Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TÌM HIỂU CON ĐƯỜNG CHI VIỆN CỦA MIỀN BẮC CHO MIỀN NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.73 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa Khách sạn - Du lịch

--------

BÁO CÁO THẢO LUẬN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: “TÌM HIỂU CON ĐƯỜNG CHI VIỆN CỦA MIỀN BẮC CHO
MIỀN NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC”
Giáo viên hướng dẫn
Mã lớp học phần
Nhóm thực hiện:

:
: 2260HCMI0131
: 05

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NGUYÊN NHÂN CUỘC KHÁNG CHIẾN VÀ CHỦ TRƯƠNG
HÌNH THÀNH CON ĐƯỜNG CHI VIỆN................................................................2
1.1. Nguyên nhân của cuộc kháng chiến....................................................................2
1.2. Chủ trương của Đảng về hình thành con đường chi viện..................................3
CHƯƠNG 2: CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN CỦA MIỀN BẮC CHO MIỀN
NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC......................5
2.1. Đường bộ...............................................................................................................5
2.1.1. Quá trình hình thành và hồn thiện..................................................................5


2.1.2. Hoạt động...........................................................................................................5
2.2. Đường biển............................................................................................................8
2.2.1. Q trình hình thành và hoàn thiện..................................................................8
2.2.2. Hoạt động...........................................................................................................8
2.3. Con đường xăng dầu...........................................................................................10
2.3.1. Q trình hình thành và hồn thiện................................................................10
2.3.2. Hoạt động..........................................................................................................11
2.4. Đường hàng khơng..............................................................................................12
2.4.1. Q trình hình thành và hồn thiện................................................................12
2.4.2. Hoạt động.........................................................................................................13
2.5. Đường chuyển ngân............................................................................................15
2.5.1. Q trình hình thành và hồn thiện................................................................15
2.5.2. Hoạt động.........................................................................................................16
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN
ĐỐI VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC.............................18
3.1. Kết quả................................................................................................................. 18
3.2. Ý nghĩa................................................................................................................. 19
KẾT LUẬN................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Hiệp định Giơnevơ
(7 - 1954) được ký kết buộc quân Pháp phải rút khỏi nước ta, cách mạng Việt Nam
chuyển sang giai đoạn mới với những đặc điểm và thuận lợi, khó khăn mới. Đặc điểm
chưa có tiền lệ lịch sử là đất nước bị chia làm hai miền, có chế độ chính trị, xã hội
khác nhau: miền Bắc được hồn tồn giải phóng phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa còn miền Nam do chính quyền đối phương quản lý, trở thành thuộc địa kiểu mới
của đế quốc Mỹ và tay sai. Từ đó Đảng ta chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ

chiến lược: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ
nhân dân ở miền Nam.
Bước sang năm 1959, phong trào cách mạng miền Nam có bước phát triển quan
trọng, nhiều căn cứ hình thành ở vùng rừng núi đã tạo nên thế đứng mới của lực lượng
cách mạng miền Nam. Lúc này, yêu cầu về vũ khí đạn dược của cách mạng miền Nam
đang trở nên hết sức cấp thiết; đồng thời, để phát huy vai trò, tác dụng và sức mạnh
của hậu phương miền Bắc và hậu phương tại chỗ ở miền Nam, rất cần một hệ thống
giao thông thông suốt để chi viện sức người, vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc
men, ... từ miền Bắc vào miền Nam để chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công và tiến
tới thống nhất đất nước.
Vì vậy nhóm 5 đã chọn đề tài “Tìm hiểu con đường chi viện của miền Bắc
cho miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)” để làm
rõ về các con đường chi viện của hậu phương miền Bắc tới miền Nam.


2
CHƯƠNG 1: NGUYÊN NHÂN CUỘC KHÁNG CHIẾN VÀ CHỦ TRƯƠNG
HÌNH THÀNH CON ĐƯỜNG CHI VIỆN
1.1. Nguyên nhân của cuộc kháng chiến
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhân lúc các nước đế quốc bại trận Đức, Ý,
Nhật bị suy sụp, đồng thời các nước đế quốc Anh, Pháp tuy thắng trận nhưng bị sa sút
khá nặng, đế quốc Mỹ cố vươn lên làm bá chủ thế giới, lần lượt hất cẳng và thay thế
các nước đế quốc khác đi nô dịch các dân tộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh,
đóng vai trị tên sen đầm quốc tế. Trước những địn cơng kích quyết liệt của phong trào
giải phóng dân tộc và làn sóng đấu tranh dồn dập của phong trào công nhân ở các nước
tư bản chủ nghĩa, từ đầu những năm 60, đế quốc Mỹ buộc phải từ bỏ chiến lược toàn
cầu “trả đũa ồ ạt” chuyển sang thực hành chiến lược “phản ứng linh hoạt” chĩa mũi
nhọn vào các lực lượng xã hội chủ nghĩa và giải phóng dân tộc, trong đó Viêt Nam là
một điểm nóng bỏng. Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong khu vực
Đơng Nam Á, có nguồn tài nguyên phong phú, được Mỹ đánh giá là một trong những

