Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN sự tương đồng và khác biệt giữa triết học ấn độ cổ đại và triết học trung quốc cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.65 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói rằng, “Triết học” là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những
nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là
khoa học về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch sử Triết
học đã trãi qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao
như giai đoạn triết học của Arixtốt, Đêmơcrít và Platơn nhưng cũng có lúc biến thành
một mơn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm
mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song
song giữa hai nền Triết học phương Tây và phương Đông. Do điều kiện địa lý tự
nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau.
Nói đến triết học phương Đông phải kể đến Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung
Quốc cổ đại. Đây là hai trong số những chiếc nôi Triết học sớm nhất, lâu đời, phong
phú và đã tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền lịch sử Triết học. Triết học Ấn Độ cổ đại
và Triết học Trung Quốc cổ đại đều có chung đặc điểm là phân tích các vấn đề xuất
phát từ nhân sinh quan, tuy nhiên do đặc điểm kinh tế - chính trị, xã hội khác nhau nên
mỗi nền triết học này cũng có những đặc trưng khác nhau.
Do đó, em đã chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại
và Triết học Trung Quốc cổ đại” để phân tích sâu hơn về các vấn đề như sự hình
thành, phát triển và nét đặc thù cũng như những điểm tương đồng và khác biệt của hai
nền Triết học này.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về nền triết học Phương
Đông, chủ yếu là triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại. Chủ yếu là
học viên đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học này để có sự
hiểu biết đúng đắn và sâu sắc. Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí
luận và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực cơng tác chun mơn của
chính mình.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, ta phải thực hiện những nhiệm vụ sau:


-

Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại.
1

Tieu luan


-

Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Cơ sở lí luận về triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại.

-

Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại.

-

Sự khác biê ̣t giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu

-

Tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

-

Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, tôi đã lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
để nhìn nhận sự việc theo sự vận động và phát triển của nó.
- Thu thập dữ liệu: Thu thập thông tin từ sách vở, bài giảng, giáo trình, báo, đài,
internet.

2

Tieu luan


NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
1.1. Khái quát triết học Phương Đông cổ đại
Lịch sử triết học Phương Đông nổi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết học
Ấn Độ và triết học Trung Quốc.
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai thời
kỳ chính: Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời kỳ cổ điển
(cịn gọi là thời kỳ Bàlamơn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến thế kỷ VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải quyết những
vấn đề nhân sinh dưới góc độ tơn giáo với xu hướng "hướng nội", đi tìm cái Đại ngã

trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự phản tỉnh nhân sinh là một
nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái
Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vơ
thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu).
Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một quá trình đan xen, thâm
nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và
Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những
vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên
quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã
hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự
xã hội theo mơ hình chế độ qn chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá
trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa
thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến
dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy cịn có những hạn chế
nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của
người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này
không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết
học Trung Hoa.
1.2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ đại
1.2.1. Điều kiện ra đời
3

Tieu luan


- Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo
Nam Á có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao gồm cả nước
Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng; vừa có sơng ấn chảy về

phía Tây, lại vừa có sơng Hằng chảy về phía Đơng; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có
sa mạc khơ cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức...
- Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện và
dân cư rất đa dạng. Ấn Độ cổ - Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời kỳ văn minh
sông Ấn, thời kỳ văn minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc lập và thời kỳ các vương
triều lệ thuộc. Từ trong nền văn minh sông Ấn của người bản địa Đraviđa xa xưa, nhà
nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, đến thế kỷ XVII trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên
sông Ấn…) đã làm cho nền văn minh này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công
nguyên,các bộ lạc du mục Arya ở Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định
cư và tiến hành q trình nơ dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa Đraviđa.
Kinh tế tiêu biểu nông nghiệp kết hợp với thủ cơng nghiệp mang tính tự cung, tự cấp,
lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng vững chắc cho các
công xã nông thôn ra đời. Trong mơ hình của cơng xã nơng thơn đã hình thành bốn
đẳng cấp với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai dẳng; ruộng đất thuộc quyền sở
hữu của nhà nước của các đế vương; nhà nước kết hợp với Tơn giáo thống trị nhân dân
và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội; con người
sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát được giải thoát. Sư phân biệt về đẳng
cấp, chủng tộc, dịng dõi, tơn giáo, nghề nghiệp,… đã tạo ra những xung đột ngấm
ngầm trong xã hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà nước – tôn giáo.
Xã hội phát triển một cách chậm chạp và nặng nề.
- Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ
sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhi ều
kiến thức về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực,
nguyệt thực... ở đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị
số π, biết về đại số, lượng giác, phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã
xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo
mộc. Chữ viết đã xuất hiện từ thời văn hóa Harappa; các bộ kinh Vêđa và sử thi sớm
xuất hiện; Nghệ thuật tạo hình như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các cung
4


Tieu luan


điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn như đạo
Bàlamôn – Hinđu, đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
1.2.2. Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tơn giáo. Tơn giáo và Triết học
xen kẽ vào nhau. Trong Tơn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có màu sắc
Tơn giáo. Tuy nhiên Tơn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu sức
mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại” như các tôn giáo
phương Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế.
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân bản,
đó là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh các
vấn đề: Bản nguyên vũ trụ và Con người, linh hồn, đạo đức.
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Ấn Độ cổ đại
Người ta phân chia q trình thành 2 thời kỳ chính:
- Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN.
Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các biểu tượng
huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu
là kinh Veđa và Upanisal.
+ Vêđa có nghĩa là hiểu biết, tri thức cao cả, thiêng liêng, nó cũng được
dùng với nghĩa là “Kinh thánh”.
+ Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tơn giáo - triết học, gồm
200 bài kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tơn giáo
Véđa. Nó thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi
lễ và bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
- Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ 7
TCN đến thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã phát triển
cao, nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức cơng xã nông thôn, cùng

sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc
nghiệt của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo
được coi là hệ tư tưởng chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào
lưu triết học thời kỳ này với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội
khác nhau, vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
5

