Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(TIỂU LUẬN) quan điểm của đảng cộng sản việt nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản săc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.48 KB, 18 trang )

A – MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã
hội loài người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự
phát triển bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống
xã hội và mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con
người. Theo nghĩa rộng: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do cộng đồng các dân tộc VN sáng tạo ra trong quá trình dựng nước
và giữ nước, cịn theo nghĩa hẹp: văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, là hệ
các giá trị truyền thống, lối sống, là năng lực sáng tạo của 1 dân tộc, là bản sắc
của 1 dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trong cương lĩnh
1991 được đại hội VII thông qua lần đầu tiên đã đưa ra một quan điểm về văn
hóa mới: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thay thế cho
nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa tức là văn hóa sẽ đổi mới theo hướng
mới tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có tính dân chủ
tiến bộ … Đây là một quan điểm mới có vai trị vơ cùng quan trọng trong thời
buổi hiện nay. Mỗi người cần phải hiểu rõ và nắm bắt được tầm quan trọng của
văn hóa đến đời sống cũng như xã hội.Để làm sáng tỏ vấn đề này, nhóm chúng
em xin tìm hiểu về nội dung: ‘‘quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản săc dân tộc’’ để từ đó thấy
được tầm quan trọng của văn hóa.
2. Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu)
Đã có nhiểu bài báo, tài liệu, các bài luận cũng đã nghiên cứu về quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản săc dân tộc dưới nhiều góc độ khác nhau.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Trong thời kỳ đổi mới, việc thay đổi nền văn hóa có nội dung Xã Hội Chủ
Nghĩa theo quan điểm mới của Đảng Cộng Sản là rất đúng đắn. Quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng, là nền tảng để xây dựng một nhà
nước dân giàu nước mạnh dân chủ cơng bằng và xã hội văn minh. Do đó, chúng


em chọn đề tài này để có thể nghiên cứu chi tiết hơn về quan điểm của Đảng Cộng
Sản về việc xây dụng và phát triển văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ:

Tieu luan


+ Phân tích quan điểm của Đảng Cộng Sản về việc xây dụng và phát triển văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Đánh giá việc thực hiện quan điểm này của Đảng ( thành tựu , hạn chế….)
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Trong phạm vi nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây
dựng và phát triển nền văn hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Với phương pháp là phương pháp luận quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam đi tìm hiểu sâu giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu ln đi đúng hướng và
hiệu quả. Kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp liên ngành là ba phương pháp nghiên cứu chính khi nghiên cứu đề tài
này.
6. Đóng góp của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài này thấy rõ nội dung quan điểm của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về việc xây dụng và phát triển nền văn hóa. Tiếp tục kế thừa và phát huy
quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc xây dựng nền văn hóa theo
đúng hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Làm rõ các quan điểm và nêu ra các
chính sách đối với Việt Nam một cách cụ thể và ý nghĩa nhất để ngày càng hoàn
thiện và phát huy tốt hơn.
7. Kết cấu của đề tài:
Bài tiểu luận được chia làm 3 chương để làm rõ về quan điểm của Đảng Cộng
Sản về việc xây dụng và phát triển văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
+ Chương 1: Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về Văn hóa

+ Chương 2: Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn hóa
+ Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đường lối của Việt Nam