vị trí sống cịn trong tuyến ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai là
bành trướng chủ nghĩa thực dân mới, nhằm chống lại các trào lưu cách mạng, đàn áp
và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, kìm giữ các nước mới trỗi dậy trong quỹ đạo
chủ nghĩa tư bản, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội đồng thời tranh giành
vị trí và ảnh hưởng với các đế quốc khác.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trước sức tiến công mạnh mẽ
của cách mạng Việt Nam và ảnh hưởng sâu sắc của nó đối với phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới, đế quốc Mỹ đã tích cực can thiệp vào chiến tranh Đông Dương
ngay từ những năm 50. Một mặt Mỹ ra sức giúp Pháp, mặt khác âm mưu thay thế Pháp
độc chiếm Đông Dương. Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được
phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, thơn tính miền Nam, chia cắt lâu
dài đất nước ta; biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ,
lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu Á, bao vây, uy
hiếp các nước xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ dựng lên chính quyền,
quân đội tay sai, ra sức phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp phong trào cách mạng
miền Nam.
Chỉ trong vòng 4 năm (1954 - 1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ,
đảng viên; gần 90 vạn đồng bào yêu nước bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn, giết hại,


3
... Trước âm mưu, hành động xâm lược của địch, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia
cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau: miền Bắc hồn tồn
giải phóng, miền Nam cịn nằm dưới sự đơ hộ của chủ nghĩa đế quốc và tay sai. Trên
cơ sở phân tích đặc điểm tình hình trong nước, bối cảnh quốc tế cũng như khu vực có
liên quan, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (khóa II) lần thứ 15 (đầu năm 1959)
và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) đã vạch ra đường lối kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước độc lập tự chủ, đúng đắn sáng tạo, đó là: Tăng cường đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hịa bình, tiến hành đồng thời cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập, dân chủ, thiết thực góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
1.2. Chủ trương của Đảng về hình thành con đường chi viện
Bước sang năm 1959, phong trào cách mạng miền Nam có bước phát triển quan
trọng, nhiều căn cứ hình thành ở vùng rừng núi đã tạo nên thế đứng mới của lực lượng
cách mạng miền Nam. Lúc này, chiến trường miền Nam rất cần sự chi viện về lực
lượng, vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng... với số lượng lớn; đồng
thời, để vai trò, tác dụng và sức mạnh của hậu phương miền Bắc và hậu phương tại
chỗ ở miền Nam, rất cần một hệ thống giao thông thông suốt, những tuyến đường
huyết mạch nối liền hậu phương với tuyền tuyến. Tuyến đường ấy phải đủ sức đảm
nhận, hoàn thành nhiệm vụ vận tải chiến lược, đáp ứng yêu cầu, tình hình phát triển
của chiến trường và thậm chí phải vượt trước một bước.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
19/5/1959, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập “Đồn cơng tác
qn sự đặc biệt” (đơn vị tiền thân của Đồn 559), có nhiệm vụ mở đường vận chuyển
hàng hóa, tổ chức đưa đón cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam và ngược lại,
đường Hồ Chí Minh trên bộ chính thức được triển khai. Buổi đầu, tuyến vận tải đường
bộ dựa vào đường dây Thống Nhất để thực hiện nhiệm vụ, chủ yếu làm công tác giao
liên, vận chuyển một số vật chất bằng phương pháp gùi thồ, chú trọng phịng tránh, giữ
bí mật tuyệt đối để bảo vệ lực lượng, bảo vệ mục tiêu, nhiệm vụ.
Tuy nhiên, tuyến đường trên bộ của Đoàn 559 mới chỉ vận chuyển, cung cấp
được vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự cho Mặt trận Trị Thiên và Khu 5, chưa vươn tới
các tỉnh Nam Bộ. Xuất phát từ tình hình, yêu cầu nhiệm vụ, tháng 6/1961, Trung ương
Đảng và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam bộ đưa thuyền ra
miền Bắc nhận vũ khí, trang bị quân sự để chuyển vào Nam bộ; đồng thời giao nhiệm
vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu, thử nghiệm tuyến đường vận tải chiến lược



4
trên biển. Sau 5 chuyến đi biển ra miền Bắc nhận và chuyển vũ khí vào miền Nam
thành cơng của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bà Rịa, ... Ngày
23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải
thuỷ, mở tuyến đường chiến lược quan trọng - Đường Hồ Chí Minh trên biển, có
nhiệm vụ vận chuyển cán bộ, chiến sĩ và vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự chi viện cho
chiến trường miền Nam. Thời điểm quan trọng này đánh dấu sự kiện mở Đường Hồ
Chí Minh trên biển và những chiến công vang dội của Hải quân nhân dân Việt Nam,



