Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm TRIẾT học mác LÊNIN về NGUỒN gốc, ĐỘNG lực của sự PHÁT TRIỂN và sự vận DỤNG QUAN điểm này TRONG QUÁ TRÌNH QUẢN lý NGUỒN NHÂN lực tại PHÒNG tài CHÍNH kế HOẠCH THÀNH PHỐ BIÊN hòa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.93 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1.
1.1.
1.2.

Chương 2.

2.1.

2.2.

1
5
Những vấn đề lý luận chung quan điểm Triết học Mác Lênin về nguồn gốc, động lực của sự phát triển
Quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc của sự

5

phát triển
Quan điểm Triết học Mác - Lênin về động lực của sự

5

phát triển
Sự vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn

10


gốc, động lực của sự phát triển trong quá trình quản lý
nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố
Biên Hịa hiện nay
Phịng tài chính kế hoạch thành phố Biên Hòa
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn

13
13

gốc, động lực của sự phát triển trong q trình quản lý
nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố
Biên Hòa hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
22
23


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, chỉ có một thế giới duy nhất
và thống nhất - thế giới vật chất. Tính thống nhất của thế giới không chỉ
được hiểu một cách đơn giản là vật chất tồn tại khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, một thế giới bao la rộng lớn
“vô thuỷ, vô chung” (không có đầu, mà cũng chẳng có cuối), thế giới thống
nhất ở tính vật chất; mà cịn phải hiểu rằng, trong thế giới có vơ số các sự
vật hiện tượng khác nhau, chúng tồn tại trong mối liên hệ thống nhất biện

chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng ln vận động biến đổi
và phát triển khơng ngừng.
Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận thức đúng về nó,
nhận thức được các nguyên lý, quy luật vận động của thế giới, từ đó tìm ra
phương pháp tác động đúng, thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Muốn vậy, tư duy của con người
không thể nghèo nàn, chết cứng, hay cô lập tách rời; mà phải phong phú,
sinh động, linh hoạt, nhìn nhận và xét đốn sự vật hiện tượng phải khách
quan, tồn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Quá trình vận động, phát triển
của các sự vật hiện tượng trong thế giới diễn ra như thế nào, do đâu mà có
sự vận động, phát triển ấy, những vấn đề này đã được phép biện chứng duy
vật mácxít nói chung, ngun lý về sự phát triển nói riêng đã làm rõ; đây
cũng chính là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nâng cao nhận thức, hiểu
biết đúng đắn về quản lý nguồn nhân lực tại các cơ quan, đơn vị hiện nay.
Quản lý nguồn nhân lực hiện nay tại các cơ quan, đơn vị công lập bên cạnh
những ư điểm cơ bản vẫn còn những mặt hạn chế nhất định, do vậy nghiên
cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nguồn gốc, động lực sự phát
triển để từ đó vận dụng vào quản lý nguồn nhân lực có ý nghĩa rất quan
trọng. Đó là lý do mà em chọn đề tài “Quan điểm Triết học Mác - Lênin về
nguồn gốc, động lực của sự phát triển và sự vận dụng quan điểm này trong
2


q trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố
Biên Hịa hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc và động lực của sự
phát triển; quan điểm về con người, quản lý nguồn nhân lực đã được các nhà
khoa học đề cập đến từ nhiều góc độ khác nhau.
Liên quan tới đề tài này, ở Liên xô (trước đây) và Cộng hịa dân chủ

Đức (cũ) đã có nhiều cuốn sách được xuất bản. Chẳng hạn: N.M.Beredơnôi: “Về
nguyên lý sự phát triển trong các tác phẩm của C.Mác”, M.,1981;
D.M.Kakabátde: “Con người với tư cách một vấn đề triết học”, Tbidixi,
1970… Tác giả Nguyễn Trung Thông (2017) viết cuốn sách “Triết học Mác Lênin về nguồn gốc, động lực cho sự phát triển - những vấn đề lý luận vận
dụng”, tác giả đã nghiên cứu, phân tích làm rõ nguồn gốc, động lực của sự
phát triển về mặt lý luận và vận dụng vào trong quá trình cách mạng nước ta.
Trong những năm qua ở nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
vấn đề con người, quản lý nguồn nhân sự. Năm 2018, Viện Triết học đã cho
xuất bản cuốn: “Về vấn đề con người và quản lý nguồn nhân lực mới” (Phạm
Hồng Đăng chủ biên), trong đó giới thiệu một cách tương đối hệ thống những
ý kiến của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề con người; làm thế nào để tạo ra
được những con người lao động kiểu mới, những con người biết tổ chức, biết
quản lý nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và toàn bộ các mặt của đời sống xã
hội. Cơng trình khoa học cấp nhà nước KX-07: “Con người Việt Nam - mục
tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội” đã tiến hành nghiên cứu con
người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, trong đó cũng nêu lên vấn đề quản
lý con người trong thời đại công nghiệp 4.0.
Cùng với quá trình thực hiện chương trình nghiên cứu cơ bản này, đã
có hàng trăm bài báo, báo cáo khoa học của các nhà khoa học trong cả nước
viết về quản lý nguồn nhân lực được liên tục đăng tải trên các tạp chí Cộng
sản, Triết học, Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý luận, Khoa học xã hội...
3