Tieu luan


Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến
đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véđa. Từ đó đã hình thành cách
phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học thành hai phái
chính:
+ Hệ thống chính thống bảo vệ cho chế độ đẳng cấp xã hội thừa nhận uy thế
của kinh Vêđa (có 6 trường phái): 1) Samkhya, 2) Nyaya, 3) Vaisêsika, 4) Mimamsa,
5) Yoga và 6) Védanta.
+ Phái triết học khơng chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế tối cao của kinh
Véđa, đạo Bàlamôn gồm 3 trường phái chính là:
1) Các trường phái triết học vơ thần, duy vật trong phong trào mới địi tự do
tư tưởng ở Đông ấn và trường phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa
duy vật khoái lạc Charvaka;
2) Phật giáo
3) Đạo Jaina.
1.2.4. Nội dung cơ bản triết học Ấn Độ cổ đại
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế giới
quan và Nhân sinh quan.
1.2.4.1. Thế giới quan (Thế giới quan: Quan niệm của con người về thế
giới: tự nhiên và xã hội)

Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô thường, nhân duyên.
- Vô tạo giả:
+ Nghĩa là khơng có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật đều có nhân, có
quả, khơng có ngun nhân đầu tiên (Phật giáo khơng thừa nhận đấng sáng tạo)
+ Mọi vật trong vũ trụ, kể cả con người là tự có theo luật nhân quả. Chúng
biến đổi vô cùng vô tận.
- Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo từ
các yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội tụ nhau trong một
thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa, tan hợp, hợp tan.
Do đó vạn vật chỉ là dịng biến hóa hư ảo vơ cùng, khơng có gì là thường định. Phật
giáo quan niệm: sự tồn tại của một con người ở trên đời chỉ là ngắn ngủi bởi vì các yếu
tố tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát rồi lại chuyển hóa thành cái khác.
6

Tieu luan


Thủy + Hỏa + Thổ + Phong + Không/ 5 yếu tố vật chất (Sắc) + Thức / 1 yếu tố tinh
thần (Danh).
- Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này khơng có cái gì là thường định
(ổn định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường xuyên biến đổi theo
một chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là tồn tại, phát triển trong một
thời gian, Dị là biến đổi, Diệt là tiêu vong, là mất.
- Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự vật, hiện
tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện. Duyên là điều
kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại
do duyên mà thành quả mới. Cứ như thế khơng có ngun nhân đầu tiên và khơng có
kết quả cuối cùng.
1.2.4.2. Nhân sinh quan (quan điểm của con người về cuộc sống)
* Thuyết luân hồi, nghiệp báo

- Luân hồi: Bánh xe quay tròn
Lý giải: Khi người ta chết thì chết về thể xác, cịn linh hồn bất tử, còn sống đầu
thai sang kiếp khác.
-

Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời hiện hữu của mỗi

người đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do kiếp trước gây ra. Đạo Phật
cho rằng một người tu nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì đời sau thiện báo, cịn đời
này ác thì đời sau ác báo:
Thiện giả  Thiện báo; Ác giả  Ác báo.
Cuộc đời con người trong vòng số kiếp kiếp này là quả của kiếp trước và lại là nhân
của kiếp sau.
- Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh
phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật,
con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hồ bình, an lạc, cơng bằng, mọi
người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể. Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình,
hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở
thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp
bức bóc lột.
* Thuyết tứ diệu đế:
7

Tieu luan


Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của Thanh
Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm
có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
- Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì

sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Theo cách phân tích
khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
+ Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vơ thường
chi phối nên khổ.
+ Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương
tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm
cho người ta phiền não.
+ Bệnh khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân
thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
+ Tử khổ: Là cái khổ khi người ta chết.
+ Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
+ Sở cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi
thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
+ Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
+ Ngũ uẩn khổ: sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành, thức.
- Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ, gồm
ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) cịn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ.
Nhân đế được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân duyên để thấy được nguồn gốc của
sự vật trong thế gian gồm:
1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh - sắc. 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thụ 8. Ái 9. Thủ 10.
Hữu 11. Sinh 12. Lão - tử
- Diệt đế: Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế
gian để đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường cịn, khơng biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
8


Tieu luan


Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch khơng cịn ơ nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành
nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu
thoát, tịnh diệt.
- Đạo đế: Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải
thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Nội dung cơ bản thể hiện trong thuyết Bát chính đạo,
gồm có:
+ Chính ngữ: là tu nghiệp thanh tịnh, khơng phát ra lời nói sai trái.
+ Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
+ Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
+ Chính tinh tấn: tiến tới trên con đường đạo, khơng đi vào các đường tà.
+ Chính niệm: tâm trí ln ln nghĩ đến những điều hay lẽ phải.
+ Chính định: giữ tâm vắng lặng, tập trung vào một điều chính đáng.
+ Chính kiến: tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật.
+ Chính tư duy: sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách
chân chính, làm chủ được dịng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì khơng ngồi ba ngun tắc: giới, định, tuệ hay
cịn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung cho nhau.
1. Giới học: dùng để khắc phục tham gồm chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh.
2. Định học: dùng để khắc phục sân gồm chính tinh tấn, chính niệm, chính định.
3. Tuệ học: dùng để khắc phục si gồm chính kiến, chính tư duy.
1.3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Trung Quốc cở đại
1.3.1. Điều kiện ra đời:
-


Nước có nhiều dân tộc: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là Hán.