5
CHƯƠNG 2: CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN CỦA MIỀN BẮC CHO MIỀN
NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
2.1. Đường bộ
2.1.1. Q trình hình thành và hồn thiện
Nhiệm vụ chi viện cho miền Nam đề ra trước mắt đã đặt ra một yêu cầu bức
thiết về con đường vận chuyển chi viện cho miền Nam. Trước tình hình đó, giữa năm
1959, Bộ Chính trị ra chỉ thị: “Tổ chức một đường giao thông quân sự đặc biệt mở
đường đưa cán bộ, tiếp tế vũ khí và những hàng cần thiết khác vào miền Nam. Đây là
một việc làm lớn, có tính chiến lược, quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà”.
Sau một thời gian nghiên cứu và chuẩn bị, ngày 19/5/1959 thường trực tổng
quân ủy Bộ quốc phòng triệu tập ban cán sự, chính thức giao cho Đồn 559 chính thức
mở đường giao thông quân sự vào Nam, dọc theo dãy Trường Sơn, vận chuyển hàng
quân sự cho miền Nam, đưa đón cán bộ từ Bắc vào Nam và ngược lại mà trước mắt là
liên khu V. Binh đoàn Trường Sơn (Đoàn 559) thành lập, đánh dấu sự khởi đầu của
tuyến đường Trường Sơn. Mạng lưới giao thông quân sự này chạy dọc dãy Trường
Sơn, từ miền Bắc qua miền Trung, hạ Lào và Campuchia để chi viện cho Quân Giải

phóng miền Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam.
Con đường huyền thoại này, không chỉ là tuyến vận tải quân sự, tuyến hậu cần
chiến lược mà còn là một chiến trường tổng hợp, mặt trận chiến đấu quyết liệt giữa ta
và địch, trở thành một biểu tượng độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, biểu
tượng về quyết tâm và ý chí sắt đá “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược” của toàn Đảng, tồn qn, tồn dân ta.
2.1.2. Hoạt động
Đường mịn Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thơng qn sự chiến lược vận
chuyển binh lực, lương thực và vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền
Nam. Nói đến Trường Sơn cũng là nói đến sự hy sinh, gian khổ đồng thời cũng nói
đến khát vọng “Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do” của con người Việt Nam, bất chấp
sự hủy diệt của kẻ thù và những khó khăn, trở ngại của thời tiết, địa hình trong 16 năm
(1959 - 1975).
Buổi đầu, tuyến vận tải đường bộ dựa vào đường dây Thống Nhất để thực hiện
nhiệm vụ, chủ yếu làm công tác giao liên, vận chuyển một số vật chất bằng phương
pháp gùi thồ, chú trọng phòng tránh, giữ bí mật tuyệt đối để bảo vệ lực lượng, bảo vệ
mục tiêu, nhiệm vụ. Với thắng lợi của phong trào Đồng khởi và sự phát triển mạnh mẽ


6
của cách mạng miền Nam, ngày 24-1-1961, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định "đẩy
mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến cơng địch bằng cả
hai mặt chính trị và quân sự”. Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách đó, hậu phương
miền Bắc, Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng tăng cường lực lượng cho
Đoàn 559 nhằm mở rộng tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn theo phương hướng:
kiên trì giữ vững hành lang phía Đơng, khẩn trương mở đường vận tải phía Tây
Trường Sơn; đồng thời, mạnh dạn áp dụng phương thức vận tải cơ giới, kết hợp với
phương thức vận tải thô sơ (xe đạp thồ), chú trọng khai thác đường sông. Được tăng
cường lực lượng và bằng những biện pháp tổ chức chặt chẽ, hiệu quả, đến giữa năm
1964, Đoàn 559 đã xây dựng được địa bàn hoạt động từ Tây Quảng Bình vào đến ngã