Nhiều luận án tiến sĩ xung quanh vấn đề con người cũng đã được bảo vệ
trong những năm qua. Chẳng hạn, Nguyễn Thế Kiệt: “Vai trò của những điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong phát triển con người mới thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam... Luận án tiến sĩ trên đã đi sâu giải
quyết ở các góc độ khác nhau nhiều vấn đề có liên quan tới quan niệm của
triết học Mác - Lênin về sự phát triển, về con người, tới việc xây dựng con

người mới ở Việt Nam và quan niệm quản lý nguồn nhân lực khoa học, hiệu quả.
Song, cho đến nay, việc vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn
gốc, động lực của sự phát triển và sự vận dụng quan điểm này trong q trình
quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa
hiện nay vẫn chưa có. Chính vì vậy, tơi chọn đề tài nêu trên để thực hiện tiểu
luận của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận quan điểm Triết học Mác Lênin về nguồn gốc, động lực của sự phát triển và thực tiễn q trình quản lý
nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hòa hiện nay đề
xuất các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn
gốc, động lực của sự phát triển và sự vận dụng quan điểm này trong quá trình
quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về vị, trí vai trị con người, về quản lý
nguồn nhân lực trong quá trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của khoa học xã hội nhân văn như: Phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phương pháp lơgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, tổng kết
thực tiễn, khảo sát thực tế, thống kê và điều tra xã hội học, xin ý kiến chuyên
4


gia, trao đổi, nghiên cứu tài liệu, sử dụng các kết quả nghiên cứu của các cơng
trình khoa học đã được cơng bố liên quan... để thực hiện mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận quan điểm Triết học Mác - Lênin
về nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hòa hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài có kết cấu bao gồm: Phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.

5


NỘI DUNG
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung quan điểm Triết học Mác Lênin về nguồn gốc, động lực của sự phát triển
1.1. Quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc
của sự phát triển
Phát triển. Có nhiều quan điểm khác nhau, đối lập về sự phát triển:
quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng. Quan điểm siêu hình xem sự
phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm thuần túy về lượng, khơng có sự thay đổi gì
về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay
đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vịng khép kín, chứ khơng có sự sinh thành
ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem
sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, khơng có bước quanh có,
phức tạp [6, tr.189].
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan niệm biện chứng xem xét sự
phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Q trình đó diễn ra dần
dần, nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, không phải lúc nào
sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm
chí có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là
kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất,

là q trình diễn ra theo đường xốy ốc và hết mỗi chu kì sự vật lặp lại dường
như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm biện chứng cũng
khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của sự vật, hiện tượng tồn tại trong
hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định phát triển là một phạm
trù triết học dùng đề chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Theo quan điểm
này, phát triển khơng bao qt tồn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái
quát xu hướng chung của sự vận động - xu hướng vận động đi lên của sự vật.
6


Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự
tăng, giảm thuần túy về lượng, khơng có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là q trình tiến lên liên tục,
khơng trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát
triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm “vận
động” (biến đổi) nói chung; đó khơng phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi
đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự
biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ
ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là q trình thống nhất giữa phủ định các
nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ
trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới [1, tr.253].
Phép biện chứng duy vật mácxít là sản phẩm của sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa điều kiện khách quan (nhất là những cống hiến của phép biện

chứng trong lịch sử) và nhân tố chủ quan (sự thiên tài, tình bạn vĩ đại, tâm
huyết của hai ơng). Theo Ph.Ăngghen, phép biện chứng chẳng qua là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự
nhiên, xã hội và của tư duy. Phép biện chứng đã xuất hiện từ thời cổ đại,
nhưng thời kỳ đó chỉ mang tính chất mộc mạc, ngây thơ, trực quan, như tư
tưởng biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng biện chứng
của triết học Phật giáo, chưa có cơ sở khoa học để chứng minh cho nó. Phép
biện chứng cũng đã có thời kỳ gắn liền với chủ nghĩa duy tâm, chủ yếu nhằm
phục vụ cho giai cấp thống trị, phản ánh sai lệch hiện thực khách quan, ít có
tác dụng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
7


Chỉ đến thời kỳ của C.Mác và Ph.Ăngghen, hai ông mới làm cho phép
biện chứng thực sự quyện chặt với chủ nghĩa duy vật, tạo thành chủ nghĩa duy
vật biện chứng và phép biện chứng duy vật thực sự, có giá trị to lớn trong quá
trình nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra sự khác hẳn về chất so với các hình
thức của phép biện chứng đã tồn tại trong lịch sử. Phép biện chứng duy vật
phản ánh một cách khách quan, tồn diện tồn bộ q trình vận động và phát
triển của thế giới thông qua hệ thống những nguyên lý, phạm trù và quy luật
cơ bản của mình; giúp cho con người ln nhìn nhận, thấy rõ tính phong phú
mn vẻ, tính vận động và phát triển khơng ngừng của thế giới vật chất, từ đó
các chủ thể có một cách nhìn biện chứng về thế giới, để khám phá ra phương
pháp hành động thích hợp tác động vào thế giới một cách có hiệu quả, đáp
ứng nhu cầu của con người và xã hội. Trong hệ thống những nguyên lý ấy, có
nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn
gốc, trạng thái, cách thức, khuynh hướng quá trình vận động, phát triển của
các sự vật hiện tượng trong thế giới [7, tr.280].
Các ngành khoa học đã chứng minh, mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong
thế giới không tách rời nhau, không chỉ nương tựa, xâm nhập vào nhau, mà