Tieu luan


B – NỘI DUNG
Chương 1: Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về Văn hóa
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền
văn hóa dân tộc trong q trình lãnh đạo cách mạng. Đảng ta đều kịp thời đưa ra
chủ trương, đường lối xây dựng phát triển văn hóa phù hợp với thực tiễn đất nước.
Các chỉ thị, nghị quyết về xây dựng phát triển văn hóa đã thể hiện sự vận dụng
sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm tiến bộ trên thế giới về văn hóa vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, phản ánh quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng trên lĩnh vực văn
hóa.
1.1 Từ năm 1930 đến năm 1960:
Đây là thời kỳ Đảng ta xác lập và hiện thực hóa đường lối xây dựng một nền
văn hóa mới, nền văn hóa được cơ cấu lại theo lập trường văn hóa Mácxít, với mơ
hình và tính chất mới chưa từng xuất hiện trọng lịch sử văn hóa dân tộc: dân tộc –
khoa học – đại chúng. Ngay từ những năm 1930, vấn đề văn hóa đã được Đảng ta
chú trọng trong các cuộc vận động cách mạng, nổi bật như cuộc đấu tranh về học
thuyết, tư tưởng và các tông phái văn nghệ để khẳng định quan điểm duy vật và
nghệ thuật vi nhân sinh. Tuy nhiên, phải đến Đề cương về văn hóa Việt Nam năm
1943, vấn đề văn hóa mới được xem xét một cách có hệ thống.
Trước tiên, văn hóa được hiểu là bao gồm các tư tưởng học thuật, nghệ thuật.
Nếu hiểu theo quan điểm của Các Mac: “Văn hóa là toàn bộ những thành tựu được
tạo ra nhờ hoạt động sáng tạo của con người, thì các hiểu này chưa đủ chiều rộng,
cũng chưa có điều kiện đi sâu vào bản chất của văn hóa. Do vậy, phần lớn nội dung
Đề cương văn hóa tập trung vào việc đề ra nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, của

người chiến sỹ văn hóa Macxít – điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thắng lợi cho
cách mạng: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hồn thành được cuộc cải
tạo xã hội.”
Về vai trị, vị trí của văn hóa: được coi là 1 trong 3 lĩnh vực chính của đời sống
xã hơi (văn hóa, kinh tế, chính trị) và có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực này. Vì
thế, “khơng chỉ làm cách mạng chính trị mà cịn phải làm cách mạng văn hóa”.
Văn hóa được xem là vũ khí đấu tranh sắc bén trên mặt trận tư tưởng. Lúc này với
chức năng giáo dục, nhận thức văn hóa sẽ có khả năng đoàn kết, tập hợp lực lượng
và cổ vũ cho phong trào cách mạng.
Tuy vậy, chỉ với những nội dung khái quát, ngắn gọn, bản đề cương không
thể di sâu xem xét mọi vấn đề của văn hóa, càng không thể đề cập đén những vấn

Tieu luan


đề đang đặt ra ngày hôm nay. Nhưng vượt qua những bất cập mang tính lịch sử
như Tổng bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Vì trong hồn cảnh hoạt động bí
mật trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách
mạng Văn hóa Việt Nam…”, Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 vẫn đáp ứng
kịp thời các nhu cầu cấp thiết nổi bật nên trong một tình huống đặc biệt của lịch sử,
đã làm tròn trách nhiệm lịch sử đặt ra.
1.2 Từ năm 1960 đến trước năm 1986
Từ Đại hội III, 1960, Đảng ta xác định: xây dựng nền văn hóa nghệ thuật có
nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc. Sau khi miền Nam giải phóng,
thống nhất đất nước, Đẳng xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền văn hóa
mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V
của Đảng chỉ rõ, nhiệm vụ trung tâm của cách mạng văn hóa trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước là xây dựng nền văn hóa có nội dung
xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà “trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do cho tất cả mọi

người”. Nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc của văn hóa được xác lập
trên phương diện cơ bản: văn hóa lao động gắn với ý thức mình vì mọi người, mọi
người vì mình; v ăn hóa giao tiếp bình đẳng; văn hóa gia đình hạnh phúc; văn
nghệ miêu tả hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cũng như giai đoạn trước văn hóa hướng
đến xây dựng con người, đề cao phẩm giá năng lực con người nhưng chưa phải là
con người cá nhân thực sự, mà là con người cộng đồng, con người mang lại tất cả
vẻ đẹp của cộng đồng, vì lý tưởng cộng đồng, con người cách mạng. Đó là con
người cuả một thời đại mà cả nước có chung khn mặt, cả nước có chung tiếng
nói.
1.3 Từ năm 1986 đến nay:
Đây là giai đoạn đất nước đổi mới, khắc phục những sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện tìm tịi những hướng đi phù hợp để đạt mục tiêu dân giàu
nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Đổi mới trên lĩnh vực văn hóa trước hết là đổi mới tư duy về văn hóa, là xây
dựng một hệ thống lý luận văn hóa cho một giai đoạn cách mạng mới. Nền văn hố
có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc đã có những đóng góp thực sự
lớn lao cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1960 – 1975, nhưng khi đất nước độc
lập, thống nhất, trước những yêu cầu nhiệm vụ mới, nền văn hóa này đã khơng đủ
điều kiện tạo năng lượng cho cuộc cải tạo xã hội mới, nhất là điều chỉnh các quan
hệ xã hội.