ba Biên giới, triển khai được một số tuyến, thành lập được các cung trạm, xây dựng
được tuyến hành lang nối liền miền Bắc với chiến trường miền Nam.
Từ năm 1965 khắc phục những khó khăn gian khổ do Mỹ sử dụng khơng qn,
hải quân leo thang đánh phá miền Bắc các cán bộ chiến sỹ, thanh niên xung phong và
nhân viên kỹ thuật của đồn 559 đã mở đường, đảm bảo giao thơng, thực hiện nhiệm
vụ trung tâm là tiếp nhận các nguồn hàng từ hậu phương miền Bắc và nguồn thu mua
từ hướng Campuchia. Bên cạnh đó thì tổ chức vận chuyển chi viện tới các chiến
trường miền Nam, đảm bảo hành quân cho bộ đội và các đoàn cán bộ qua lại trên đường
Trường Sơn.
Từ năm 1969 đến năm 1972 mặc dù bị đánh phá ác liệt nhưng tuyến vận tải
chiến lược vẫn không ngừng được xây dựng và mở rộng, vươn sâu, vươn xa vào các
chiến trường. Nếu trong thời kỳ "chiến tranh cục bộ", Đoàn 559 mới chỉ mở được trục
đường 20 - cửa khẩu vượt đỉnh Trường Sơn, nối với hệ thống đường chiến lược ở
đường phía Tây Trường Sơn, rút ngắn cung độ đến các hướng chiến trường..., thì từ
năm 1968 đến năm 1972, đã mở thêm 4 trục đường từ Đông Trường Sơn sang Tây
Trường Sơn. Tháng 11 năm 1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch thiết kế,
mở rộng tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Tiếp ngay sau đó với sự chi viện to lớn
của miền Bắc về cả con người và vật chất Đồn 559 nhanh chóng mở thêm 3.480 km
đường cơ giới với các trục dọc men theo Đông và Tây Trường Sơn. Các tuyến đường
bộ phía Tây được sửa chữa, bảo dưỡng, bảo đảm cho việc vận chuyển cơ giới theo đội
hình lớn. Nhiều tuyến đường đã mở rộng đáng kể, “tương đương với đường cao tốc, đủ
rộng để chứa hai xe tải quân đội đi ngược chiều nhau”.
Qua gần 16 năm xây dựng, từ lối mịn giao liên bí mật len lỏi dưới các triền
rừng, với phương thức vận tải thô sơ, gùi thồ là chủ yếu, tuyến vận tải chiến lược phát
triển thành hệ thống trục dọc và trục ngang, ngày càng vươn xa tới các chiến trường,
vươn sâu vào các hướng chiến dịch. Tính đến năm 1975, tuyến vận tải chiến lược lên


7
tới gần 20.000 km, bao gồm 4 hệ thống trục dọc dài 6.810 km, 13 hệ trục ngang dài

4.980 km, 5 hệ thống đường vượt khẩu dài 700 km, 1 hệ thống đường vòng tránh các
trọng điểm dài 4.700 km.
Xuyên suốt khoảng thời gian từ 1959-1975, từ miền Bắc đã có hàng nghìn
những cán bộ, chiến sỹ thanh niên di chuyển vào miền Nam chi viện sức người cho
cuộc kháng chiến. Năm 1959, miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 500 người. Năm
1964, con số đó tăng lên hơn 17.000 người. Đặc biệt từ sau năm 1964, đường Trường
Sơn như một trận đồ bát quái” vươn ra các chiến trường bằng mọi ngả. Các đơn vị bộ
đội và thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh đã vượt
qua muôn ngàn gian lao, thử thách, dũng cảm, kiên cường chống trả cuộc chiến tranh
xâm lược tàn khốc của Mỹ - ngụy. Thời gian này chúng đã ném xuống đây hơn 3,5
triệu tấn bom đạn, nhiều hơn số lượng bom đạn Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh thế
giới thứ 2. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến cơng chiến lược (1968, 1972,
1975), chỉ tính riêng số quân đi vào miền Nam trong các năm kể trên như sau: năm
1968 là 141.000 người, năm 1972 xấp xỉ 153.000 người, năm 1975 117.000 người.
Bên cạnh việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường, miền Bắc còn tiếp nhận
hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ, con em miền Nam tập kết; đón tiếp gần 310.000
thương bệnh binh và hơn 350.000 lượt người từ tiền tuyến ra hậu phương chữa bệnh,
học tập…, miền Bắc thực sự là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho những người ra
trận, cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu ở miền Nam, đặc biệt
trong những lúc cách mạng miền Nam bị tổn thất, gặp nhiều thử thách và khó khăn.
Ngồi lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, đảm bảo giao thông,
mở đường và các lực lượng bảo đảm khác gần hàng chục vạn người cũng được động
viên từ miền Bắc. Về vật chất, miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất,
vũ khí, phương tiện kĩ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải
biên, cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài; tổ chức vận chuyển vượt hàng nghìn ki lơ mét
dưới bom đạn đánh phá của địch tới các chiến trường, các vùng giải phóng. Trong
những năm từ 1965 đến 1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối lượng vật chất gấp
10 lần so với những năm từ 1961 đến 1964. Con số đó trong những năm chống chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” còn tăng gấp nhiều lần.
Giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong bối cảnh khơng cịn

nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, để thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, miền Bắc đã phải dốc toàn bộ sức lực của mình
chi viện cho các chiến trường miền Nam. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975, từ hậu
phương lớn miền Bắc đã có hơn 110.000 quân và 230.000 tấn vật chất các loại được
đưa vào các chiến trường ở miền Nam. Để kịp thời đưa nguồn nhân lực và vật chất


