiều dạng khác nhau, bao gồm: nguyên liệu thứ phẩm;

nguyên liệu vụn và vật liệu tận dụng.
Bên cạnh việc hiểu khái niệm phế liệu, chúng ta cũng cần phân biệt khái
niệm phế liệu với phế thải (hay chất thải) vì trên thực tế, sự không rõ ràng
giữa 2 khái niệm này trở thành khe hở cho tình trạng nhập khẩu trái qui định,
nhập khẩu chất thải vào Việt Nam.
5
Cũng theo Điều 3 của Quyết đinh số 03/2004/TTg, “Chất thải là chất
được loại ra trong sản xuất, tiêu dùng hoặc trong các hoạt động khác mà
không đồng nhất về chất với phế liệu nhập khẩu và dưới dạng khối, cục, bánh
hoặc vật dụng cụ thể”
Mặc dù tại định nghĩa này, sự khác biệt giữa chất thải và phế liệu chưa
được làm rõ, tuy nhiên, có thể thấy điểm khác nhau cơ bản nhất giữa phế liệu
và phế thải là: phế liệu có giá trị sử dụng, có thể làm nguyên liệu đầu vào của
quá trình sản xuất, trong khi đó, chất thải thì không có giá trị sử dụng vì
không thể sử dụng cho bất kỳ mục đích nào, bao gồm cả mục đích làm
nguyên liệu sản xuất.
Có 2 nguồn cung cấp phế liệu là thu mua trong nước và nhập khẩu từ
nước ngoài. Ở Việt Nam, trước đây tỷ lệ thu gom trong nước chiếm đa số.
Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, đa số các phế liệu được nhập khẩu từ nước
ngoài do việc thu gom trong nước không đáp ứng được nhu cầu của hoạt động
sản xuất tại các ngành. Ví dụ như ngành thép, nếu trước đây việc thu mua
trong nước cung ứng phần lớn cho các doanh nghiệp tái chế thì đến nay,
nguồn cung ứng trong nước ngày càng chiếm tỷ lệ ít hơn do: Thứ nhất: nguồn
sắt thép phế liệu chiến tranh đã dần dần bị khai thác hết; Thứ hai: do là một
nước đang phát triển, đặc biệt là công nghiệp chưa phát triển, chính vì vậy, sắt
thép phế liệu có nguồn gốc từ các vật liệu tận dụng là rất hạn chế. Chính bởi
vậy, phế liệu có nguồn gốc nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ
lớn hơn trong tổng lượng phế liệu cung cấp cho các nhà sản xuất.
1.1.2. Sự cần thiết phải nhập khẩu phế liệu
Phế liệu nhập khẩu đang trở thành nguồn nguyên liệu ngày một quan

trọng trong sự phát triển của các ngành, đồng thời có những lý do để tồn tại
và phát triển mậu dịch phế liệu:
- Thứ nhất, việc thu thập và sử dụng phế liệu rẻ hơn là khai thác, tuyển
chọn và sử dụng nguyên liệu nguyên sinh.
6
- Thứ hai, nguồn nguyên liệu là phế liệu được loại ra ngày càng nhiều
trên toàn thế giới do sự phát triển bùng nổ của các ngành công nghiệp. Đồng
thời việc sử dụng phế liệu để tái sản xuất còn nhằm tiết kiệm nguyên, nhiên
liệu ngày càng khan hiếm trên phạm vi toàn cầu.
- Thứ ba, việc xử lý phế liệu còn góp phần cơ bản vào việc giữ gìn cảnh
quan, môi trường sống, thực hiện công nghệ sạch, thân thiện với môi trường;
- Thứ tư, một đặc điểm dễ nhận thấy ở cả 3 ngành: thép, nhựa, giấy là sự
mất cân đối giữa năng lực sản xuất sản phẩm và khả năng cung ứng nguyên
liệu. Chính vì vậy, để tận dụng công suất hiện có, các ngành đều phải nhập
nguyên liệu từ thị trường bên ngoài (phôi thép, bột giấy, bột nhựa). Tuy
nhiên, giá của nguồn nguyên liệu này luôn có những biến động hết sức phức
tạp trên thị trường gây nên những khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp. Do
đó, việc chủ động nguyên liệu là yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp. Trong
khi đó, các nguồn nguyên liệu như: quặng (ngành thép), bột nhựa (ngành
nhựa), bột giấy (ngành giấy) thường bị hạn chế do yếu tố tự nhiên và khả
năng vốn, khả năng về công nghệ của doanh nghiệp thì việc sử dụng phế liệu
đang dần giữ một vai trò quan trọng. Mặc dù vậy, nguồn phế liệu trong nước
thường chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu, chính vì vậy việc nhập khẩu từ thị
trường nước ngoài là một giải pháp ưu tiên của doanh nghiệp.
- Thứ năm, lượng phế liệu nhập khẩu của doanh nghiệp ngày càng tăng.
Từ những con số thống kê về thực trạng nhập khẩu phế liệu (sắt thép, giấy,
nhựa) có thể thấy việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình
sản xuất có xu hướng ngày càng tăng. Với sự phát triển mạnh mẽ của các
ngành và những chủ trương kịp thời của nhà nước, phế liệu trở thành nguồn
nguyên liệu quan trọng của các ngành sản xuất.