chúng cịn có q trình phát sinh, phát triển và diệt vong (sinh, trụ, dị, diệt,
hoặc thành, trụ, hoại, khơng). Do đó, phép biện chứng duy vật Mác xít phát
hiện ra sự phát triển của các sự vật hiện tượng đó là một thành tựu to lớn
trong lịch sử triết học nhân loại, đặc biệt khi sự phát triển ấy được khái quát
và xây dựng thành một nguyên lý thì giá trị của nó càng to lớn hơn nhiều,
ngày càng trở thành cơ sở lý luận khoa học và cách mạng cho các đảng cộng
sản, phong trào công nhân quốc tế cũng như toàn nhân loại tiến bộ trên thế
giới trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn, với
một niềm tin tưởng cao hơn và vững chắc hơn.
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật mácxít, phát triển là một
phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp
lên cao, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động. Phát triển cũng là một hình thức vận động,
8


cũng là một kiểu vận động, nhưng thông qua kiểu vận động đặc biệt này sẽ
cho ra đời một “cái mới” hơn hẳn về chất so với cái cũ (cao hơn và hồn thiện
hơn cái cũ) [2, tr.1190].
Như vậy, khơng phải mọi sự vận động đều được coi là phát triển, mặc
dù có năm hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất (vận động cơ học,
vận động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học và vận động xã hội),
nhưng chỉ những hình thức vận động nào, những sự vận động nào làm cho các
mặt, các thuộc tính của sự vật hiện tượng, hoặc làm cho bản thân sự vật hiện
tượng đó tiến lên từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn
thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, sự vật hiện tượng có một bước nhảy vọt
về chất, cái mới được ra đời phủ định cái cũ, đó mới được coi là sự phát triển,
sự phát triển ấy là một quá trình “của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới” [3, tr.275]. Như sự phát triển của một con người từ khi được sinh ra, lớn
lên - trưởng thành - hoàn thiện hơn về mọi mặt (cả về hình dáng, kích

thước, thể chất, trình độ...). Quan điểm của phép biện chứng duy vật khác
hẳn, thậm chí cịn đối lập với quan điểm duy vật siêu hình khi bàn về sự phát
triển, nếu như phép biện chứng duy vật cho rằng phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật hiện tượng, là q trình có sự nhảy vọt về chất, có sự ra
đời của cái mới (từ A thành A’, thành A’’…) thì quan điểm duy vật siêu hình
cho rằng sự vật hiện tượng khơng có sự phát triển, hoặc nếu có thừa nhận sự
phát triển của sự vật hiện tượng, thì đó chẳng qua chỉ là sự tăng lên về mặt số
lượng một cách đơn thuần chứ khơng có sự nhảy vọt về chất, sự phát triển
diễn ra theo đường trịn khép kín (từ A đến A), chứ không phải theo đường
xoắn ốc vô tận. Như thế, quan điểm siêu hình về sự phát triển của sự vật hiện
tượng, thực chất là không thừa nhận có sự phát triển, đó chỉ là sự vận động
dẫn đến sự lặp lại sự vật hiện tượng cũ một cách ngun si, khơng có sự ra
đời của cái mới.
Khi so sánh phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình,
V.I.Lênin viết: “Hai quan niệm cơ bản… về sự phát triển (sự tiến hoá): sự phát
triển coi như là sự giảm đi và tăng lên, như là sự lặp lại, và sự phát triển coi như
9


là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành những
mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa những mặt đối lập)…
quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là
sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khố của sự (tự vận động)
của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khố của những
“bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hố
thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh ra cái mới” [5, tr.120].
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung
của mọi sự vật hiện tượng, đó là q trình tự thân vận động, tự thân phát triển;
sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới đều có nguyên nhân,
nguồn gốc từ bên trong của bản thân sự vật hiện tượng, do q trình đấu tranh

giải quyết mâu thuẫn, chứ khơng phải do “cái hích” của thượng đế, hoặc do
“cái đẩy” của một đấng siêu nhiên nào, cũng không phải do có sự tác động từ
bên ngồi vào sự vật hiện tượng như quan điểm của một số nhà duy tâm, siêu
hình quan niệm; sự tác động từ bên ngồi sự vật hiện tượng (không phải thần
linh, thượng đế) chỉ làm tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình phát triển của
chúng, chứ không phải là nguyên nhân hay nguồn gốc của sự phát triển ấy.
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển cũng vậy, trước hết xã hội
đó phải tự giải quyết được những mâu thuẫn trong lòng xã hội, như mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất về mặt kinh tế, giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng về mặt cấu trúc xã hội, giữa các giai cấp trong xã hội
có giai cấp... Bản thân con người muốn phát triển được cũng phải tự giải
quyết rất nhiều mâu thuẫn ngay ở bên trong con người, như mâu thuẫn giữa
quá trình hấp thụ và bài tiết, giữa đồng hoá và dị hoá, giữa nhu cầu và khả
năng, giữa cái muốn biết và cái chưa biết... chỉ khi nào những mâu thuẫn cơ
bản của sự vật hiện tượng được giải quyết, khi đó mới có sự chuyển hóa, sự
nhảy vọt về chất và sự ra đời của cái mới.
Song khơng phải cứ có mâu thuẫn là lập tức có ngay kết quả của sự giải
quyết mâu thuẫn ấy, có ngay sự nhảy vọt về chất, mà chính ngay bản thân
mâu thuẫn đó cũng phải trải qua một q trình phát triển (có thể là lâu dài, có
10