8
được động viên từ miền Bắc vào các chiến trường phục vụ tổng tiến cơng, ngồi 6.770
chiếc ơ tơ vận tải chuyên trách của quân đội, các địa phương, cơ quan, ban, ngành ở
miền Bắc còn huy động tới 60% các phương tiện vận tải dân sự.
2.2. Đường biển
2.2.1. Quá trình hình thành và hồn thiện
Tháng 7/1959, Tiểu đồn 603 trực thuộc Đồn 559 được thành lập, có nhiệm vụ
nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển bằng đường biển chi viện vũ khí cho chiến
trường miền Nam. Để giữ bí mật, Tiểu đoàn lấy tên là “Tập đoàn đánh cá Sơng
Gianh”. Cuối năm 1959, Tiểu đồn 603 tổ chức chuyến thuyền vượt biển đầu tiên vào
chiến trường Khu V nhưng không thành công, do vậy Tổng Quân ủy quyết định cho
Tiểu đồn 603 ngừng hoạt động để tìm phương án mới.
Đầu năm 1960, cùng với phong trào Đồng Khởi Bến Tre, cách mạng của các
tỉnh đồng bằng Nam bộ chuyển mạnh lên thế tiến công và trở thành cao trào Đồng
Khởi rộng khắp. Trước tình hình đó, u cầu về vũ khí trang bị, đạn và thuốc chữa
bệnh trở thành vấn đề sống còn, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu và phát triển
lực lượng của các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ. Yêu cầu cấp bách là phải nhanh
chóng vận chuyển vũ khí, hàng hóa để chi viện cho chiến trường Nam bộ. Lúc này,
tuyến đường bộ trên dãy Trường Sơn đã mở và hoạt động có hiệu quả nhưng chưa
vươn tới các địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng. Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo Bộ
Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng
vận tải biển chi viện cho chiến trường Nam bộ và khu V.
Ngày 23/10/1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập

Đoàn vận tải quân sự 759, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới
của tuyến vận tải chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ đây, đường Hồ Chí
Minh trên biển - con đường nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền
Nam, chính thức đi vào hoạt động. Đây là một quyết định lịch sử mang tầm chiến
lược, thể hiện bản lĩnh kiên cường, ý chí và quyết tâm của tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn ta: Tất cả cho tiền tuyến miền Nam, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ngày 24/01/1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Lữ đoàn
125 Hải quân.
2.2.2. Hoạt động
Giai đoạn 1962 - 1965:
Ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên, số hiệu 41, mang tên “Phương
Đơng 1” của Đồn 759 chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phịng) vào Cà Mau;


9
19/10/1962, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau). Ngày 19/10 đến 14/12/1962, lần lượt ba
chiếc tàu vỏ gỗ mang tên “Phương Đông 2, 3, 4” rời bến Đồ Sơn, chở vũ khí vượt qua
các khu vực kiểm sốt của địch, cập bến Vàm Lũng (Cà Mau).
Tháng 8/1963, Đoàn 759 được giao cho Quân chủng Hải quân phụ trách và trực
tiếp đảm đương nhiệm vụ vận chuyển, chi viện đường biển cho chiến trường miền
Nam.
Thời kỳ (1965-1968): Từ sau sự kiện Vũng Rơ bị mất đi yếu tố bí mật, đội tàu
vận tải phải đi xa bờ và chuyển sang hình thức “lừa miếng” - đi bằng phương pháp
hàng hải thiên văn.
Thời kỳ (1968-1969): Chuyển sang phương án vận chuyển gián tiếp.
Thời kỳ (1969-1972): Tiếp tục phương án vận chuyển trực tiếp.
Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức
hào hùng của tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở
Vũng Rơ (Phú n), yếu tố bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của Việt
Nam khơng cịn nữa. Nhưng cơng việc tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển vẫn

phải tiếp tục, buộc quân Giải phóng phải chuyển hướng vận chuyển từ phương thức
trực tiếp sang phương thức gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này, trong một
năm (từ 1-11-1968 đến 31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng sông
Gianh 21.737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí này được chuyển vào Nam theo đường bộ.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đồn 125 cịn tham gia chiến dịch vận
tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng các lực
lượng trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng
dầu… từ Hải Phịng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến
lược trên bộ (Đồn 559).
Tính chung, trong 4 năm (1965-1968), tuyến đường trên biển tổ chức được 27
chuyến tàu, song chỉ có 7 chuyến đến đích, giao được 410,4 tấn hàng (chủ yếu cho
Nam Bộ), 11 chuyến phải quay trở lại miền Bắc do nhiều nguyên nhân, 6 chuyến phải
tự phá hủy tàu để tránh bị địch thu giữ, 3 chuyến bị địch chiếm tàu. Trước tình hình đó,
Việt Nam đã tranh thủ sự giúp đỡ của Vương quốc Campuchia, chuyển hướng tổ chức
vận chuyển bằng tàu biển quốc tế đưa hàng viện trợ quân sự vào cảng Xihanúcvin, sau
đó thuê tàu của quân đội Hoàng gia Campuchia tiếp tế cho chiến trường Nam Bộ và
một phần cho chiến trường Tây Nguyên. Bằng cách này, từ 1966-1969, đã có 10
chuyến tàu, chuyển 90.870 tấn hàng cập cảng Xihanúcvin, trong đó có 21.473 tấn vũ
khí, đạn dược; chuyển về chiến trường miền Nam được 18.703 tấn.