- Thứ sáu, việc sử dụng nguyên liệu là phế liệu nhập khẩu sẽ tạo việc làm
cho số lao động không nhỏ, góp phần thực hiện chính sách xã hội của đất
nước.
7
Như vây, tận dụng phế liệu là một trong những tiền đề góp phần giảm
giá thành của sản phẩm. Nhà nước cho phép và tạo điều kiện hợp lý để nhập
khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là việc làm cần thiết trong giai đoạn
hiện nay nhằm tháo gỡ khó khăn về nguyên liệu cho các ngành sản xuất.
1.2. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu phế liệu
Với những phân tích về thực trạng phát triển của các ngành, tình hình sử
dụng và nhập khẩu phế liệu có thể rút ra một số nhận định sau:
- Thứ nhất, mặc dù khối lượng nhập khẩu trong thời gian qua tăng nhưng
còn ở mức thấp và có nhiều biến động. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
này trước hết là do nhu cầu của các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Ngoài ra,
việc thu mua còn manh mún, chưa tập trung thành những đầu mối lớn, khả
năng bốc dỡ tại các cảng biển cộng thêm những biến động về mặt cơ chế
chính sách của doanh nghiệp đã gây nên tình trạng này.
- Thứ hai, phế liệu nhập khẩu của các ngành chủ yếu phục vụ cho việc
sản xuất các sản phẩm có chất lượng thấp, trung bình. Mặc dù có những ưu
thế nhất định nhưng việc sử dụng phế liệu không thể thay thế cho các nguồn
nguyên liệu khác do đa phần nguồn nguyên liệu này được sử dụng nhằm sản
xuất các sản phẩm có chất lượng ở mức trung mình. Rất nhiều các sản phẩm
đặc dụng của các ngành như: với ngành thép là thép phục vụ cho ngành cơ
khí, giấy (các sản phẩm giấy có chất lượng cao) và ngành nhựa là nhựa sản
xuất các sản phẩm kỹ thuật thì không thể tận dụng nguồn nguyên liệu này do
yêu cầu về chất lượng. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng không thể thay
thế toàn bộ nguyên liệu đầu vào của các ngành bằng nguồn phế liệu. Nói một
cách khác, để phát triển các ngành sản xuất cần có một hệ thống chính sách
đồng thời tác động tới tất cả các khả năng cung ứng nguyên liệu nhằm đảm
bảo sự ổn định và tăng trưởng cho các ngành.

- Thứ ba, ngoài việc đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất lớn, một phần
không nhỏ đối tượng sử dụng các loại phế liệu này là các làng nghề. Ở Việt
Nam, hệ thống làng nghề phát triển rất mạnh mẽ. Với các làng nghề sản xuất
8
sản phẩm sắt thép, nhựa, giấy thì nguyên liệu đầu vào chủ yếu là phế liệu.
Phần lớn phế liệu phục vụ cho các làng nghề này được thu mua từ nguồn
trong nước, còn lại là được nhập khẩu từ nước ngoài.
1.2.1. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu sắt thép phế liệu
1.2.1.1. Một số nét về ngành thép
Ngành Thép Việt Nam được hình thành từ đầu những năm 60 của thế kỷ
20 sau sự ra đời của Công ty Gang Thép Thái nguyên. Mặc dù ra đời khá
sớm, tuy nhiên, sự phát triển của ngành thép chỉ thực sự khởi sắc từ những 90
trở lại đây. Sau hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ngành Thép đã trở thành
một ngành công nghiệp quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế của đất nước. Theo báo cáo từ Hiệp hội Thép Việt Nam, năm 2006,
sản lượng thép xây dựng đạt 3,1 triệu tấn – đáp ứng 100% nhu cầu trong nước
và tăng 15% so với năm 2005. Ngoài ra, sản phẩm thép của ngành còn đáp
ứng một phần quan trọng cho việc phát triển ngành công nghiệp cơ khí.
Trong giai đoạn 1996 – 2005, nhu cầu về các sản phẩm thép, đặt biệt là
thép xây dựng tăng mạnh với tốc độ trung bình là 19,9%. Đến năm 2005, nhu
cầu thép tăng gấp 7 lần so với năm 1995
Bảng 1.1- Tổng hợp tình hình tiêu thụ thép giai đoạn 1991 - 2005
Năm 1991 1995 2000 2001 2004 2005
1. Tổng tiêu thụ thép thành
phẩm (Nghìn tấn)
497 1145 3171 4010 6094 7016
1.1. . Thép TP SX nội địa 149 470 1538 1914 3280 3888
1.2. Thép xuất khẩu - - 15 2 99 170
1.3. . Thép nhập khẩu 348 675 7603 2098 2913 3297
Tỷ lệ SX nội địa/tổng tiêu thụ