thể là nhanh chóng, điều này tuỳ thuộc vào tính chất của sự vật hiện tượng,
của mâu thuẫn và phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể), mâu thuẫn đó
phải vận động phát triển bắt đầu từ sự khác biệt, đến sự đối lập, đến mâu
thuẫn và mâu thuẫn gay gắt khơng thể điều hồ, tạo nên những “cuộc xung
đột” giữa các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn. Đồng thời với quá trình
phát triển của mâu thuẫn là q trình diễn ra sự tích luỹ dần dần về lượng lượng của chất - của sự vật hiện tượng, cũng chính sự tích luỹ về lượng này
đã làm cho mâu thuẫn có sự vận động phát triển đến đỉnh cao của nó, đến khi
nó khơng thể giữ ngun được trạng thái như cũ nữa, tức là mâu thuẫn đó

phải được giải quyết, sự thống nhất cũ phải được phá vỡ để thiết lập một sự
thống nhất mới, cái chất cũ đến đây đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, khơng cịn
phù hợp với điều kiện hồn cảnh mới nữa, địi hỏi phải có một chất mới, một
sự vật hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật hiện tượng cũ; đó cũng là lúc sự
vận động của lượng đã vượt quá giới hạn (gọi là độ) đạt đến điểm nút, cái giới
hạn mà ở trong đó đã diễn ra sự biến đổi về lượng (cũ) đến đây cũng bị
phá vỡ, thay vào đó là một giới hạn mới được thiết lập và tất nhiên lại có một
sự biến đổi mới về lượng ở trong giới hạn mới này. Đến đây ta có thể khẳng
định: mâu thuẫn đã được giải quyết, chất cũ đã bị chất mới phủ định, sự vật
hiện tượng cũ đã bị sự vật hiện tượng mới phủ định (cái mới đã ra đời thay thế
cái cũ) - đó chính là nguồn gốc của sự phát triển.
Sự phát triển của sự vật hiện tượng thường là một q trình lâu dài, liên
tục, do đó chúng ta khơng được nóng vội, áp đặt dễ dẫn đến chủ quan, duy ý
chí. Chúng ta chỉ có thể nhận biết q trình đó, tác động vào, định hướng cho
sự phát triển đó nhanh hơn để có tác dụng tốt hơn cho nhu cầu của con người.
1.2. Quan điểm Triết học Mác - Lênin về động lực của sự phát triển
Động lực của sự phát triển của các sự vật, hiện tượng nằm ngay trong
bản thân các sự vật, hiện tượng, ở việc giải quyết liên tục các mâu thuẫn, các
mặt đối lập. Quá trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới
không phải đi theo đường thẳng, mà theo đường xoắn ốc; chúng phải trải qua
nhiều lần phủ định biện chứng, với những chu kỳ (vòng khâu của sự phát
11


triển) khác nhau, mỗi chu kỳ phát triển lại có hai lần phủ định cơ bản và có
thể có nhiều lần phủ định không cơ bản. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần một
tạo ra cái đối lập với cái ban đầu, giai đoạn này còn được gọi là khâu trung
gian trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Khi kết thúc phủ định cơ
bản lần hai tạo ra một sự vật hiện tượng mới có nhiều thuộc tính giống như
cái ban đầu, nên đơi khi tưởng là cái ban đầu, nhưng thực chất nó khơng phải

là cái ban đầu, mà là cái mới, là cái dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên
cơ sở cao hơn. Đến đây mới kết thúc một chu kỳ phát triển của sự vật hiện
tượng. Song, quá trình phát triển của sự vật hiện tượng khơng phải chỉ có một
chu kỳ, mà có thể có nhiều chu kỳ phủ định, với những tính chất mức độ khác
nhau; cứ kết thúc chu kỳ này lại có sự ra đời của chu kỳ mới.
Do sự vật hiện tượng có nhiều mặt, nhiều thuộc tính khác nhau, nên
vận động biến đổi về lượng, sự vận động phát triển của các loại mâu thuẫn, sự
nhảy vọt về chất của chúng diẽn ra rất phong phú, đa dạng, làm cho sự ra đời
của cái mới cũng rất đa dạng, phong phú muôn vẻ. Cái mới ra đời không nhất
thiết khi nào cũng phải là cả tồn bộ sự vật hiện tượng, mà có thể cái mới ra
đời chỉ ở mặt này, mặt kia; cũng như sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất vừa
có những bước tồn bộ, vừa có những bước cục bộ, bộ phận. Điều đó cho
thấy, q trình nhận thức và cải tạo thế giới con người phải ln có cách nhìn
biện chứng, phải vừa thấy cái toàn bộ, đồng thời vừa thấy cái bộ phận, cái cụ
thể, tránh phiến diện hoặc chung chung, đại khái, qua loa cho xong việc; từ đó
tìm ra nhiều phương pháp tác động phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất.
Hình ảnh đường xoắn ốc cho thấy, quá trình phát triển của các sự vật
hiện tượng trong thế giới diễn ra quanh co, phức tạp, khó khăn, có thể có
những bước thụt lùi tạm thời. Bước thụt lùi này chỉ như một giai đoạn có thể
diễn ra, nằm trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng, chứ không được
cho rằng bước thụt lùi ấy cũng là một sự phát triển - hai cách hiểu đó hồn
tồn khác nhau. Do sự đa dạng, phong phú mn hình, mn vẻ của thế giới
vật chất, nên khả năng xảy ra bước thụt lùi này cũng rất phong phú, đa dạng,
chúng có thể xảy ra ở mặt này hay mặt khác, ở nơi này hoặc nơi khác trong
12


quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Vì vậy, chúng ta không nên bi
quan, chán nản, nghi ngờ và thiếu niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, nhất
là khi cái mới vừa được “thoát thai” từ trong lòng cái cũ, cái cũ chẳng những