Tieu luan


Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nền văn hóa, văn nghệ
đều hướng đến xây dựng những con người mang vẻ đẹp, lý tưởng cộng đồng,
ngững con người vì lý tưởng chung mà ln sẵn sàng hy sinh đời sống cá nhân.
Trong điều kiện hịa bình, xã hội phải tạo điều kiện để mỗi cá nhân được phát triển
tự do, được sống đời sống riêng của mình. Xuất phát từ chiến lược con người và
lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, Đại hội lần

thứ VI của Đảng xác định mục tiêu: “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải
tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt dến tư tưởng tâm lý tình cảm, nâng cao trình
độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình dộ thẩm mỹ của nhân dân.”
Cũng trong giai đoạn này, bên cạnh môi trường gia đình, lần đầu tiên vai trị của
các mơi trường học tập, lao động,... có văn hóa trong việc bồi dưỡng, hình thành
con người mới được đặc biệt chú trọng. Đề ra hai nhiệm vụ mới là tạo ra mơi
trường văn hóa của chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho
nhân dân là những bổ sung rất quan trọng vào hệ thống lý luận văn hóa của Đảng.
Tuy nhiên, phải đến Đại hội VIII, đặc biệt là hội nghị Trung ương 5, khóa VIII,
hện thống lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới của Đảng mới cơ bản được hồn thiện.
Trong đó các vấn đề văn hóa cũng được xem xét một cách có cụ thể, có hệ thống.
Thứ nhất, vai trị, vị trí quan trọng của văn hóa đới với sự phát triển xã hooin đã
được nhìn nhận xứng đáng: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đây là luận điểm mới
mẻ, sáng tạo nói lên mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển, nhấn
mạnh vị thế, vai trị của văn hóa đói với chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác
trong đời sống xã hội. Văn hóa là động lực của sự phát triển.
Thứ hai, Đảng ta khơng chỉ xác định mơ hình mà cịn chỉ rõ đặc trưng tiên tiến
và bản sắc dân tộc của văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII dẫ phân tích
rõ: cốt lõi của nên văn hóa tiên tiến và nội dung cơ bản của bản sắc văn hóa Việt
Nam.
Thứ ba, nên văn hóa được xem xét cơ bản toàn diện, đồng bộ. Một số phương
diện như: tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, giáo dục, đào tạo, khoa học cơng
nghệ, văn học,... từ đó đề ra các nhiệm vụ và giải pháp xây dựng, phát triển nền
văn hóa một cách đồng bộ và cụ thể.
Thứ tư, Đảng ta xác định: Xây dựng nền văn hóa trước hết là phải xây dựng và
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam và mơi trường văn hóa. Con người là
chủ thể của văn hóa, đồng thời cũng là sản phẩm của văn hóa. Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII đã gắn xây dựng nền văn hóa với xây dựng con người khi nhấn


Tieu luan


mạnh nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam, xây dựng
mơi trường văn hóa lành mạnh.
Tuy nhiên, sau hơn mười năm thực hiện, bên cạnh những thành tựu quan trọng,
Đảng ta nhận định rõ một số hạn chế, thiếu sót lớn trong văn hóa con người.... Trên
cơ sở đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng tiếp tục điều chỉnh,
bổ sung hệ thống lý luận văn hóa.
Hơn 88 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trải qua những giai đoạn lịch sử
khác nhau, trước những thực tiễn đất nước, tư duy của Đảng về văn hóa, về các nội
dung xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc cũng có những bước điều chỉnh, đổi mới
khác nhau, nhưng tinh thần coi trọng văn hóa, mục tiêu xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Với bả lĩnh và trí tuệ
sắc bén, với tinh thần đổi mới, phát triển, Đảng ta sẽ tiếp tục lánh đạo sự nghiệp
xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam tiến đến những thành công mới.