%
30 42 50 48 54 55
Nguồn: Tổng cục Thống kê – Tổng cục Hải quan
Từ những số liệu trên đây cho thấy, sản xuất thép trong nước đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu tiêu thụ nội địa. Nếu như năm 1991 sản xuất trong
nước mới chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu trong nước thì tới năm 2005 con
9
số này đã vào khoảng hơn 55%. Bắt đầu từ năm 2000, thép thành phẩm của
Việt Nam còn được xuất ra thị trường thế giới. Năm 2005, lượng thép xuất
khẩu của Việt Nam đã lên tới con số 170.000 tấn với kim ngạch đạt 2,93 tỷ
USD.
Tuy nhiên, thị trường thép Việt nam hiện mất cân đối giữa cung và cầu:
cung thép cán xây dựng vượt gấp đôi nhu cầu trong khi đó chúng ta lại phải
nhập hoàn toàn các sản phẩm thép có chất lượng cao (phục vụ cho ngành cơ
khí); ngoài ra, sản xuất thép của Việt Nam còn mất cân đối giữa sản xuất thép
cán và sản xuất phôi thép.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành thép thời gian qua cũng như khả năng
đáp ứng nhu cầu trong nước ngày một tăng cao khiến nhu cầu sử dụng nguyên
liệu cho ngành này cũng ngày càng lớn. Ngoài nguồn nguyên liệu từ quặng
khai thác trong nước, phôi thép nhập khẩu thì sắt thép nhập khẩu đóng vai trò
hết sức quan trọng, trong đó, sắt thép nhập khẩu chiếm đa số nguồn cung ứng
phế liệu này.
1.2.1.2. Thực trạng sử dụng sắt thép phế liệu
Hiện nay, nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành thép được khai thác từ
ba “kênh” chính:
Khai thác và chế biến nguồn quặng trong nước: Tính đến nay, Việt Nam
đã phát hiện được 216 mỏ, điểm quặng sắt khác nhau trong cả nước với tổng
trữ lượng khoảng 1,2 tỷ tấn. Tuy nhiên, hầu hết các mỏ quặng của VN đều có
trữ lượng thấp và chất lượng không cao. Với công suất luyện kim hiện nay
khoảng 10-15triệu tấn thép/năm thì trữ lượng quặng sắt hiện có chỉ đủ duy trì

sản xuất trong nước trong vài chục năm. Hiện tại, việc cung ứng nguyên liệu
cho ngành thép từ quặng sắt chỉ chiếm một tỷ lệ thấp khoảng 20% nhu cầu so
với các nguồn khác. Chính vì vậy, đây có thể coi là nguồn nguyên liệu không
bền vững và ổn định cho sự phát triển của ngành thép, buộc ngành thép cần
có những điều chỉnh trong định hướng sử dụng đa dạng những nguồn nguyên
liệu khác phục vụ sự phát triển của ngành.
10
Nhập khẩu phôi thép: Đây là nguồn nguyên liệu chính phục vụ cho
ngành thép Việt Nam thời gian qua. Do khả năng tự đáp ứng về phôi thép cho
công đoạn cán thép vẫn còn ở mức thấp (20 – 25%), chính vì vậy, để tận dụng
công suất cán thép của ngành, hàng năm, khối lượng phôi thép mà chúng ta
phải nhập khẩu lên tới xấp xỉ 2 triệu tấn.
Bảng 1.2 - Thực trạng nhập khẩu phôi thép giai đoạn 2001 – 2006
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số lượng (1000 tấn) 1.772 2.207 1.855 2.273 2.227 2.017
Giá trị (ngàn USD) 335.000 459.000 511.000 870.000 838.000 774.000
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Con số thống kê ở đây có thể cho thấy sự phụ thuộc rất lớn của ngành
thép Việt Nam đối với nguồn phôi nhập khẩu. Với những biến động liên tục ở
thị trường phôi thép trên thế giới, đây sẽ là một yếu tố bất lợi tác động tới sự
ổn định của thị trường thép trong nước.
Sắt thép phế liệu: 80% sản lượng phôi thép ở Việt Nam hiện nay được
sản xuất từ phế liệu bằng công nghệ lò điện. Phế liệu được cung cấp từ hai
nguồn chính là thu gom trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài trong đó
nguồn nhập khẩu chiếm đa số.
Trong ba nguồn trên, thì sắt thép phế liệu đóng một vai trò quan trọng
trong ngành sản xuất thép. Đây là nguồn nguyên liệu được hầu hết các đối
tượng sản xuất thép sử dụng, các đối tượng này bao gồm hai nhóm chính:
Doanh nghiệp luyện thép: Đây là đối tượng chính sử dụng phế liệu nhập
khẩu với mục đích làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình luyện thép. Theo

thông tin từ Hiệp hội thép Việt nam, mặc dù số lượng các doanh nghiệp này
không nhiều nhưng lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu phục vụ cho nhóm đối
tượng này thường chiếm tới 70%.
Các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể hoạt động trong các làng nghề: số
lượng các doanh nghiệp loại này tương đối lớn, tuy nhiên, hầu hết là các
11
doanh nghiệp tư nhân, hộ gia định với qui mô sản xuất nhỏ. Phế liệu nhập
khẩu được sử dụng trong các doanh nghiệp này chủ yếu với mục đích gia
công trực tiếp. Lượng thép phế nhập khẩu sử dụng trong các doanh nghiệp
loại này chiếm khoảng 30% tổng lượng nhập khẩu. Ngay khi phế liệu được
tập kết tại cảng và kho của các thương nhân, chủ các doanh nghiệp này sẽ lựa
chọn những phế liệu phù hợp để tiến hành gia công trực tiếp thành nhiều loại
công cụ (chủ yếu là công cụ nông nghiệp) đơn giản.
1.2.1.3. Thực trạng nhập khẩu sắt thép phế liệu
Sắt thép phế liệu đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc
đảm bảo ổn định nguồn cung ứng nguyên liệu cho ngành thép. Với hai nguồn
chính từ hoạt động thu gom phế liệu trong nước và nhập khẩu, 80% lượng
phôi thép hiện nay là từ thép phế. Điều này có thể khẳng định tầm quan trọng
của nguồn nguyên liệu này trong thời gian qua.
Khối lượng và kim ngạch nhập khẩu sắt thép phế liệu giai đoạn 2001 –
2005
Theo số liệu thống kê từ ITC, từ năm 2001 đến năm 2005, lượng sắt thép
phế liệu nhập khẩu của Việt Nam là 927.262 tấn với tổng trị giá là 182.420
triệu USD. Bảng số liệu dưới đây thể hiện xu hướng nhập khẩu phế liệu sắt
thép cả về khối lượng và kim ngạch từ năm 2001 đến năm 2005.
Bảng 1.3 - Khối lượng & kim ngạch NK sắt thép phế liệu giai đoạn
2001-2005
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Khối lượng (tấn) 229.173 214.049 140.295 131.727 212.018
Kim ngạch (tr USD) 30.245 29.816 26,914 37,943 57.502