Cờ có 5 ngơi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi sao lớn tượng
trưng cho dân tộc Hán
-

Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương Tây –

Trong lòng xã hội phong kiến khơng có yếu tố tư bản.
-

Phương Tây: phong kiến: thế kỷ 4 đến 15  11 thế kỷ  yếu tố Tư bản 

cách mạng tư sản.
9

Tieu luan


Trung Quốc bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ sớm  Nhà Hạ

-

21 TCN

Chiếm hữu
nô lệ

Xuân
thu


8 TCN

5

Chiến
quốc

3 TCN

Hán
nho

Chiếm hữu nơ lệ suy tàn
Chế độ phong kiến hình thành phát triển

-

Chiến tranh diễn ra liên miên: Khổng Tử: Mạnh Tử, Tuân Tử

Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh.
Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh thành thì thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất thì
thây chất đầy đồng”.
1.3.2. Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại
- Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức.
- Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ơng quan tham mưu
cho các vương triều đình – có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời – như Khổng
Tử.
- Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia

chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”
- Vấn đề cơ bản của triết học.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói
riêng là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
- Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra
xung quanh các vấn đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ:
Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương, ngũ hành
+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống
chết, giàu nghèo do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục (quyết
định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học cũng
khơng biết. Duy vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
- Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy vật, duy
tâm, vô thần, hữu thần đan xen vào nhau đơi khi khó thấy.
10

Tieu luan


- Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm khơng như phương Tây.
1.3.3. Q trình hình thành và phát triển của Triết học Trung Quốc cổ đại
Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả
đưa ra học thuyết của mình nhằm biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu
nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm học thuyết được ra đời, cho nên, thời này còn
được gọi là thời Bách gia chư tử.
Trong hàng trăm học thuyết đó có sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia,
Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia. Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã
vươn lên vai trò thống trị. Từ thời Tần – Hán, rồi Lưỡng Hán, Ngụy - Tấn, Tùy –
Đường trở nên thiên hạ thống nhất, dựa vào năng lực chính trị, giai cấp thống trị yêu

cầu thống nhất, dựa vào quyền lực chính trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất tư
tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng Phật. Năm 136 Hán Vũ Đế chấp nhận
kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật.
Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò thống trị lâu dài, Nho gia phải hấp thụ các
tư tưởng của các trường phái khác. Kinh học do Nho làm chủ đã xuất hiện. Sau giai
đoạn thống trị của Nho gia đến thời kỳ hưng thịnh của đạo giáo, với sự xuất hiện của
Huyền học do Đạo làm chủ. Rồi tiếp theo là sự vươn lên của Phật học do Phật giáo
làm chủ (Đường). Sự phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc
Trung Hoa sáng tạo nên một nền văn hóa huy hồng, xán lạn trong thời kỳ cực thịnh
của xã hội phong kiến Trung Quốc phải trải qua q trình phát triển gần một vịng, đến
thời Tống. Nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao. Hình thức biểu hiện
của nó là Lý học – dung hợp đạo Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng đời Thanh như
Hồng Tơng Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi đề xướng Thực học, tiến hành tổng kết
một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về hữu và vơ (động và tỉnh), tâm
và vật (tri và hành)… Như vậy, sự phát triển của triết học Trung Hoa cổ - trung đại là
một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các trường phái.
1.3.4. Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại
-

Học thuyết nho giáo:

Khổng tử là người sáng lâ ̣p ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là thời kỳ mà
người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hơ ̣i. Ơng coi hoạt đơ ̣ng đạo đức là nền
tảng của xã hô ̣i, là công cụ để gìn giữ trâ ̣t tự xã hô ̣i và hoàn thiê ̣n nhân cách cá nhân
cho con người. Đến thời chiến quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho giáo bị
11

Tieu luan



chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tôn tử và phái của Mạnh tử là mạnh nhất.
Mạnh tử có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông
đã khép lại mô ̣t giai đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng
– Mạnh còn được gọi là nho giáo nguyên thủy hay nho giáo tiên Tần.
Nô ̣i dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hô ̣i, điều cốt lõi là phải đào tạo cho
được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị; Quân tử = người
cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu thân. Có ba tiêu chuẩn chính:
1. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hê ̣ mà con người phải biết cách
ứng xử trong cuô ̣c sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn (quân
thần, phụ tử, phu phụ, huynh đê ̣, bằng hữu). 5 Đạo đó gọi là ngũ luân (luân = thứ bâ ̣c,
cư xử). Trong xã hô ̣i, cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung dung (dung hòa ở giữa).
2. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí – dũng thì gọi
là đạt đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa” thành 4 đức “nhân, lễ,
nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là ngũ thường.
3. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi - thư - lễ –
nhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ học thi, lâ ̣p thân
được là nhờ biết lễ, thành công được là nhờ có nhạc” (Luâ ̣n ngữ). Nói cách khác, ông
đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền, mà phải có mô ̣t vốn văn hóa toàn diê ̣n.
Tu thân rồi, bổn phâ ̣n của người quân tử là Hành Đô ̣ng, phải tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Kim chỉ nan cho mọi hành đô ̣ng cho viê ̣c cai trị là 2 phương châm:
1. Phương châm thứ nhất là Nhân trị. Nhân là tình người; Nhân trị là cai trị bằng tình
người, coi người như bản thân mình.
2. Phương châm thứ hai là Chính danh. Chính danh là sự vâ ̣t phải ứng với tên gọi,
mỗi người phải làm đúng với chức phâ ̣n của mình. Chính danh trong cai trị là phải làm
sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Luâ ̣n ngữ). “Nếu danh không
chính thì lời nói không thuâ ̣n, lời nói không thuâ ̣n thì tức viê ̣c chẳng thành” (Luâ ̣n
ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học thuyết Nho
giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được người sáng lâ ̣p tóm gọn trong 9 chữ tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng nằm trong chữ 2 cai trị mà thôi.