còn rất mạnh, mà chúng cịn có khả năng “thích nghi”, cịn đang được “che
giấu”rất tinh vi xảo quyệt để tiếp tục tồn tại và phát triển cùng với cái mới; cái
mới ra đời thường còn rất non yếu, bản thân “sức đề kháng” của cái mới chưa
đủ sức chống lại sự tấn cơng từ nhiều phía của những cái đối lập, chưa thực
sự “quen” với mơi trường hiện tồn [5, tr.156].
Do đó, sự thụt lùi, sự thất bại của cái mới ở giai đoạn đầu này cũng là
điều dễ hiểu, đòi hỏi con người phải nhận biết được vấn đề này để vạch ra
cách thức, bước đi, cách làm phù hợp, hạn chế tối đa những tổn thất đáng tiếc
đi đến thành cơng. Bên cạnh đó, chúng ta vừa cần có thái độ dứt khoát ủng
hộ, bảo vệ cái mới, vừa tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Đồng thời, cần
phân biệt rõ cái mới thực sự và cái mới giả hiệu - giả danh để kịp thời ngăn
chặn, loại trừ. Cái mới thực sự là cái ra đời hợp quy luật, mang nội dung mới
trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những yếu tố còn phù hợp của cái cũ, là cái khác
hẳn về chất so với cái cũ, mặc dù có thể cái mới cịn nhiều mặt non yếu, chưa
theo kịp yêu cầu đòi hỏi của điều kiện khách quan, nhưng cái mới bao giờ
cũng là cái tất thắng. Vì lẽ đó, trong cuộc sống cũng như trong q trình hoạt
động thực tiễn, một mặt, chúng ta ln chú trọng hướng tới cái mới, phát hiện
ra cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tương lai phát triển của nó một cách vừa
sâu sắc, vừa tồn diện; mặt khác, chúng ta cần phải luôn tỉnh táo, sắc sảo trong
phân biệt cái mới với cái cũ, cái mới thực sự với cái mới giả hiệu. Tích cực
hoạt động thực tiễn để làm chuyển biến “tương quan lực lượng” giữa cái mới
và cái cũ, làm cho cái cũ mất dần đi, cái mới ngày càng mạnh lên [4, tr.289].
Xuất phát từ đặc điểm, tính chất, trạng thái, cách thức của quá trình vận
động phát triển của sự vật hiện tượng, nên có thể có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau, đòi hỏi con người phải nhận thức được từng giai đoạn phát
triển ấy, vạch rõ được những đặc điểm, dự báo khuynh hướng cũng như một
số khả năng ngẫu nhiên có thể xảy ra của từng giai đoạn. Trên cơ sở đó dự
13



kiến các “phương án” để bảo vệ và phát triển cái mới, đáp ứng nhu cầu của
mỗi con người và toàn xã hội. Tránh xem xét cứng nhắc, bảo thủ, định kiến
hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào, giai đoạn nào trong quá trình phát triển của
sự vật hiện tượng. Tuỳ theo từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo khả
năng của từng sự vật hiện tượng mà đặt ra yêu cầu đòi hỏi “vừa sức” ở sự
phát triển của sự vật hiện tượng, đồng thời cần phát huy tốt vai trị tích cực,
chủ động, sáng tạo của con người để tạo ra sự thuận lợi cho sự phát triển của
sự vật hiện tượng, nhất là trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, quan điểm triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật,
nó đã vạch rõ nguồn gốc, cách thức, con đường quá trình phát triển của các sự
vật hiện tượng trong thế giới. Đây là cơ sở lý luận khoa học và cách mạng cho
con người đi nhận thức và cải tạo thế giới. Sự ra đời của cái mới là một tất
yếu khách quan, hợp quy luật. Vận dụng nội dung quan điểm này vào nâng
cao nhận thức về con người, quản lý nguồn nhân lực là một việc cần thiết và
quan trọng.
Chương 2. Sự vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn
gốc, động lực của sự phát triển trong q trình quản lý nguồn nhân lực
tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa hiện nay
2.1. Phịng tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa
Phịng Tài Chính Kê Hoạch thành phố Biên Hịa có địa chỉ tại 119 Phan
Chu Trinh, Phường Quang Vinh - Thành phố Biên Hồ. Ngồi việc thực hiện
tốt vai trị tham mưu giúp Ủy ban Nhân dân thành phố trong điều hành thu chi
ngân sách, những năm qua, Phịng Tài chính - kế hoạch thành phố Biên Hòa
còn phối hợp các ngành liên quan khai thác các nguồn thu ngân sách để bảo
đảm cân đối chi thường xuyên, đột xuất và tích lũy đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng. Nhờ đó, trong năm 2019, thành phố Biên Hòa đã thực hiện tổng thu
ngân sách nhà nước lên đến hơn 3.282,1 tỷ đồng (đạt 95% so với dự toán của
tỉnh và đạt 104% so với Nghị quyết hội đồng nhân dân thành phố) và tổng chi
cân đối ngân sách hơn 1328,6 tỷ đồng (đạt 122% so với dự toán của tỉnh và