Chương 2: Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn
hóa
2.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thức đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của văn hóa
đối với sự phát triển xã hội:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống
mãnh liệt giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và thác ghềnh đề
tồn tại và khơng ngừng phát triển. Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền
tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng mơi trường văn hóa lành

mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi lại các tiêu cực của xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập
của tư tưởng văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cược vận động
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị
văn hóa, nêu gương người tốt việc tốt.
- Văn hóa là động lực thúc đấy sự phát triển:

Tieu luan


Nguồn nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự
phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới,
nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển dựa trên cội nguồn, phát huy
cội nguồn, cội nguồn của mỗi quốc gia, dân tộc là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, bản thân sự phát triển
kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ea. Nền kinh tế nước ta
hơm nay đã có bước tiến đáng kể so với thời kỳ thực hiện chế độ kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân không phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của các
nhân tố kinh tế mà còn do sựu đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ quản
lý, cịn do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình độ, năng lực của
đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động. Nghĩa
là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong nững giá trị văn
hóa đang được phát huy.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái
đúng, cái tốt, cái đẹp đề hướng dẫn, thúc đẩy người lao động không ngừng phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số
lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mặt khác, văn hóa
sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu
hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng
hóa và đồng tiền dẫn tới suy thối xã hội.
Nền văn hóa Việt Nam đương đại với những giá trị mới sẽ là một tiền đề quan

trọng đưa đất nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế
thế giới.
Văn hóa, nhất là văn hóa phương Đơng cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống
có chừng mực, hài hịa với thiên nhiên. Nó đưa ra mơ hình ứng xử thân thiện giữa
con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững chi thế hệ hiện nay và cho các
thế hệ mai sau.
- Văn hóa là mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu của văn hóa.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991-2000 xác định: “Mục tiêu
và động lực chính của sự phát triển vì con người, do con người”. Đồng thời nêu rõ
yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát
triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội
mới đảm bảo phát triển bền vững.

Tieu luan


Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta
chủ trương phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh
tế xã hội.
-Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố
con người và xây dựng xã hội mới:
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên
thiên nhiên, vốn,... Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn
kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có khả năng tái sinh và tự
sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ khơng được sử dụng có hiệu
quả nếu khơng có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã
hội chủ nghĩa.

2.2. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập tự do
và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục
tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung, tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cả nhân dân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc. Đó là lịng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù
sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản
sắc dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo.
Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tích cách,
khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân
tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân
trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu
dài và bền vững với môi trường xã hội tự nhiên và với q trình lịch sử mà dân tộc
đó đã tồn tài.
Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân
tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết
cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.

Tieu luan


Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư
duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học,
văn học, nghệ thuật,...nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân

tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là
niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển
thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự chọn lựa trong hành động của
cá nhân và cộng đồng. Vì vậy nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự
vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương
đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát
triển của xã hội, các giá trị này thường khơng biến mất mà hóa thân vào các giá trị
của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội
và thể chế chính trị của quốc gia. Nó cũng phát triển theo q trình hội nhập kinh
tế thế giới, q trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích
cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn
thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm được
trong mọi hoạt động xây dựng sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ, giáo dục và đào tạo,... sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta
có cách tư duy độc đáo, có cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi
vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước phải tiếp thu những tinh hoa nhân loại song phải luôn luôn phát huy những
giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trƣơng
vừa bảo vệ bản sắc dân tộc vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có
chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự
phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa với các
quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây
dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong

phong tục, tập quán và lề thói cũ.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự
hịa quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng

Tieu luan


sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị
và bản sắc văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong
phú nền văn hóa Việt Nam thống nhất và củng cố sự thống nhất dân tộc.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm
1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc", xác định những quan điểm cơ bản:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa
trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. văn hóa khơng phải là kết quả
thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hồn tồn
vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy
kinh tế. “Văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh
hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp".
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân
tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục
tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện
của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội
và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lịng u nước nồng nàn,
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia

đình - Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm,
kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm …
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với thực
tiễn của cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của
cộng đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một công ước quốc tế về đa dạng văn
hóa hiện nay.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng. Quan điểm xác định trách
nhiệm của mọi người dân Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển

Tieu luan


văn hóa nước nhà; cơng nhân, nơng dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ
vai trò quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa.
Năm là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Quan
điểm chỉ rõ: Cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay đang
diễn ra hết sức nóng bỏng, quyết liệt, phức tạp. Văn hóa là một lĩnh vực hết sức
nhạy cảm và khác với các hoạt động kinh tế. Tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật
chất, nhưng các hoạt động văn hóa ln mang ý nghĩa chính trị - xã hội, có tác
động sâu sắc đối với đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tập quán cộng đồng. Vì
vậy, cần phải tiến hành một cách kiên trì, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy
ý chí; phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và phát triển văn hóa; đẩy mạnh phong trào “Tồn dân đồn kết

xây dựng đời sống văn hóa”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và
hoạt động của xã hội, vào từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, cũng như mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người trong xã hội. 
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã tiến thêm một bước
về khẳng định vai trò của văn hóa: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng
cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba
lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và
bền vững của đất nước".
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; quan tâm chăm lo xây dựng, hoàn thiện những phẩm
giá nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam. 
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những lạc hậu, lỗi thời trong
phong tục, tập quán và lề thói cũ.
Khơng e ngại sự áp đảo của tồn cầu hóa, khơng “ dị ứng” với mọi biểu hiện
của văn hóa nhân loại. Thâm nhập vào thế giới một cách chủ động, tự tin, tự nhiên,

Tieu luan


sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa với tư duy đa dạng văn hóa là một tất yếu
của giao lưu hợp tác.
Kinh tế và có kiến thiết kinh tế rồi thì văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều
kiện phát triển được. Ngược lại, văn hóa phải đứng trong kinh tế và chính trị, thúc
đẩy kinh tế và chính trị phát triển.
Phải xuất phát từ tư duy phương Đơng được đánh dấu bởi hồi bão tìm kiếm
tính thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn. Để giao lưu, hội nhập
phải có một thái độ “cầu đồng tồn dị”, tìm mẫu số chung thay vì kht sâu sự cách

biệt. Trong mối quan hệ Đơng – Tây, dân tộc và nhân loại, cần phải xác định có cái
chung và cái riêng, vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh để tập trung giải
quyết sự cân bằng, hài hịa giữa các yếu tố.
Có “vay” thì phải có “trả”. “Vay” thì phải sáng tạo khơng được trở thành kẻ bắt
chước. “Trả” thì phải xứng đáng là một dân tộc trong số ít của thế giới có nền văn
hóa tiêu biểu. Giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với thế giới, làm
phong phú thêm nền văn hóa nhân loại.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một ý thức chính trị và ý thức chính trị
của dân tộc, xây dựng tâm lý cộng đồng với nội dung cao là tinh thần độc lập tự
cường, tự chủ là biểu hiện cao nhất và trước hết của nền văn hóa. “Một dân tộc
khơng tự lực cánh sinh mà cứ ngồi nhờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng
được độc lập”.
Tiếp thu tồn diện, nhưng có “chọn lọc” qua “màng lọc” bản sắc văn hóa
Việt Nam. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, cịn cái mới mà lại càng xấu xa thì
cương quyết loại bỏ.
Phải thường xuyên bồi bổ cho lịch sử-văn hóa với ý nghĩa là cội rễ của dân
tộc, cái vốn của riêng mình. Điều cơ bản trước hết là phải làm kỳ được việc thường
xuyên bồi bổ cho lịch sử văn hóa, để cho cốt cách văn hóa dân tộc thấm sâu vào
tâm lý quốc gia. Một khi sao nhãng cơng việc đó thì sẽ tự đánh mất mình.
Kết hợp chặt chẽ việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đấu tranh chống lại
sự xâm nhập của văn hóa độc hại. Đó là mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc với tiếp
thu tinh hoa, giữa truyền thống-tiếp biến và đổi mới, để bồi bổ cho một nền văn
hóa dân tộc cường tráng, với các yếu tố nội sinh sung mãn.
2.3 Nền văn hóa Việt Nam là nền tảng văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam

Tieu luan


Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là

sự hòa quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng
sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc
riêng của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nên văn hóa chung nhất. Sự
thống nhất bao hàm cả tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất. Khơng có sự
đồng hóa hoặc thơn tính, kỳ thị bản sắc văn hóa của tồn dân tộc.
Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hóa
riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt
Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc.
2.4 Xây dựng và phát triển văn hóa là sự phát triển chung của toàn dân tộc do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trị quan trọng
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước. Đội ngũ tri thức gắn bó với nhân dân giữ vai
trị quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của
đất nước do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
2.5 Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách
hang đầu
Văn hóa theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ.
Phát triển nhận thức đã nêu ra từ Đại hội VI (1986) và hội nghị Trung ương
2 khóa VIII (12/1996) khẳng định: cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là quốc sách hang đầu, là động lực phát triển kinh tế-xã hội, là điều kiện cần
thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả
các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố
quốc phòng, an ninh.
2.6 Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên
những giá trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn

xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá
trình cách mạng đầy khó khăn phức tạp, địi hỏi nhiều thời gian. Trong cơng cuộc
đó, “xây” đi đơi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát

Tieu luan


triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
thế giới, sáng tạo vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu
tranh bài trừ các hủ tục, thói hư tật xấu, nâng cao tinh thần chiến đấu, chống mọi
mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hịa bình”.

Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đường lối của Việt Nam
3.1 Thành tựu đạt được
Tính đến nay, 11-2010, Việt Nam có đến 13 di sản được UNESCO công
nhận là Di sản thế giới.
 Di sản thiên nhiên
Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), 17-12-1994, 02-12-2000
Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình), 05-07-2003
 Di sản văn hóa
Quần thể kiến trúc cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), 11-12-1999
Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam), 12-1999
Phố cổ Hội An (Quảng Nam), 12-1999
Nhã nhạc cung đình Huế (Thừa Thiên Huế), 7-11-2003
Khơng gian văn hóa Cồng Chiêng (Tây Nguyên), 15-11-2005
Quan họ Bắc Ninh, 30-9-2009
Ca Trù, 1-10-2009; Mộc bản Triều Nguyễn, 3-1-2010
Bia đá văn Miếu-Quốc Tử Giám, 9-3-2010
Khu Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, 1-8-2010
Hội Gióng, 16-11-2010

Trong những năm qua, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hóa mới đã bước đầu
tạo dựng; q trình đổi mới tư duy về văn hóa, về xây dựng con người và nguồn
nhân lực có bước phát triển rõ rệt, mơi trường văn hóa có bước chuyển biến theo
hướng tích cực; hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng.