Nguồn: ITC
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây chỉ là những con số thống kê chính thức
qua ITC. Ngoài ra, có một lượng không nhỏ phế liệu được nhập qua đường
tiểu ngạch và vận chuyển xuyên biên giới từ Lào và Campuchia sang Việt
12
nam. Theo thông tin từ Hiệp hội thép Việt Nam, lượng thép phế nhập khẩu
vào Việt Nam cả chính ngạch lẫn tiểu ngạch vào khoảng gần 700.000 tấn.
Điều này có thể chứng tỏ phần nào khối lượng nhập khẩu thực tế của thị
trường
- Về thị trường nhập khẩu
Nếu như trước những năm 2000, sắt thép phế liệu của Việt Nam chủ yếu
được nhập từ một số nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á thì trong
giai đoạn này, các nhà cung cấp phế liệu đã tương đối đa dạng hơn. Đứng đầu
là Nhật Bản với khối lượng nhập khẩu từ quốc gia này lên tới 128.018 tấn,
chiếm trên 60% toàn bộ lượng sắt thép nhập khẩu vào Việt Nam, tiếp sau là
Mỹ. Các nước còn lại trong nhóm 10 quốc gia xuất khẩu phế liệu nhiều nhất
vào Việt Nam chủ yếu là những nước láng giềng như Thái Lan, Philipin,
Hồng Kông, Đài Loan …
Với xu hướng tiếp cận nhanh chóng với các thị trường xuất khẩu phế
liệu lớn trên thế giới (chủ yếu là các quốc gia phát triển) sẽ là một tín hiệu
đáng mừng cho các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước khi nhu cầu nhập
khẩu loại mặt hàng này càng tăng cao.
Bảng 1.4 - Tổng hợp các nhà xuất khẩu sắt thép phế liệu cho Việt nam
Nhà xuất
khẩu
Giá trị NK
2005 (1000$)
Thị phần
của các nhà
XK

Lượng NK
2005 (tấn)
Tốc độ gia tăng
NK 2001-2005
(%)
Tổng 57,502 100 212.018 -8
Nhật Bản 36.247 63 128,096 -10
Mỹ 7.571 13 26,194 44
Philipin 3.065 5 19,858 270
Đài Loan 2.851 5 7,341 -28
Sweden 1.091 2 2,502 178
Bỉ 770 1 2,539
Camarun 766 1 5,062
Thái Lan 735 1 2,539 132
Hồng Kông 518 1 2,219 50
Nga 269 0 2,120 -40
13
Nguồn: ITC
1.2.2. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu nhựa phế liệu
1.2.2.1. Một số nét về ngành nhựa
Ngành công nghiệp nhựa là một ngành có tốc độ phát triển nhanh chóng
và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế do đây là một loại
nguyên liệu mới với khả năng ứng dụng rất cao, trở thành nguyên liệu đầu
vào cho rất nhiều ngành sản xuất khác. Ngành nhựa Việt Nam thực sự có
những bước phát triển mạnh mẽ từ cuối những năm 80 với sự đánh dấu bởi
mức sản lượng gấp đôi những năm 1975 vào năm 1989. Tốc độ tăng trưởng
bình quân của ngành trong thời gian qua ở mức 25 – 30%. Điều này được thể
hiện một cách rõ nét ở khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước ngày càng cao
và việc mở rộng xuất khẩu tại hầu hết các nhóm sản phẩm. Cụ thể:
Bao bì nhựa: sản phẩm này phục vụ nhu cầu trong nước là chủ yếu và

một phần tham gia xuất khẩu, trong đó, xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu là
xuất khẩu gián tiếp. Hàng năm giá trị xuất khẩu của bao bì nhựa ước tính
khoảng 300 - 350 tỷ đồng/năm. Thị trường khu vực TP.HCM chiếm gần 80%
thị trường ngành bao bì cả nước.
Vật liệu xây dựng bằng nhựa: Phần lớn các loại sản phẩm trong nhóm vật
liệu xây dựng bằng nhựa phục vụ cho ngành xây dựng tiêu thụ trên thị trường
nội địa. Đối với việc xuất khẩu, mặt hàng này có nhiều khó khăn lớn như:
trình độ công nghệ đi sau các nước trong khu vực, qui mô nhỏ, chi phí vận
chuyển lớn và thật sự chưa có tính cạnh tranh về giá. Thị trường xuất khẩu
chủ yếu là Lào và Campuchia.
Sản phẩm nhựa gia dụng: Nhìn chung trong 5 năm qua, sản phẩm nhựa
gia dụng sản xuất trong nước đã hầu như chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường nội
địa. Ngoài ra, một phần không nhỏ các sản phẩm này được xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài như: Campuchia, Lào, các nước Châu Phi, Trung Cận
Đông. Bên cạnh đó là thị trường tiêu dùng rộng lớn ở các nước công nghiệp
phát triển như các nước Âu châu, Bắc Mỹ, Nga, Nhật,...
14
Nhựa kỹ thuật và các loại khác: Đã bắt đầu được đầu tư sản xuất theo
chính sách nội địa hoá của Nhà nước gồm phần lớn các chi tiết lắp ráp của các
sản phẩm điện, điện tử, điện lạnh, xe hơi, xe máy, tuy nhiên lượng nhập khẩu
đến nay vẫn nhiều. Tuy nhiên, cần thấy rằng với xu thế phát triển nhanh
chóng của các ngành nói trên, nhóm sản phẩm nhựa kỹ thuật sẽ dần chiếm
một tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm của ngành.
Bảng 1.5 - Sản lượng nhựa năm 2005 theo 3 miền
Loại sản
phẩm
Sản
lượng
Nam Bắc Trung
Nghìn tấn % Nghìn tấn % Nghìn tấn %