10
Từ năm 1971 đến 4/1972, hải quân Mỹ phong tỏa, kiểm soát rất gắt gao trên
tuyến biển, khiến hầu hết các chuyến tàu chở vũ khí vào Nam của Đồn 125 phải quay
lại. Ngày 27/7/1971, Quân khu 9 thành lập Đoàn 371 dưới dạng tàu đánh cá hợp pháp.
Được tàu của Đoàn 125 hộ tống, dẫn dắt từng chuyến đi qua các vùng biển nguy hiểm,
hai năm 1971- 1972, Đoàn 371 đã vận chuyển được 31 chuyến với 520 tấn vũ khí vào
Quân khu 9.
Đồng thời với việc đẩy mạnh đưa hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải
quân chọn một số tàu và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào Nam theo

đường Hồ Chí Minh trên biển.
Giai đoạn 1973 - 1975:
Sau Hiệp định Paris, hải quân Mỹ rút đi, tàu vận tải chuyển sang phương thức
hoạt động công khai. Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã
dốc toàn bộ lực lượng và phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ
khí và vật chất các loại vào các chiến trường.
Đồn 125 được trang bị thêm nhiều tàu mới có trọng tải 100 tấn trở lên. Đoàn
125 đã tham gia cùng ngành Hậu cần vận chuyển từ miền Bắc vào Quảng Bình và Cửa
Việt, tạo chân hàng chi viện cho miền Nam qua đường Hồ Chí Minh trên bộ. Trong 2
năm 1973-1974, Đoàn đã huy động 380 lượt tàu, vận chuyển hàng chục ngàn tấn hàng,
đưa 2.042 lượt người từ hậu phương vào tiền tuyến và các đảo. Đặc biệt, trong Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đã sử dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282
tấn vũ khí và vật chất khác, cùng cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường
Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội đặc cơng chiến đấu giải phóng các đảo thuộc quần
đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc. Trong đó,
Đồn 125 đã vận chuyển vào chiến trường 17.473 cán bộ chiến sĩ, 40 xe tăng, 7.786
tấn vũ khí, nhiên liệu, góp phần giải phóng miền Nam, giải phóng Quần đảo Trường
Sa và các đảo trên vùng biển Tây Nam.
2.3. Con đường xăng dầu
2.3.1. Q trình hình thành và hồn thiện
Chiến trường ngày càng phát triển thì việc vận chuyển hàng hóa, vũ khí, trong
đó có xăng dầu chi viện bằng phương tiện thô sơ ngày càng trở nên bất cập. Tình hình
bức bách dẫn đến ý tưởng phải tìm một con đường khác để vận chuyển xăng dầu liên
tục, thường xuyên và an toàn, hiệu quả hơn. Ngày 12-4-1968, Tổng cục Hậu cần thành
lập một đơn vị đặc biệt mang tên “Công trường thủy lợi 01” với 34 cán bộ, chiến sĩ
được huấn luyện cấp tốc về kỹ thuật lắp đặt đường ống. Đến ngày 29-4, đơn vị này