-

Học thuyết đạo gia:

12

Tieu luan


Đạo gia được Lão tử sáng lâ ̣p ra và sau đó được Trang tử phát triển thêm vào thời
Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tâ ̣p trung lại trong bô ̣ Đạo đức kinh do
Lão Tử soạn và Nam hoa kinh do Trang tử và mô ̣t số người theo Đạo gia viết. Trong
đó Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ,
sâu kín, huyền diê ̣u của vạn vâ ̣t, vừa để chỉ con đường, quy luâ ̣t chung của mọi sự sinh
thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiê ̣n sức
mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vâ ̣t được định hình và phân biê ̣t
được với nhau đó là cái lý sâu sắc để nhâ ̣n biết vạn vâ ̣t. Đạo gia xem xét đạo không chỉ
là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luâ ̣t của mọi cái đã, đang, và sẽ tồn tại trong thế
giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất – vâ ̣n hành của vạn vâ ̣t –
đạo lý – nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính khách quan,vừa mang tính
phổ biến; vì vâ ̣y trong thế giới, không đâu không có đạo, không ai không theo đạo.
Quan niê ̣m về đạo, đức của trường phái Đạo gia thể hiê ̣n mô ̣t trình đô ̣ khái quát cao
của tư duy biê ̣n chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới.
Lão Tử cho rằng vũ trụ vâ ̣n đô ̣ng biến đổi theo hai quy luâ ̣t: quy luâ ̣t bình quân và
quy luâ ̣t phản phục. Luâ ̣t bình quân là luôn cho sự vâ ̣t được cân bằng theo mô ̣t trâ ̣t tự
điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất câ ̣p. Luâ ̣t phản phục là sự phát triển
đến cực điểm thì quay trở lại phương hướng cũ. Đây là quản điểm biê ̣n chứng mang
tính máy móc đơn giản. Vạn vâ ̣t chỉ vâ ̣n đô ̣ng tuần hoàn, lă ̣p đi lâ ̣p lại.
Trong quan niê ̣m về nhân sinh và chính trị – xã hô ̣i, Lão Tử đã xây dựng thuyết vô vi
tức là sống và hành đô ̣ng theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hô ̣i lý tưởng đối với ông là

những nước nhỏ, dân ít. Dân hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi mô ̣t bờ dâ ̣u nhỏ
hay mô ̣t con mương cạn,cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến
già đến chết họ cũng không bao giờ qua lại thăm nhau.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niê ̣m của Lão Tử coi vạn vâ ̣t đều do đạo
sinh ra. Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vâ ̣t với ta đều là mô ̣t. Trang
Tử đã đã biến các yếu tố biê ̣n chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương
đối và thuyết ngụy biê ̣n. Ông cho rằng đúng sai, trên dưới, sang hèn, bần tiê ̣n đều như
nhau; coi đời như mô ̣t cuô ̣c giải trí, mô ̣t cõi mô ̣ng mơ mà khi tỉnh dâ ̣y không biết ta
hóa bướm hay bướm hóa ta; chủ trương sống thuâ ̣n theo thời vì cái tự nhiên nào cũng
hợp lý cả cho nên không khen chê phải trái, tốt xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo tồn
sinh mạng.
13

Tieu luan


Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh quan
khác nhau; có những điểm khác nhau như đường lối trị dân (Nho gia đòi hỏi người trị
vì thiên hạ phải là bâ ̣c thánh nhân quân tử, với những phẩm chất đạo đức sáng ngời
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,… chủ trương xây dựng mô ̣t xã hô ̣i đại đồng thì Lão Tử cho
rằng bâ ̣c Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương
xóa bỏ hết mọi ràng buô ̣c về mă ̣t đạo đức, pháp luâ ̣t đối với con người để trả lại cho
con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó). Cả hai học thuyết của Khổng Tử và
Lão Tử đều không được xã hô ̣i đương thời chú ý. Song cả hai đều là những trường
phái có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hô ̣i sau này.
2. Sự Tương Đồng giữa triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
2.1. Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề đạo đức, con người
- Nền tảng triết học như một đạo đức sống: Ở Ấn Độ cổ đại, mỗi ngành học đều kết
hợp với một kỹ năng chuyên sâu và một lối sống tương ứng. Tri thức không gặt hái từ
sách vở hay từ bài giảng thuyết, những cuộc thảo luận và đàm thoại, mà việc nắm