14


112% so Nghị quyết Hội đồng nhân dân thành phố). Đặc biệt, với ý thức và
tinh thần trách nhiệm cao, các cán bộ của đơn vị luôn quản lý tốt nguồn thu và
kiểm soát chặt chẽ các khoản chi theo định mức được giao, bảo đảm chi theo
đúng chế độ, đúng quy định; kiểm tra quyết toán ngân sách kịp thời đối với
các đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách xã, phường
theo đúng quy định; thực hiện triệt để tinh thần tiết kiệm, chống lãng phí.
Cùng với cơng tác thu chi ngân sách, năm 2019, Phịng Tài chính - kế
hoạch thành phố Biên Hịa cịn phối hợp với các cơ quan, ban, ngành hồn
thành tốt việc kiểm tra giá điện tại các khu nhà trọ; kiểm tra việc niêm yết giá
và bán đúng giá tại các chợ trên địa bàn; thẩm định phương án bồi thường của
các dự án xây dựng trụ sở các đơn vị, các cơng trình trên địa bàn; phối hợp
thực hiện lập “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Biên
Hòa đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030”. Trong lĩnh vực phát triển
kinh tế, trong năm Phịng Tài chính - kế hoạch thành phố Biên Hòa cũng đã
hướng dẫn thành lập mới 3 Hợp tác xã (Hợp tác xã Thanh Liêm, Tài Thành và
Dân Sinh), hỗ trợ cho vay vốn cho 2 Hợp tác xã khác với số vốn là 900 triệu
đồng; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 6.260 hộ (có 1.294 hộ
phịng trọ) với tổng số vốn 964 tỷ đồng (trong đó cấp mới cho 3.063 hộ với số
vốn 451 tỷ đồng). Đồng thời, phòng đã tăng cường cho công tác kiểm tra,
quản lý các hộ kinh doanh, hỗ trợ ngành thuế chống thất thu, góp phần hạn
chế việc kinh doanh dịch vụ văn hóa khơng lành mạnh, cùng các tệ nạn xã hội
trên địa bàn thành phố.
Nhờ sự nỗ lực khơng ngừng của tồn thể đội ngũ cán bộ, viên chức, từ
năm 2006 đến nay, Phịng Tài chính - kế hoạch thành phố Biên Hịa ln được
Ủy ban Nhân dân tỉnh tặng bằng khen. Đặc biệt, năm 2019, phòng đã được
Bộ Kế hoạch và đầu tư tặng bằng khen về những thành tích trong lao động
chun mơn và mới đây vinh dự nhận được bằng khen của Thủ tướng Chính

phủ dành cho tập thể lao động xuất sắc.

15


2.2. Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động
lực của sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng
Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hòa hiện nay
Nguồn nhân lực. Nhân lực hiểu theo nghĩa chung nhất là nguồn lực con
người. Trong nền sản xuất và đời sống xã hội hiện đại, cùng với các nguồn
lực khác (vật chất, tài chính, cơng nghệ…), nguồn lực con người hay vốn con
người có vai trò quan trọng và là nhân tố quyết định trong các hoạt động của
đời sống xã hội. Theo Begg, Fischer và Dornbsch (1995), Nguồn nhân lực
được hiểu là toàn bộ trình độ chun mơn con người tích luỹ được, có khả
năng đem lại thu nhập trong tương lai. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, nguồn
nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa
phương sẵn sàng tham gia một cơng việc nào đó.
Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người gồm thể lực, trí lực và nhân
cách của họ được vận dụng ra trong q trình lao động sản xuất, hoạt động
chính trị, xã hội. Để xây dựng và phát triển, mỗi quốc gia đều phải dựa vào
các nguồn lực cơ bản nhất: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, tiềm năng
về khoa học công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn, trong đó nguồn
nhân lực (nguồn lực con người) luôn là nguồn lực cơ bản và chủ yếu nhất
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Tiếp cận vấn đề này ở
nhiều góc độ khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều khái niệm về nguồn nhân
lực để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
Dưới góc độ kinh tế học, nguồn nhân lực bao gồm tất cả những người
trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao
động (trừ những người tàn tật mất sức lao động loại nặng) và những người
ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế đang làm việc. Nguồn nhân lực của một

tổ chức hình thành trên cơ sở của các cá nhân có vai trị khác nhau và được
liên kết với nhau theo những mục đích nhất định.
Khác với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực là nguồn lực con người.
Nếu xét về vai trị của nguồn lực này trong q trình sản xuất, nguồn nhân lực
không chỉ là yếu tố đầu vào của sản xuất (nguồn cung), mà ở khía cạnh với tới
16


cách là một thực thể sống, nguồn nhân lực lại là yếu tố tạo nên cầu. Các
nguồn lực khác của doanh nghiệp đều do con người sử dụng để phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của chính bản thân doanh nghiệp. Mỗi nhân
viên có các năng lực, đặc điểm cá nhân khác nhau, có tiềm năng phát triển và
có khả năng đồn kết làm việc theo nhóm, tổ, đội tạo lên hiệu quả cao trong
công việc mà họ đảm nhận, đồng thời họ liên kết lại để hình thành nên các tổ
chức, để bảo vệ quyền lợi của bản thân trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiểu theo góc độ rộng hơn thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực của
con người bao gồm hai yếu tố chính là thể lực và trí lực. Xét theo phạm vi hẹp
hơn trong phạm vi một tổ chức thì nguồn nhân lực thể hiện ở số lượng và chất
lượng người lao động đang làm việc trong tổ chức đó bất kể cơng việc họ đảm
nhiệm là gì.
Theo đó, nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người
với tổng hồ các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức, tinh
thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy
động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Do vậy, vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động
lực của sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài
chính kế hoạch thành phố Biên Hòa hiện nay, trước tiên phải quán triệt quan
điểm của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định phát triển nguồn
nhân lực là một trong ba khâu đột phá để phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc

tế. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách để phát triển nguồn nhân.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo trên đây, trong thời gian qua Phịng Tài
chính kế hoạch thành phố Biên Hịa đã thường xuyên quan tâm, đầu tư, quy
hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên đang công tác tại cơ quan. Đặc
biệt là đội ngũ cán bộ ngày càng chú trọng phát triển. Là một đơn vị quan
trọng của thành phố, Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa cần phải
có nguồn nhân lực bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi,
17


thông minh sáng tạo, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo có
trình độ chun mơn.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hịa hiện nay ln coi con người là nhân tố trung tâm
có tính quyết định đến chất lượng cơng việc, đến khả năng hồn thành nhiệm
vụ của Phịng.
Trong các yếu tố tạo nên nguồn lực của Phòng Tài chính kế hoạch
thành phố Biên Hịa thì chính con người là nhân vật chính, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực để phát triển. Nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo
ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính
bản thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vơ
giá ấy. Trên phương diện đó vai trị nhân tố con người lao động trong mọi
hoạt động của Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hòa là yếu tố động
nhất sáng tạo nhất. Nhân tố trung tâm của con người chính là sức lao động
bao gồm thể lực và trí lực. Khơng có người lao động nào trong q trình sản
xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể lực hay lao động cơ bắp. Chính
những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là

công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của
con người khơng ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người ngày
càng phát triển. Trong q trình đó khơng những con người sử dụng trí tuệ nội
tại của mình mà cịn được kế thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau
giữa những người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực
lượng sản xuất. Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn
nữa nó có thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ.
Vai trị con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị
lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng
tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc
18


gia…. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động . Chỉ có
nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được cơng cụ sản xuất làm cho sản
xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ
sản xuất và các quan hệ xã hội khác. Có thể khẳng định rằng nhân tố con
người đóng vai trị quyết định quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Qn triệt quan điểm trên, Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên
Hịa ln đặt con người là yếu tố trung tâm, quan trọng. Do vậy, quá trình
quản lý nguồn nhân lực luôn coi trọng yếu tố sự phát triển của con người cả
về thể chất và tinh thần, trí lực.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong q trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hịa hiện nay đặt ra yêu cầu khi xem xét các sự vật,
hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển. Xem xét con người

trong Phịng cũng phải ln trong q trình vận động, phát triển. Phịng Tài
chính kế hoạch thành phố Biên Hịa cần phải nắm được con người khơng chỉ
như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được
khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa. Bằng tư duy khoa
học, phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác
nhau đó. Do vậy, ln có quan điểm phát triển trong quản lý nguồn nhân lực.
Đồng thời trách mắc phải sai lầm, có quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Tuyệt đối hóa một mặt nào đó của con người có được trong một hồn cảnh
lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về tồn bộ q trình
phát triển của con người sẽ đưa đến sai lầm nghiêm trọng.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hịa đặt ra yêu cầu không dao động trước những quanh
co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn. Tức là, khi một cán bộ, nhân
19


viên nào đó của Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa hồn thành
nhiệm vụ ở mức thấp tại một thời điểm hay vi phạm quy định… thì cán bộ
phịng khơng được dao động, phủ nhận tất cả thành tích cá nhân đó đạt được
trong q trình cơng tác. Vấn đề là phải tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Ta
cần phải xác định rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình
biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải cơng nhận tính quanh co, phức tạp
của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên. Quan
điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi
bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương
đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hịa thì phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự

phát triển của sự vật, hiện tượng. Tức là lãnh đạo phịng phải tìm ra các giải
pháp thúc đẩy đội ngũ cán bộ, nhân viên của phòng phát triển, nâng cao trình
độ nghiệp vụ, chun mơn và phẩm chất đạo đức, lối sống. Phải tích cực, chủ
động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ
đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện
tượng phát triển. Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng
giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra
theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hồn thiện hơn.
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới
phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trị chủ đạo. Ta cũng phải
tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… cịn hợp lý của cái cũ, đồng
thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hòa hiện nay cần thực hiện tốt việc sử dụng nhân lực.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ, viên chức Phịng Tài chính kế hoạch thành phố
Biên Hịa trong thời gian qua về cơ bản đảm bảo đúng ngành nghề được đào
20


tạo; phát huy được sở trường của cán bộ, viên chức. Hàng năm, Phịng Tài
chính kế hoạch thành phố Biên Hịa đều có kế hoạch rà sốt, bố trí cán bộ,
viên chức đảm bảo cơ cấu, phù hợp với yêu cầu về năng lực của từng vị trí
việc làm, cơ bản thực hiện tốt chính sách luân chuyển, điều động cán bộ, viên
chức theo quy định. Tuy nhiên, ở Phòng Tài chính kế hoạch thành phố Biên
Hịa, việc sử dụng, phân công công tác cho cán bộ, viên chức vẫn còn hạn
chế, chưa phát huy hết tiềm năng của đội ngũ hiện có. Vẫn cịn tình trạng
phân cơng thực hiện cơng việc trái với khả năng, trình độ, sở trường, ngạch,
bậc đang giữ. Việc sử dụng cán bộ, viên chức cịn chưa hợp lý ở một số vị trí.
Do vậy, cần vận dụng vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn

gốc, động lực của sự phát triển để tiến hành quản lý nguồn nhân lực tại Phòng
Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa sao cho hợp lý, khoa học, khắc phục
những hạn chế trên.
Vận dụng quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hòa hiện nay cần thực hiện tốt khâu đánh giá nhân lực.
Đánh giá công chức theo Luật Cán bộ công chức được thực hiện căn cứ vào 6
nội dung cơ bản (Điều 56) Tuy nhiên, quá trình triển khai cho thấy các tiêu
chí này cịn dàn trải, chưa có trọng số và thiếu tập trung vào kết quả thực hiện
công việc, khó đo lường cụ thể kết quả nên thực tế việc áp dụng đánh giá gắn
với kết quả thực thi cơng vụ rất khó thực hiện. Để khắc phục nhược điểm đó,
Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về
đánh giá và phân loại cán bộ, viên chức được thực hiện theo từng năm công
tác và được tiến hành trong tháng 12 hàng năm (Điều 5). Khắc phục tình trạng
cào bằng trong đánh giá thể hiện ở tỷ lệ lao động tiên tiến ở mức độ rất cao
thời gian qua bắt đầu có xu hướng giảm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được
phân loại khác nhau thể hiện sự ghi nhận những nỗ lực và thành tích của cán
bộ, viên chức khách quan hơn.

21


Quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên
Hịa hiện nay cần có quan điểm phát triển. Cụ thể là: Phát triển số lượng của
nguồn nhân lực ở Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa. Đó là sự gia
tăng về số lượng của nguồn nhân lực theo hướng phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ của phòng. Sự phát triển về số lượng nguồn nhân lực dựa trên yếu tố bên
trong như nhu cầu thực tế phải tăng số lượng để đáp ứng nhiệm vụ. Trong
phát triển số lượng của nguồn nhân lực cần quan tâm ưu tiên đến người có
trình độ, năng lực, có đủ tiêu chuẩn và trình độ theo quy định.

Bảo đảm sự phù hợp về cơ cấu nguồn nhân lực ở Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hịa. Cơ cấu nguồn nhân lực là thành phần, tỉ trọng và
vai trò của các bộ phận trong tổng thể nguồn nhân lực. Để xác định cơ cấu
nguồn nhân lực của Phòng Tài chính kế hoạch thành phố Biên Hịa phải xuất
phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của phòng.
Phát triển về chất lượng của nguồn nhân lực ở Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hòa bao gồm phát triển về năng lực chun mơn; bảo
đảm phát triển tổng hịa của các yếu tố kiến thức, kỹ năng, hành vi và thái độ
góp phần tạo ra tính hiệu quả trong cơng việc chuyên môn của mỗi người. Về
kiến thức: Phát triển kiến thức chính là nâng cao trình độ chun mơn và các
kiến thức khác như: ngoại ngữ, tin học, chính tri, làm cho đội ngũ cán bộ,
viên chức có trình độ đáp ứng nhu cầu hiện tại và chiến lược trong tương lai
của phịng. Người có kiến thức dễ dàng hồn thành cơng việc thuộc lĩnh vực
chun mơn của mình. Để phát triển nguồn nhân lực cần phải nâng cao kiến
thức của nguồn nhân lực, trang bị cho người lao ñộng những kiến thức mới.
Về kỹ năng: Phát triển kỹ năng là nâng cao khả năng của nguồn nhân
lực trên nhiều lĩnh vực để đáp ứng nhu cầu cao hơn trong nghề nghiệp ở hiện
tại hoặc trang bị kỹ năng mới cho tương lai. Về hành vi, thái độ: Trình độ
nhận thức của cạn bộ, viên chức Phịng Tài chính kế hoạch thành phố Biên
Hòa được biểu hiện qua thái độ, hành vi và cách ứng xử trong công việc của
họ. Nhận thức của người cán bộ, viên chức cho thấy cách nhìn nhận của
người đó về vai trị, trách nhiệm, mức độ nhiệt tình đối với cơng việc, điều
này sẽ ñược thể hiện qua các hành vi của họ. Nhận thức của cán bộ, viên chức
được coi là tiêu chí đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực.
22


Tóm lại, q trình quản lý nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính kế
hoạch thành phố Biên Hịa hiện nay cần bám sát vào điều kiện thực tiễn của
phòng, đồng thời lãnh đạo phịng phải ln có quan điểm phát triển trong quá

trình quản lý, cần vận dụng một cách khoa học quan điểm của triết học Mác Lênin về nguồn gốc, động lực của sự phát triển trong quá trình quản lý nguồn
nhân lực.
KẾT LUẬN
Sự ra đời và phát triển của phép biện chứng duy vật là một quá trình
hợp quy luật khách quan của nhận thức của con người. Với tính cách mạng và
khoa học của phép biện chứng duy vật mácxít, nó đã trang bị cho chúng ta
một cơ sở lý luận vững chắc trong nhận thức và cải tạo thế giới. Thông qua
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của phép biện
chứng, đặc biệt là quan điểm về nguồn gốc, động lực của sự phát triển giúp
chúng ta có thể xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng một cách khách quan,
toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Đặc biệt, quan điểm Triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, động lực của
sự phát triển cung cấp cho chúng ta nhận biết sâu sắc về nguồn gốc, con
đường, trạng thái, cách thức và khuynh hướng phát triển của các sự vật hiện
tượng trong thế giới nói chung, trong lĩnh vực xã hội nói riêng. Từ đó, chúng
ta có cơ sở khoa học và cách mạng để vận dụng vào trong quá trình quản lý
nguồn nhân lực tại Phịng Tài chính - Kế hoạch thành phố Biên Hịa hiện nay.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
4. Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.

5. V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
6. Trung tâm từ điển: Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003.
7. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007.

24



×