11
được điều vào Nghệ An với mật danh “Công trường 18”, có nhiệm vụ xây dựng hệ

thống ống dẫn xăng dầu đầu tiên tại tuyến lửa khu 4. Đường ống dẫn xăng dầu ban đầu
dài gần 1,400km, được xây dựng tháng 6/1968 từ Khe Hó đến Lộc Ninh, gồm 46 kho
với sức chừa 17.050 tấn, 113 trạm bơm đầy và cấp phát. Bộ đội công binh thi công
đường ống xăng dầu.
Sau này con đường này được xây dựng thêm lên tới 5.000km, để vận chuyển
nhiên liệu suốt từ biên giới Việt - Trung và các cảng biển miền Bắc vào đến tận Nam
Bộ. Con đường này người Mỹ dường như cũng biết rằng có và cũng đã đánh phá được
một số điểm. Nhưng nó có bằng cách nào và nó đã đóng vai trị ra sao trong việc cung
cấp nhiên liệu cho các đoàn xe vận tải vũ khi, cung cấp nhiên liệu cho xe tăng trong
các trận đánh lớn ở miền Nam, thì hình như trong những tài liệu đã giải mật gần dây
nhất cũng khơng có thơng tin cụ thể.
Bắt đầu từ hai ngả thuộc biên giới Việt - Trung là Lạng Sơn và Quảng Ninh, hai
tuyến đường ống cùng dẫn về trạm Nhân Vực, Thường Tín, Hà Nội. Từ đây, có một
đường ống chạy thẳng vào miền Trung qua Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh. Đến đây lại chia làm hai ngả: Một vượt đèo Mụ Giạ, sang Lào vươn tới Hạ
Lào, rồi vượt qua biên giới Lào và Campuchia để vào tới Nam Bộ. Ngả cịn lại theo
đường Đơng Trường Sơn đi tiếp qua Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, qua Tây Nguyên, Vượt Kon Tum, xuống Bình Phước.
Hai hệ thống Đông và Tây Trường Sơn hội tụ tại trạm cuối cùng ở Bù Gia Mập,
thuộc tỉnh Phước Long, Đông Nam Bộ.
Từ đây xăng dầu được cấp trực tiếp cho các xe vận tải chở tiếp trên những
tuyến ngắn từ miền Đông đến miền Tây. Xăng dầu được chuyển từ Bắc vào Nam đã
cung cấp cho hoạt động trên các chiến trường trong những năm đánh Mỹ, góp phần
quan trọng vào những trận chiến thắng lớn.
2.3.2. Hoạt động
Trên toàn bộ hệ thống chi viện xăng dầu dài 5.000km, đã có tới 316 trạm bơm
đầy, 101 kho với sức chứa trên 300 nghìn m 3. Bộ đội xăng dầu đã phát triển thành 9
trung đồn đường ống, 2 trung đồn cơng trình, 1 trung đồn thơng tin, 2 nhà máy cơ
khí, 3 tiểu đồn xe vận tải. Trong vịng 7 năm, tuyến ống này đã vận chuyển 5,5 triệu
tấn xăng dầu cho các chiến trường.

Mạng lưới đường ống dẫn dầu dài hơn 5.000 km nêu trên là tính từ biên giới
phía Bắc nước ta, bắt đầu từ hai điểm đầu mối tiếp nhận thuộc tỉnh Quảng Ninh và tỉnh
Lạng Sơn; còn điểm khởi đầu là từ cảng Phòng Thành, Trung Quốc. Những con tàu


12
lớn chở xăng, dầu từ Liên Xơ cập cảng Phịng Thành và nguồn nhiên liệu từ đó sẽ theo
hệ thống đường ống như những mạch máu chảy vào phía Nam, cung ứng một nguồn
vật chất hết sức thiết yếu cho những chiến dịch, cho từng trận đánh. Trong thời chiến,
hệ thống đường ống này vừa tăng nhanh khối lượng xăng, dầu vận chuyển ra tiền
tuyến, vừa giảm được rất nhiều hy sinh, tổn thất cho những chiến sĩ lái xe và xe tải chở
nhiên liệu.
Hệ thống đường ống tùy theo địa hình có đoạn nổi, đoạn chìm, có đoạn vắt qua
suối, luồn dưới dịng sơng … nhưng phần lớn nằm trên địa bàn rừng núi hoang vắng
hoặc dân cư thưa thớt, khí hậu khắc nghiệt. Với hệ thống đường ống đó, theo Trung
tướng Đồng Sĩ Ngun, Tư lệnh Binh đồn Trường Sơn “Đã thực sự thỏa mãn kịp thời
cho vận tải, đảm bảo yêu cầu cơ động cao của các quân và binh chủng với mọi quy
mô, mọi thời gian, mọi địa điểm, phục vụ đắc lực cho các chiến dịch”.
Đại tá Phan Tử Quang, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần Bộ Quốc phòng) kể rằng, trong một lần tôi được làm việc với Chu Ân Lai, Thủ tướng
nước CHND Trung Hoa nói: “Tơi khơng ngờ là Việt Nam lại làm được đường ống
xăng dầu dài đến 5.000 km” và ơng đã cử một phái đồn gần 20 kỹ sư và tiến sĩ về
đường ống xăng dầu đi tham quan từ Hà Nội theo đường ống đến Mụ Giạ (Quảng
Bình).
2.4. Đường hàng khơng
2.4.1. Q trình hình thành và hoàn thiện
Đầu những năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển, yêu cầu về
sự chi viện nhân tài vật lực ngày một lớn. Thời gian này, việc vận chuyển trên tuyến
đường mòn Trường Sơn mới chỉ bằng các phương tiện thủ cơng; đường mịn trên biển
Đơng đang trong giai đoạn thăm dị. Trong khi đó, hàng viện trợ, nhất là vũ khí, hàng
vật tư quân sự, thuốc men … do Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu viện trợ đã khá