vững nhờ việc học trực tiếp từ bậc thầy tinh thơng. Nó địi hỏi người đê ̣ tử phải hết
lòng phục tùng uy quyền của đạo sư, điều kiê ̣n tiên quyết cở bản của nó là vâng lời và
lòng trung thành tuyê ̣t đối. Vâng lời là lòng khao khát nhiê ̣t tình được nghe, được tuân
phục và giữ gìn những gì đang nghe; nó hàm ý sự vâng lời , sự tôn kính, sự phục vụ.
Lòng trung thành tuyê ̣t đối là sự tin câ ̣y và điềm tĩnh của tâm thức; nó đòi hỏi người đê ̣
tử không mảy may mang ý nghĩa và sự phê phán đô ̣c lâ ̣p nào; và mô ̣t lần nữa ở đây lại
có sự tôn kính, cũng như lòng khát khao mạnh mẽ và say đắm.
- Quan niệm về đức của Khổng Tử trong Luâ ̣n Ngữ có nhiều ý tưởng sâu sắc và
phong phú. Những quan niệm đó thể hiện lịng tin ở tính thiện của con người và chủ
trương bồi dưỡng, phát huy thiện đức của con người. Từ quan niệm về đức Khổng Tử
đi sâu bàn luận về nhân, lễ làm cơ sở cho đường lối đức trị của mình. Các nhà tư tưởng
Nho giáo về sau đều coi tư tưởng về đức của Khổng Tử là nền tảng của đường lối đức
trị. Quan niệm về đức của Khổng Tử khơng chỉ có ý nghĩa đối với xã hội cổ đại đương
thời mà cịn có ý nghĩa đối với xã hội ta ngày nay. Trong bối cảnh xã hội đang chịu
nhiều tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường hiện nay, rất cần trở lại với
những giá trị đạo đức truyền thống trong đó có tư tưởng đức trị Nho giáo. Quan niệm
đức là gốc của con người và thiện đức phải biểu hiện ở hành động của Khổng Tử vẫn

14

Tieu luan


còn nguyên giá trị và rất cần được tuyên truyền giáo dục rộng rãi trong xã hội ta ngày
nay.
2.2. Trong triết học có sự đan xen yếu tố duy vật và duy tâm không rõ ràng
- Trong giáo huấn của Jaina giáo và các giáo huấn tương tự , vấn đề được mô tả như
thuô ̣c về mô ̣t nhân vâ ̣t châ ̣m chạp và không có sự sống. Đời tu khổ hạnh khắc nghiê ̣t
của các “triết gia trần truồng” (các “giáo sư triết học ở trần” gây kinh ngạc cho người
Hy Lạp thời Alexander) theo đuổi mô ̣t cách hợp lý từ quyết tâm triê ̣t hạ chất liê ̣u chết

này và do đó trả lại sự tinh khôi – tinh khiết, toả sáng, và hoàn hảo. Như chúng ta đã
biết, ở Ấn Đô ̣, sức mạnh của quan điểm yaga, nhị nguyên thời tiền – Aryan lớn đến nỗi
thuyết nhất nguyên cởi mở của các giáo sĩ Bà la môn cuối cùng phải chịu khuất phục.
Đần dần sự khẳng định thế giới đầy sức sống của thời Vê ̣ Đà chịu sự thay đổi mâu
thuẫn đến kỳ lạ, cho đến khi cái nói chung được xem là sự mê ̣nh danh phi – nhị ngyên
tối cao của Brahman là hữu thể tinh khiết, ý thức và hạnh phúc tuyê ̣t đối, nguyên tắc
yaga giành được chiến thắng gây ấn tương sâu sắc nhất. Vì sự thực là, thay vì lý tưởng
của thời kỳ tiền – Aryan, Jaina giáo, Yaga về “sự tan – hợp” của các đơn tử - sống
riêng biê ̣t, mục đích mới là sự tái hợp nhất với mô ̣t Saccidananda Brahman “đô ̣c nhất
vô nhị”, tuy nhiên sự tái hợp nhất phi – nhị nguyên này, sự thừa nhâ ̣n tính đồng nhất
mà trên thực tế chưa bao giờ bị tước đoạt, được hiểu là đồng nghĩa với sự bác bỏ khái
niê ̣m sai lầm về sự hiê ̣n hữu của vũ trụ: viê ̣c huỷ bỏ “sự thêm vào” do “sự vô minh”.
Cái không thể chạm tới được bằng đợt sóng gấp sáu lần (suy nhược và chết, đói và
khát, đau buồn và ảo tưởng), được suy ngẫm bằng trái tim của hành giả chứ không
được nắm bắt bằng các giác quan, điều mà khả năng trực giác không thể biết, và điều
là cái hoàn hảo: Brahman là bạn – hãy suy ngẫm điều này trong tâm trí bạn”. Cũng thế,
thái đô ̣ từ chỗ bỏ sự khổ hạnh cơ bản như trong quá khứ thời tiền – Aryan, đã phân
chia lĩnh vực con người thành các lĩnh vực ajiva và jiva, hiê ̣n đang phân biê ̣t giữa luân
hồi và niết bàn, trong khi cố gắng đạt được sự đồng nhất (“không có phần còn lại”) với
thuâ ̣t ngữ không ẩn ý.
- Brahman, sakti, bản chất - sức mạnh của triết học phi – nhị nguyên Ấn Đô ̣ là
nguyên lý thâm nhâ ̣p khắp, làm sinh đô ̣ng toàn cảnh và những tiến triển của bản tính,
nhưng đồng thời là lĩnh vực hoă ̣c vấn đề của thiên nhiên được bước vào làm cho sinh
đô ̣ng; do đó nó vừa cư ngụ trong, vừa là vũ trụ được biểu lô ̣ và mọi hình thức của nó.