Bao bì 660 547,8 83 92,4 14 19,8 3
Tiêu dùng 640 531,2 83 89,6 14 19,2 3
Xây dựng 228 155,6 77 45,6 20 6,8 3
Kỹ thuật 122 93,9 77 25,6 21 24 2
Tổng 1650 1328,5 253,2 68,3
Nguồn: Hiệp hội nhựa Việt Nam
Về xuất khẩu nói riêng có thể thấy, trong năm 2005, tổng kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng nhựa đạt 350 triệu USD, năm 2006 đạt 478 triệu USD
(tăng 36,6% so với năm 2005), kế hoạch xuất khẩu năm 2007 là 580 triệu
USD.
Các thị trường xuất khẩu chính bao gồm: Mỹ, EU, Nhật có tốc độ xuất
khẩu cao, thị trường Asean, Trung Quốc tăng chậm, Campuchia, Đài Loan,
Philipine tăng khá cao. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm túi nhựa, túi
xốp, vải bạt, bao bì khác, tấm nhựa, màng nhựa, găng tay, ống nhựa, sản
phẩm văn phòng,… chiếm 79,2% tổng kim ngạch xuất khẩu.
1.2.2.2. Thực trạng sử dụng phế liệu nhựa:
Cũng tương tự như ngành thép, nguyên liệu của ngành nhựa được cung
cấp từ 3 nguồn chính, trong đó có nhựa phế liệu. Cụ thể:
Bột nhựa sản xuất trong nước: Với ngành công nghiệp hóa dầu mới trong
giai đoạn đầu phát triển, chính vì vậy khả năng đáp ứng nguyên liệu tại chỗ
của ngành còn thấp. Tuy nhiên, với trữ lượng dầu tương đối lớn và nhiều luận
15
văn hóa dầu lớn đang trong giai đoạn đầu tư, trong tương lai, chúng ta hy
vọng tỷ lệ nguyên liệu cung cấp trong nước được tăng cao. Hiện nay, mới giải
quyết được khoảng 20% - 30% nguyên liệu tại chỗ. So với các nước trên thế
giới, con số này là rất thấp: Mỹ: giải quyết được gần 100% nguyên liệu; Châu
Âu: Phần lớn các nước Châu Âu như Đức, Pháp, Anh, Italia, ngành hoá dầu
phát triển mạnh nên con số này ở mức khoảng 60-70% ; Các nước khác như
Nhật, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc đều có bức tranh tương tự.
Bột PVC nhập khẩu: đây vẫn đang là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho

ngành nhựa hiện nay. Với khả năng cung ứng trong nước còn thấp, việc nhập
khẩu nguyên liệu từ bên ngoài là không thể tránh được. Thị trường nhập khẩu
chủ yếu là các nước trong khu vực ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan.
Phế liệu nhựa: Hiện nay nhu cầu nhựa nguyên liệu của các nhà sản xuất
rất lớn. Theo thống kê năm 2006 cả nước sử dụng 700.000 tấn nhựa PE,
600.000 tấn PP, 500.000 tấn PVC, 66.000 tấn PS... và phụ thuộc chủ yếu vào
nguồn nhập khẩu.
Trong ba nguồn nguyên liệu nêu trên, nhựa phế liệu được coi là nguồn
nguyên liệu quan trọng. Các cơ sở sản xuất nhựa đều sử dụng nguồn nguyên
liệu này. Bao gồm:
Các doanh nghiệp sản xuất nhựa của Nhà nước: Đây là đối tượng chính
sử dụng nhựa phế liệu nhập khẩu với mục đích làm nguyên liệu đầu vào cho
quá trình sản xuất.
Các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể hoạt động trong các làng nghề: số
lượng các doanh nghiệp loại này tương đối lớn, tuy nhiên, hầu hết là các
doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình với qui mô sản xuất nhỏ. Phế liệu nhập
khẩu được sử dụng trong các doanh nghiệp này chủ yếu nhằm sản xuất các
sản phẩm nhựa gia dụng có chất lượng trung bình hoặc thấp.
16
1.2.2.3 Thực trạng nhập khẩu nhựa phế liệu
Mỗi năm Việt Nam tái chế 100.000 tấn nhựa phế liệu thành nhựa thành
phẩm. Việc sử dụng nhựa phế liệu sẽ giúp DN giảm 50% giá thành sản phẩm
so với sử dụng hạt nhựa chính phẩm. Nguồn nhựa phế liệu trong nước chỉ đủ
đáp ứng 50% số còn lại phải nhập ngoại. Chính vì vậy, nhập khẩu các phế liệu
nhựa được coi là giải pháp tối ưu, đáp ứng nguồn nguyên liệu cho sản xuất
nhựa.
Bảng 1.6 - Số liệu nhập khẩu phế liệu nhựa giai đoạn 2001-2005
Năm Tình hình thực hiện Mức độ tăng
Số lượng
(Tấn)