Tieu luan


Văn hóa phát triển, việc xây dựng đời sống văn hóa và nếp sống văn minh
có tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước.
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hóa chứng tỏ đường lối và
chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước đã và đang phát huy tích cực, định
hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hóa.
Những thành tựu nổi bật về văn hóa-xã hội trong q trình đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo được thế giới đánh giá cao. Ngay Tổng thống Mỹ Bush
cũng nhận xét khá tích cực: Việt Nam là một đất nước phi thường vì trong một thời
gian ngắn như vậy đã vươn lên sau chiến tranh và bây giờ người dân Việt Nam
đang thịnh vượng do sự nghiệp đổi mới mang lại. Rõ ràng các thành tựu nổi bật về
văn hóa-khẳng định 25 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử.
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được thừa kế và
phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong
đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với người nước ngồi được mở rộng. Một số
nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành.
Các tài năng văn hóa nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa-cả vật
thể và phi vật thể được giữ gìn, tơn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hóa đã
nhanh và đều khắp hơm. Hệ thống các sản phẩm văn hóa góp phần trực tiếp vào sự
phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hóa, con người va cuộc sống Việt

Nam được bạn bè hiểu rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hóa phát triển
đã góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng
thuận xã hội, tạo ra bầu khơng khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên
không ngừng.
3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Một là so với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng
phong phú trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ
đạt được trong lĩnh vực văn hóa cịn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ
để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh
vực tư tưởng. Đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt phức
tạp hơn, tổn hại khơng nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân
dân. Giáo dục và đào tạo còn những hạn chế, yếu kém.

Tieu luan


Nguyên nhân: Chưa có kế hoạch cụ thể và các biện pháp tốt;sự phát triển
của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với sự tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó
với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn. Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo
được chuyển biến rõ rệt. Mơi trường văn hóa cịn bị ơ nhiễm bởi các tệ nạn xã hội,
sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém,
lai căng, …Việc xây dựng thể chế văn hóa cịn chậm, chưa đổi mới, thiếu đồng bộ,
làm hạn chế tác dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất
nước. Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn lạc hậu về đời sống văn hóa-tinh thần ở
nhiều vùng nơng thơn, miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu
quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu vực,
tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.

Văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số đang ngày càng mai một đi như:
lễ hội, các làn điệu dân ca, trang phục truyền thống.
Việc bảo tồn văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi được xem là
vấn đề cấp bách cần sự vào cuộc của cấp ủy đảng, chính quyền. Những giá trị văn
hóa như văn hóa làng, lễ hội, ngành nghề thủ công, trang phục và âm nhạc, ngôn
ngữ, …của đồng bào dân tộc thiểu số dần bị mai một.
 Nguyên nhân chủ quan là:
Bệnh chủ quan, duy ý chí trong quản lý kinh tế-xã hội cùng với cuộc khủng hoảng
kinh tế-xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực đến việc triển khai đường lối
văn hóa.
Các quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hóa chưa được quán triệt đầy đủ cũng như
chưa thực hiện nghiêm túc.
Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hóa
trong cơ chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có biểu hiện xa rời cuộc
sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, thị hiếu thấp kém.

Tieu luan


C – KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận, nhìn một cách tổng quát, quan điểm của Đảng ta về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam là quan điểm nhất quán và xuyên suốt thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Thực hiện
những quan điểm đó, Đảng ta ln chú ý đến thực tiễn, phát triển ngày một lớn
mạnh đồng thời chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế để từ đó hồn
thiện một cách tốt hơn. nên văn hóa nước ta đạt được những thành tựu to lớn, góp
phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đã và đang trở thành
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế-xã
hội.Những thành tựu đó cần được kế thừa và phát triển trong giai đoạn mới, giai

đoạn tiến tới đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp như mục tiêu của
Đảng đề ra.

Tieu luan


Danh mục tài liệu tham khảo
1.Bộ giáo dục và đào tạo; Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam; NXB Chính trị quốc gia; 2010
2.Lê Chí Dũng; Giáo trình cơ sở Văn hóa Việt Nam
3.T.S Lương Thị Phương Thảo (chủ biên); Hướng dẫn ôn tập môn Đường lối cách
mạng của Đảng cộng sản Việt Nam; NXB Bách Khoa Hà Nội; 2016
4.Bộ giáo dục và đào tạo; Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam; NXB
Chính trị quốc gia

Tieu luan



×