15

Tieu luan



Khi đô ̣ng lực triền mien của lĩnh vực tạm thời về sự trở thành và tàn héo kết thúc, nó
sống trong mọi thay đổi của sự sinh trưởng và phân huỷ.
- Triết học Trung Quốc không có sự phân biê ̣t rạch ròi giữa chủ nghĩa duy vâ ̣t và
chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biê ̣n chứng giữa các học thuyết triết học. Điều
này tạo nên đă ̣c điểm tình thiếu triê ̣t để, tính thiếu nhất quán. Chẳng hạn trường phái
Nho giáo, thế giới quan của Khổng tử dao đô ̣ng giữa chủ nghĩa duy vâ ̣t và chủ nghĩa
duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần. Mô ̣t mă ̣t ông xem thiên (trời) là giới tự
nhiên, có vâ ̣n hành của tự nhiên, ông nói “Trời nói lên tất cả? Bốn mùa vâ ̣n hành, trăm
vâ ̣t sinh ra”. Nhưng mă ̣t khác, ông lại cho rằng trời mô ̣t lực lượng vô hình chi phối vâ ̣n
mê ̣nh của xã hô ̣i, con người, “sống chết có mê ̣nh, giàu sang có trời”. Ông chủ trương
thờ phụng quỷ thần “quỷ thần đáng kính, nhưng chớ có gần”
3. Sự khác biệt giữa triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
3.1. Bản thể luận
3.1.1. Triết học Ấn Độ cổ đại
- Bản thể luâ ̣n hiê ̣n thực Ấn Đô ̣ đã thừa nhâ ̣n tính hiê ̣n thực của thế giới bên ngoài
và từ đó thừa nhâ ̣n luôn khả năng của cá nhân về nhâ ̣n thức thế giới đó. “Không hề có
các ý niê ̣m bẩm sinh cũng như các nguyên lý tiên nghiê ̣m. Mọi cái đều đi từ bên ngoài
đi tới cá nhân nhâ ̣n thức. Nhâ ̣n thức nắm bắt hiê ̣n thực bên ngoài và hiê ̣n thực tự thân”.
Phương châm bản thể luâ ̣n của Phâ ̣t giáo mang tính mâu thuẫn trực tiếp, nó phủ định
thực tế của hiê ̣n hữu với tư cách là tồn tại cũng như phi tồn tại. Nagarjuna khẳng định:
“Phâ ̣t đã dạy cách tránh về sự xuất hiê ̣n và huỷ diê ̣t. Vì vâ ̣y niết bàn về sự logic mà nói
không có liên quan gì tới tồn tại cũng như phi tồn tại. Song về mă ̣t logic thì điều đó
không thể xảy ra. Sự đình chỉ hoạt đô ̣ng của tất cả các tri giác cũng như sự đình chỉ
của tất cả các biểu hiê ̣n của thế giới về mă ̣t trí tuệ (prapasa) chính là phúc”. Xuất phát
từ đó mà có sự từ chối của Phâ ̣t về lâ ̣p luâ ̣n hoă ̣c giải đáp các vấn đề siêu hình nào đó,
Ngài coi trọng sự im lă ̣ng đối với các vấn đề này. Tuy vâ ̣y, nghịch lý ở chỗ là mă ̣c dù
các vấn đề nêu trên, chính các Phâ ̣t tử cũng tỏ ra là những tài nghê ̣ xuất sắc nhất về
logic biê ̣n chứng. Họ đã sử dụng logic này vào luâ ̣n chiến với các đối thủ tư tưởng của
mình ở Ấn Đô ̣, rồi sau đó là các nước có sự truyền bá của Phâ ̣t giáo.
- Bản thể luận:


16

Tieu luan


+ Vô tạo giả: đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong thế
giới chỉ là dịng biến hố vơ thường, vơ định, khơng do một vị thần nào sáng tạo nên
cả. Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan, không do thần thánh sáng tạo ra.
+ Vô ngã: được hiểu theo nghĩa là khơng có linh hồn bất tử, sự vật hiện tượng
xung quanh ta và chính bản thân ta là khơng có thật mà nó được tạo thành từ các yếu
tố mà Phật gọi là Danh và Sắc. Trong đó, “Danh” là tinh thần, “Sắc” là vật chất. Như
thế, thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp lại với nhau tạo nên.
+ Vơ thường: có nghĩa là khơng có gì ổn định, bất biến. Phật khẳng định rằng thế
giới khách quan khơng có gì là vĩnh hằng, bất biến mà cái gì cũng có q trình sinh
thành, biến đổi và tiêu vong theo luật Nhân - quả mà Phật gọi là Sinh, Trụ, Dị, Diệt, từ
sự vật nhỏ nhất cho đến vũ trụ đều tuân thủ luật trên.
+ Nhân quả tương tục: Phật khẳng định rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời
đều có ngun nhân của nó. Nhân kết hợp với dun thì sinh ra quả, quả lại kết hợp
với duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác. Nhân và quả tạo thành một chuỗi
không ngừng nghỉ, Phật gọi là “Nhân quả tương tục vô gián đoạn"
3.1.2. Triết học Trung Quốc cổ đại
Trong triết học Trung Hoa truyền thống không có phạm trù nào được gọi là “có
trước nhất” so với phạm trù Đạo. Thế nhưng chính phạm trù Đạo này lại khó xác định
mô ̣t cách chính xác hơn bất cứ phạm trù nào. Khó khăn của viê ̣c xác định Đạo bởi các
cấp đô ̣ ngữ nghĩa khác nhau vốn có của nó. Đạo với tư cách là nguồn gốc đầu tiên của
mọi thực tại luôn thể hiê ̣n sự thống nhất về nguồn gốc của thế giới. Nó là “Khởi
nguyên của trời và đất”, “là Thuỷ tổ của mọi sự vâ ̣t”, là “Mẹ của thiên hạ”. Nó là hiê ̣n
thân cho sự thống nhất về bản chất của “vạn vâ ̣t”. Như sách “Trang tử” đã nói, “trong
cái to lớn mà không chứa đủ, trong cái nhỏ bé nhất mà không thiếu…Cái bao la là cái