Trị giá
(Nghìn USD)
Số lượng
(%)
Trị giá
(%)
2001 7.112 2,237 - -
2002 5.623 1,625 79,06 72,64
2003 6.797 2,362 120,88 145,35
2004 46.811 14,396 688,70 609,48
2005 74.442 25,364 159,03 176,19
Nguồn: ITC
Nhìn vào số liệu trên, từ khi chính sách của Chính phủ cho phép các
doanh nghiệp được nhập khẩu phế liệu nhựa làm nguyên liệu sản xuất đã thúc
đẩy nhanh chóng số lượng và kim ngạch nhập khẩu phế liệu nhựa trong 2 năm
2004 và 2005.
Bảng 1.7 - Một số thị trường xuất khẩu phế liệu sang Việt Nam
Nước Kim
ngạch
2005
(nghìn
USD)
Số
lượng
2005
(nghìn
tấn)
Error!
Hyperlink
reference

not
valid.Kim
ngạch
2004
Số
lượng
2004
Kim
ngạch
2003
Số
lượng
2003
Kim
ngạch
2002
Số
lượng
2002
Kim
ngạch
2001
Số
lượng
2001
Tổng 25,364 14,396 2,362 1,625 2,237
Mỹ 8,858 29,388 4,095 11,07
7
92 263 57 225 192 199
Canada 5,719 9,070 516 1,159 5 22 3 23 0

17
Hongkong 2,820 11,389 3,800 16,96
6
45 175 81 235 33 121
Hàn Quốc 1,492 6,105 2,831 8,381 1,173 4,229 1,087 4,219 1,555 6,177
Mexico 1,272 4,226 0 0 0 0
Hà Lan 816 2,178 0 0 0 0
Malaysia 756 1,247 188 501 358 447 171 154 207 152
Australia 755 2,293 509 1,142 4 0 8 23 0
Nhật Bản 752 2,265 591 1,680 123 476 70 251 51 164
Đài Loan 663 1,753 370 879 276 593 90 254 63 133
Nguồn: ITC
Việt Nam chủ yếu nhập phế liệu nhựa từ một số nước phát triển như Mỹ,
Canada, Nhật, Úc, Anh ..và nhóm NICs như Hồng Kông, Mehico, Hàn Quốc,
Đài Loan ... Trong khi đó ba thị trường xuất khẩu phế liệu nhựa sang Việt
Nam nhiều nhất đó là Mỹ, Canada và Hồng Kông. Mỹ là thị trường xuất khẩu
phế liệu nhựa sang Việt Nam lớn nhất chiếm gần 40% về cả số lượng và kim
ngạch nhập khẩu phế liệu nhựa của Việt Nam năm 2005.
Chính phủ đã cho phép nhập khẩu phế liệu nhựa và coi đây là giải pháp
hữu hiệu nhằm giảm thiểu sức ép tăng giá sản phẩm. Tuy nhiên, để nhập được
nguồn nguyên liệu này đòi hỏi phải có những quy định cụ thể và rõ ràng của
Bộ Tài nguyên & Môi trường về việc nhập nguyên liệu nhựa phế phẩm, loại
nào nhập và loại nào không được nhập. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp
ngành nhựa cần nhập các sản phẩm nhựa bị loại ở các nhà máy nước ngoài
không đạt thông số kỹ thuật, đã ép thành khối và giá chỉ bằng 10-20% so với
giá nguyên liệu nhựa chính phẩm và một nguồn khác nữa là rác thải nhựa
công nghiệp sau khi đã được phân loại, xử lý sạch và ép thành kiện (giá
khoảng 300 USD/tấn)… Chỉ có điều, để nhập được nguồn nguyên liệu này,
đòi hỏi phải có những quy định mới cụ thể của Bộ Tài nguyên - Môi trường,
chẳng hạn vấn đề phân loại nguyên liệu nhựa phế phẩm.