bao la, nó hàm chứa hết mọi thứ”. Ngoài ra, Đạo còn là quy luâ ̣t phổ biến: “Con người
thể theo quy luâ ̣t của Đất. Đất theo quy luâ ̣t của Trời. Trời theo quy luâ ̣t của Đạo, và
Đạo tuân theo bản thân nó.
Các yếu tố bản nguyên còn biểu hiê ̣n trong nhiều lĩnh vực khác nhau: ngũ phúc,
ngũ khí, ngũ vị, ngũ tạng,… Các hê ̣ thống được phân thành âm dương và ngũ hành
được Đổng Trọng Thư quy về hê ̣ thớng thớng nhất. Ơng thừa nhâ ̣n sự tồn tại của Đạo
với tư cách là cái Duy nhất, cái có trước cả Trời. Đạo đồng nghĩa với đức, nhờ có đức
mà tiềm năng thế giới được xuất hiê ̣n. Đức chứa đầy các phần tử đầu tiên của khí là
17

Tieu luan


âm và dương, do sự tác đô ̣ng giữa chúng mà sinh ra tính đa dạng của thế giới. Trời có
năm yếu tố (ngũ hành): kim, mô ̣c, thuỷ, hoả, thổ. Đất là trung tâm của năm yếu tố với
trâ ̣t tự do trời sắp đă ̣t. Trời còn “sỉnh ra dân”, mà dân về bản chất của nó có thể là thiê ̣n
hoă ̣c ác. “Để làm cho bản chất của dân thành thiê ̣n, Trời đă ̣t ra ngôi thiên tử. Ý của trời
là như vâ ̣y. Thiên tử tiếp nhâ ̣n và thực hiê ̣n ý Trời, đồng thời có nhiê ̣m vụ thực hiê ̣n
bản chất của dân”. Dễ nhâ ̣n thấy rằng, luâ ̣n chiến chính thống của Nho giáo đã tổng
hợp các quan điểm rút ra từ các trường phái Trung Hoa Cổ đại khác nhau, đồng thời
thực hiê ̣n viê ̣c dung hoà chúng với nhau và đảm bảo mô ̣t số mă ̣t thống nhất về tư
tưởng, điều đó là cần thiết giúp cho viê ̣c duy trì tính bền vững của hoàng đế Trung
Quốc.
3.2. Nhận thức luận
3.2.1. Triết học Ấn Độ cổ đại
Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman nhưng lại kế thừa thuyết luân hồi,
nghiệp báo trong đạo Balamôn. Thích ca Mau ni đã đưa ra thuyết “Tứ diệu đế” và
“Thập nhị nhân duyên” để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp
báo, luân hồi. Đây là tư tưởng triết lý nhân sinh quan chủ yếu của đạo Phật. “Tứ diệu
đế” là bốn chân lý vĩnh hằng, thiêng liêng, cao cả, đúng đắn gồm có: Khổ đế, Nhân đế,

Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: Phật cho rằng đời là bể khổ vì vậy ta chỉ dạy các con một điều là khổ và
diệt khổ” và các nỗi khổ của con người thể hiện trong Bát khổ.
- Nhân đế (Tập đế): Phật giáo giải thích nguyên nhân mọi nỗi khổ của con người.
Phật khẳng định rằng tất cả mọi nỗi khổ của con người đều có nguyên nhân của nó.
Các nguyên nhân của nỗi khổ được thể hiện qua “Thập nhị nhân duyên” (12 nỗi khổ
của con người).
- Diệt đế: Phật nói khi con người ta tìm ra được nguyên nhân của nỗi khổ theo Thập
nhị nhân duyên thì Phật khẳng định rằng con người có thể từ bỏ tận gốc mọi nỗi khổ
và chỉ có như thế con người mới đến được cõi Niết bàn. Do vậy, Phật cho rằng cái khổ
có thể tiêu diệt được.
- Đạo đế: Phật nói chúng sinh có thể tiêu diệt được nỗi khổ nếu đi theo con đường
“Bát chính đạo
3.2.2. Triết học Trung Q́c cở đại

18

Tieu luan


Nhâ ̣n thức luâ ̣n trong triết học Trung Quốc cổ đại được tâ ̣p trung chủ yếu trong
triết lý nhân sinh Nho giáo.
Nhân sinh không chỉ bao gồm cuộc sống của con người và sinh mệnh của con
người mà gồm cả nhân tính nữa. Nhân sinh được biểu hiện ở khía cạnh sau:
- Thứ nhất, về mặt sinh mệnh của con người. Đó chính là yếu tố cơ bản duy trì sự
sinh tồn của con người.
- Thứ hai, cuộc sống của con người. Mục đích của cuộc sống khơng chỉ là làm tốt
cho mình mà cịn làm cho cả nhân loại sống tốt hơn. Cuộc sống ở đây là cuộc sống nội
tâm và cuộc sống ngoại tâm, cũng có thể gọi là đời sống tinh thần và đời sống vật chất.
- Thứ ba, phương hướng của con người, hướng về một mục tiêu nhất định.

+ Về cái sống và cái chết
Khổng Tử là người đã đặt cái sống trong quan hệ với cái chết. Đạo Khổng hướng về sự
sống chứ không phải hướng về cái chết. Tuy nhiên, khi phải đến với cái chết thì đạo
Khổng ln khun người ta tìm cái bất tử, tìm cái vĩnh hằng trong cái chết.
Mạnh Tử cũng trình bày quan niệm của ơng về sống - chết một cách hết sức rõ ràng:
“Sống là điều mà ta muốn, việc nghĩa cũng là điều mà ta muốn. Nếu không thể làm
được cả hai điều đó thì ta bỏ sống để theo nghĩa. Sống cũng là điều mà ta muốn, nhưng
cái mà ta muốn lại cịn hơn cả sống, cho nên ta khơng tham sống một cách cẩu thả.
Chết là cái mà ta ghét, nhưng cái mà ta ghét còn hơn cả cái chết, cho nên gặp hoạn nạn
ta không hề trốn tránh”.
+ Về bản tính con người
Khổng (551 - 479 TCN)- Mạnh (317 - 298 TCN) cho rằng, bản tính của con người do
trời sinh ra, nó vốn là thiện. Cái thiện được biểu hiện ở nhân - nghĩa - lễ - trí.
Cịn Tn Tử (298 – 238 TCN) cho rằng, bản tính con người là ác. Ơng đã luận giải ác
là vì con người ta ai cũng có lịng ham lợi, ai cũng có dụng vọng. Đó là nguồn gốc của
mọi tội ác. Bản tính của con người cũng có thể thay đổi và cải tạo được. Đó là nhờ vào
sự giáo hóa.
+ Về bản tính con người:
Quân tử là mẫu người lý tưởng về phẩm chất đạo đức xã hội và tư cách của người cầm
quyền, ở họ hội tụ đủ nhân - nghĩa - lễ - trí - tín; Là người nắm được thời mệnh, sống
theo mệnh trời, nỗ lực chăm lo tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn, cẩn trọng. Họ có trách
nhiệm kính trên nhường dưới, sống thân ái, hịa đồng với mọi người.
19

Tieu luan


+ Về sự tự học và trau dồi kiến thức cho bản thân
Nho giáo đề cao việc học tập, trau dồi kiến thức đối với bản thân. Theo Khổng Tử, con
người sinh ra vốn giống nhau, nhưng do việc học tập và tự rèn luyện khác nhau mà

dẫn đến sự phân biệt người này với người kia. Tuy nhiên, việc học ở đây là cải tạo “cái
đạo” của con người cho hòa thuận với tự nhiên.
Học để làm quan, tham gia gánh vác công việc đại sự của quốc gia, để được thực hành
những cái mà mình đã được học. Đặc biệt đối với người quân tử trước tiên là phải biết
tu trí, tu thân. Khơng tự tu được thân, khơng thể giúp được đời, khơng thể làm trịn bổn
phận của mình với thiên hạ.
Như vậy, theo nghĩa nào đó học ở đây là đến gần với trí, nếu khơng học và tự học
thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, cuồng bạo làm
biến bản chất của con người, con người sẽ tự đánh mất mình và trở thành nơ lệ của
chính mình.
+ Về giáo dục và phương pháp giáo dục: Giáo dục ở đây theo Nho giáo là giáo dục
tâm tính, giáo dục thực hành và giáo dục nhân cách. Trong đó, giáo dục tâm tính và
giáo dục nhân cách có quan hệ gần gũi nhau, chúng đều thuộc về lĩnh vực giáo dục đạo
đức phẩm cách cho dân chúng. Giáo dục điều thiện cho dân để dân không làm điều ác,
không phạm tội.
+ Giáo dục theo phương pháp: Người học phải ham hiểu biết, phải độc lập suy
nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận thức. Người dạy phải dạy phương pháp để người
học tự mình tìm đến tri thức, học phải đi đôi với hành. Học trong sách vở, học thầy,
học trong cuộc sống và học theo phương pháp tiên vương.

20

Tieu luan


KẾT LUẬN
Sự hình thành của nền triết học Trung Quốc cổ đại và Ấn Đô ̣ cổ đại có nhiều nét
tương đồng về mă ̣t thời gian và nguồn gốc, cả hai đều khuyết danh sau đó mới có tác
giả là những triết gi vĩ đại. Đă ̣c biê ̣t cả hai nền triết học này đều hướng tới con người
và lấy con người làm trung tâm, đồng thời tâ ̣p trung nhiều trong vấn đề về đạo đức.

Ngoài ra thì sự phân biê ̣t giữa yếu tố duy vâ ̣t và duy tâm không rõ ràng trong cả triết
học Trung Quốc cổ đại và Ấn Đô ̣ cổ đại.
Tuy nhiên triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Ấn Đô ̣ cổ đại có sự khác biê ̣t rất
lớn trong vấn đề bản thể luâ ̣n và nhâ ̣n thức luân: Nếu ở Ấn Đô ̣ nhiều trường phái triết
học liên quan tới đạo Bàlamôn và Phâ ̣t giáo thì ở Trung Quốc lại thiên về dòng chính
thống Nho giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Triết học – Phần I: Đại cương về lịch sử Triết học – Chủ biên: TS.Bùi Văn Mưa
[2]. Giáo trìnhTriết học Mác – Lênin - Đồng chủ biên: GS, TS. Nguyễn Ngọc Long GS, TS. Nguyễn Hữu Vu
[3]. Cơ sở văn hóa Viê ̣t nam – PGS, Viê ̣n sĩ Trần Ngọc Thêm - 1997
[4]. Triết học phương đông: Trung Hoa, Ấn Đô ̣ và Các nước hồi giáo –
M.T.STEPPANIANTS – Người dịch: Trần Nguyên Viê ̣t – 2003
[5]. Triết hoc Ấn Đô ̣ – mô ̣t các tiếp cân mới – HEINRICH ZIMMER – Người dịch:
Lưu Văn Hy

21

Tieu luan



×