18
1.2.3. Thực trạng sử dụng và nhập khẩu giấy và catông
1.2.3.1. Một số nét về ngành Giấy
Ngành giấy Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt tốc độ tăng trưởng hàng
năm 15%-16%, sản lượng từ 80.000 tấn/năm đã tăng lên tới 824.000 tấn/năm.
Tuy nhiên, chủng loại giấy sản xuất trong nước vẫn rất nghèo nàn, chỉ có giấy
in báo, giấy in và viết, giấy bao gói (không tráng), giấy lụa. Dù đã đầu tư tới
112.000 tấn/năm cho sản xuất giấy tráng, nhưng đến nay hầu như chỉ sản xuất
giấy không tráng.
Năm 2005 khả năng đáp ứng tiêu dùng trong nước của toàn ngành giấy
là 61,92%, trong đó giấy in báo đáp ứng 68,42%, giấy in và viết 89,29%, giấy
bao bì (không tráng) 71,50%, giấy tráng 5,75% và giấy lụa 96,97%. Cũng
trong năm này, mức tăng trưởng của sản xuất giấy chỉ đạt 9,32%, nguyên
nhân là do giấy bao bì sản xuất ra không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.
Xét các yếu tố kinh doanh, ngành giấy vẫn thua thiệt nhiều mặc dù chí phí về
lao động rẻ, nhưng năng suất lao động lại thấp.
Hiện nay sản xuất bột giấy ở Việt Nam mới đáp ứng được 37% nhu cầu,
còn lại vẫn phải nhập khẩu. Trước đây chỉ nhập bột tẩy trắng, nay bột giấy
không tẩy trắng ngày càng được nhập nhiều, vì các cơ sở phải ngừng sản xuất
do không có khả năng xử lý nước thải và quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu.Với
khả năng rừng đủ để sản xuất bột giấy đáp ứng cho nhu cầu trong nước và
xuất khẩu, rõ ràng phương thức phân bổ nguồn lực cho phát triển kém hiệu
quả. Nếu chỉ cần khoảng 400 -500 triệu USD (một khoản đầu tư khiêm tốn so
với nền kinh tế ) thì đến nay ngành giấy đã chủ động hoàn toàn về bột giấy và
còn dư để xuất khẩu.
Về năng lực sản xuất: Năm 2005, năng lực sản xuất giấy năm 2005 là
1.166.000 tấn đã vượt 116.000 tấn so với mục tiêu đề ra cho năm 2010. Tuy
nhiên, do đầu tư các nhà máy sản xuất bột giấy đòi hỏi công nghệ phức tạp,
vốn đầu tư, kỹ thuật cao, nên trong giai đoạn 1999-2005 chỉ có một số công ty
19

giấy của nhà nước đầu tư vào sản xuất bột giấy nên công suất và sản lượng
bột giấy trong thời gian qua tăng không đáng kể.
Năng lực sản xuất bột của toàn ngành năm 2005 là 312.000 tấn, hụt
123.000 tấn so với mục tiêu đề ra cho năm 2005.
Từ những con số trên đây có thể thấy sự mất cân đối giữa khả năng cung
cấp nguyên liệu đối với việc phát triển ngành giấy. Đây cũng có thể xem là
tình trạng chung như ngành thép và ngành nhựa.
1.2.3.2. Thực trạng sử dụng giấy và bìa cattông phế liệu
Nguyên liệu của ngành giấy được cung cấp từ 3 nguồn chính:
+ Cây nguyên liệu giấy: Trước năm 1998, việc trồng rừng nguyên liệu
giấy chủ yếu tập trung tại vùng trung tâm Bắc bộ, tuy nhiên, việc trồng rừng
này chưa được đầu tư nghiên cứu nhiều, các giống cây trồng đang trong quá
trình khảo nghiệm, năng suất và chất lượng còn thấp chưa đáp ứng được yêu
cầu sản xuất. Tới thời kỳ 1999-2005 diện tích trồng rừng, năng suất và sản
lượng khai thác đã có những tiến bộ đáng kể, đã áp dụng những giống cây
trồng mới phổ biến hơn thời kỳ trước năm 1999, khả năng tăng trưởng khá.
Tuy nhiên năng suất rừng nguyên liệu áp dụng thâm canh trung bình chỉ
khoảng 20 m3/ha/năm.
+ Bột giấy: Mặc dù đã có những chính sách đầu tư cho việc phát triển
cây nguyên liệu, tuy nhiên, việc đáp ứng nguyên liệu cho ngành từ nguồn này
còn hạn chế. Hiện nay sản xuất bột giấy ở Việt Nam mới đáp ứng được 37%
nhu cầu. Hàng năm, một lượng lớn nguyên liệu của ngành có được là từ việc
nhập khẩu bột giấy ở nước ngoài.
+ Phế liệu: Ngoài hai nguồn trên, giấy phế liệu đóng vai trò qua trọng
trong việc cung cấp nguyên liệu đối với ngành giấy, đặc biệt là đối với những
nhà máy có công suất nhỏ và yêu cầu chất lượng đối với sản phẩm không cao.
20
Trong đó giấy phế liệu được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất chiếm
một tỷ trọng lớn. Đa phần chúng được các đơn vị sản xuất coi là nguồn
nguyên liệu quan trọng, bao gồm

Các doanh nghiệp sản xuất giấy của Nhà nước: Đây là đối tượng chính
sử dụng giấy phế liệu nhập khẩu với mục đích làm nguyên liệu đầu vào cho
quá trình sản xuất.
Các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể, làng nghề: số lượng các doanh
nghiệp loại này tương đối lớn, tuy nhiên, hầu hết là các doanh nghiệp tư nhân,
hộ gia định với qui mô sản xuất nhỏ. Phế liệu phục vụ sản xuất tại các doanh
nghiệp này chủ yếu là các sản phẩm có chất lượng thấp và trung bình.
Sử dụng loại nguyên liệu thứ cấp này đặc biệt được coi là giải pháp cho
các nhà máy giấy gần khu dân cư, quy mô vừa và nhỏ để giảm chi phí đầu tư
hệ thống xử lý nước thải. Việc sử dụng giấy phế liệu thu mua trong và ngoài
nước đều có ý nghĩa về bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên ở góc độ quốc
gia và toàn cầu, nên được khuyến khích sử dụng bằng việc áp dụng mức thuế
nhập khẩu thấp và được khấu trừ hoàn toàn nếu thu mua trong nước. Mức sử
dụng giấy phế liệu đến năm 2010 là 378.000 tấn/năm, chủ yếu thu mua và tái
chế trong nước.
1.2.3.3. Thực trạng nhập khẩu giấy và catông phế liệu
Do nhu cầu tiêu thụ giấy ở Việt Nam hiện nay cộng với nguồn nguyên
liệu giấy trong nước hạn chế dẫn đến việc hàng năm Việt Nam phải nhập
khẩu một lượng lớn giấy phế liệu để phục vụ nhu cầu nguyên liệu cho sản
xuất trong nước. Bảng dưới đây phản ảnh thực trạng nhập khẩu giấy phế liệu
làm nguyên liệu sản xuất giai đoạn 2001 – 2005:
Bảng 1.8 - Thực trạng nhập khẩu giấy và cattong phế liệu 2001 - 2005
Năm Lượng Trị giá % tăng giảm so với năm liền
trước
2001 8.363 61.785 Lượng Giá trị
2002 9.955 77.118 19,0 24,8
21
2003 12.703 104.099 27,6 35,0
2004 18.822 153.612 48,2 47,6
2005 21.616 162.265 14,8 5,6

Tổng/tốc độ
tăng bình quân
71.459 558.879 20,9 21,3
Nguồn: ITC
Qua bảng số liệu trên cho thấy, tốc độ tăng bình quân giấy phế liệu nhập
khẩu giai đoạn 2001-2005 là 20,9% tính về số lượng và 21,3% tính về giá trị.
Nếu như năm 2001 số lượng giấy nhập khẩu đạt 8.363 tấn thì năm 2005 số
lượng đã tăng lên gần 2,6 lần đạt 21. 616 tấn. Như vậy trong giai đoạn từ
2001 đến nay, nhu cầu nhập khẩu giấy phế liệu tăng đều và mạnh qua các
năm. Điều này cho thấy giấy phế liệu hiện đang là một kênh cung cấp nguyên
liệu đều đặn và cần thiết của ngành giấy. Do đó việc xây dựng chính sách
nhập khẩu phù hợp vừa đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước,
phát triển ngành giấy vừa đảm bảo các điều kiện môi trường, phát triển bền
vững là vấn đề đặt ra cho các cơ quan quản lý hiện nay.
1.3. Đánh giá tác động về mặt kinh tế và môi trường của việc nhập khẩu
và sử dụng phế liệu phục vụ sản xuất giai đoạn 2001 - nay
1.3.1. Tác động về mặt kinh tế
Việc sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất có những tác
động tích cực xét trên cả khía cạnh nền kinh tế lẫn doanh nghiệp.
Nếu đứng trên khía cạnh nền kinh tế, lợi ích kinh tế của việc sử dụng phế
liệu bao gồm:
Tiết kiệm khai thác tài nguyên thiên nhiên: với việc sử dụng phế liệu,
các nhà sản xuất sẽ hạn chế sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước
(quặng sắt, gỗ …), điều này sẽ làm giảm chi phí của việc khai thác tài nguyên.
Ví dụ trong trường hợp sử dụng giấy phế liệu, lợi ích kinh tế của việc giảm
khai thác gỗ là 713 ngàn đồng/tấn giấy
1
.
1
Xem, Lợi ích kinh tế, môi trường của việc sản xuất, sử dụng giấy tái chế trong in ấn và viết – Nguyễn

Nguyệt Nga, Trường đại học Thương mại Hà nội
22
Giảm chi phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải: Thay vì việc vứt
bỏ các phế liệu này và xử lý như một loại chất thải thì việc sử dụng nguồn
nguyên liệu này sẽ làm giảm việc xử lý một lượng lớn chất thải. Nếu xem xét
ở điều kiện Việt Nam hiện nay, chi phí xử lý chất thải rắn trung bình là 110
ngàn đồng/tấn thì lợi ích kinh tế từ điều này là không nhỏ.
Phát triển sản xuất trong nước và từ đó tạo việc làm cho người lao động
cũng như đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế: với việc sử dụng
phế liệu nói chung và phế liệu nhập khẩu cũng đồng nghĩa với việc tăng
cường khả năng cung ứng phế liệu cho các doanh nghiệp trong nước (phát
triển các doanh nghiệp sản xuất phôi thép, bột giấy, bột nhựa …) từ đó tạo
việc làm và phát triển kinh tế.
Nếu đứng trên khía cạnh doanh nghiệp, tác động về mặt kinh tế là rất rõ
ràng. Sở dĩ các doanh nghiệp lựa chọn việc sử dụng phế liệu là tính hiệu quả
về mặt kinh tế. Ví dụ như ngành thép, nếu so với việc nhập khẩu trực tiếp
phôi thép về sản xuất thì việc sử dụng phế liệu là hiệu quả hơn nhiều.
Theo một đánh giá của Công ty Gang Thép Thái Nguyên tại thời điểm
5/2003 cho thấy lợi ích kinh tế của việc nhập khẩu sắt thép phế liệu để sản
xuất phôi có hiệu quả kinh tế hơn nhiều so với phương án nhập khẩu trực tiếp
phôi thép để sản xuất.
Bảng 1.9 - So sánh hiệu quả kinh tế giữa sử dụng phế liệu NK và NK
phôi thép
Phế liệu nhập khẩu Phôi nhập khẩu
1 Giá 140 Giá 240
2 Chi phí sản xuất Thuế nhập khẩu
(10%)
24
2.1 Vật liệu chính 173,95
2.1 Vật liệu phụ 33,73

2.3 Nhiệu liệu/động lực 29,21
2.4 Chi phí nhân công 5,83
2.5 Chi phí sản xuất
chung
12,94
Phí Ngân hàng,
tiếp nhận, vận
chuyển
10
23

×