dồi dào; nhưng Liên Xô và Trung Quốc đang xảy ra sự bất đồng nghiêm trọng về quan
điểm chính trị, việc chuyển tải hàng viện trợ bằng đường quá cảnh qua Trung Quốc
gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, ngồi các con đường Trường Sơn, đường Trường
Sơn trên biển, ... con đường chi viện quá cảnh cho miền Nam còn một phương tiện đặc
biệt nữa là hàng không quân sự và dân sự.
Cuối tháng 2 năm 1960, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp vào Quảng
Bình - Vĩnh Linh xem xét địa thế, tình hình và gợi ý mở tuyến đường hàng khơng
nhằm rút ngắn đường vận tải từ Bắc vào Nam. Nhiệm vụ này do Trung Đồn 919 đảm
đương. Hàng hóa được máy bay quân sự thả dù xuống Làng Ho, về sau, mở được sân


13
bay ở Tà Khống - tỉnh Xê-pôn Hạ Lào, hàng hóa, cán bộ, bộ đội được Đồn 559, Đồn
17 chuyển vào các chiến trường miền Trung, Nam Trung bộ và Nam Bộ…
Được thành lập vào ngày 1-5-1959 tại sân bay Gia Lâm, Trung đồn Khơng
qn vận tải 919 cũng chính là đơn vị bay vận tải quân sự - hàng không dân dụng đầu
tiên của Việt Nam. Thời điểm này, Đoàn bay chỉ sở hữu vốn liếng là 10 chiếc máy bay
IL-14, Li-2; AN-2; Mi-4, Aero-45 cùng 30 phi công được đào tạo ngắn hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu cấp bách là phục vụ chiến đấu và vận tải hàng không dân dụng.
Vậy nhưng cũng trong năm đầu tiên, với những máy bay thế hệ cũ được trang
bị rất thô sơ cùng những phi cơng tuổi đời cịn non trẻ, Đồn bay 919 vẫn thực hiện
thành cơng nhiều nhiệm vụ bay rất phức tạp, như bay phục vụ Ủy ban Quốc tế đi lại
trên miền Bắc, chở hàng hoá trên các tuyến bay trong nước và đảm nhiệm bay chuyên
cơ đưa Bác Hồ đi dự lễ thành lập Khu tự trị Tây Bắc, ... Giai đoạn 1965-1968, không
quân Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đánh phá Miền Bắc, Trung đoàn 919
dừng nhiệm vụ bay chở khách, chuyển sang thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị chiến đấu,
bay chuyên cơ, chở vũ khí đạn dược, lương thực, thuốc men phục vụ cho các chiến trường
và tiếp tế vùng khó khăn.
2.4.2. Hoạt động
Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng, trực tiếp chiến

đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ vừa chi
viện cho tiền tuyến miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà. Lực lượng và phương
tiện của Không quân và Hàng không dân dụng không ngừng tăng lên. Về máy bay
được trang bị thêm những loại máy bay vận tải quân sự và chở khách với sức chở lớn
và hiện đại hơn như trực thăng Mi-6, máy bay AN-24, IL-18. Trong hoàn cảnh chiến
tranh, các cán bộ chiến sĩ Trung đoàn tập trung hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ vận
chuyển đường không, trực tiếp tham gia chiến đấu, lập cơng xuất sắc, có ý nghĩa lịch
sử trong truyền thống của Không quân nhân dân và hàng khơng dân dụng.
Ðường hàng khơng là con đường bí mật trong công khai, đi từ Phnôm Pênh
(Campuchia), bay qua lãnh thổ miền Nam Việt Nam, thậm chí bay qua cả Sài Gịn tới
Hồng Kơng hoặc Quảng Châu (Trung Quốc) rồi về Hà Nội. Con đường này từng vận
chuyển hàng ngàn lượt tướng tá “Việt cộng” vào Nam, ra Bắc, vận chuyển hàng triệu
đô-la cho cơ quan kinh tài của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam; vận chuyển rất
nhiều máy móc, thuốc men và hố chất quan trọng; vận chuyển thương binh, vận
chuyển vợ con các chiến sĩ và cán bộ của miền Nam ra Bắc học tập, điều dưỡng.
Nhưng phía Mỹ và chính quyền Sài Gịn hình như hồn tồn chưa biết gì về tuyến
đường này.


14
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ với
quyết tâm “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”,
các cán bộ, chiến sĩ của Đoàn bay 919 đã phát huy truyền thống và phẩm chất cách
mạng của Anh bộ đội Cụ Hồ thực hiện tốt hai chức năng dân dụng và quân sự; vừa làm
nhiệm vụ vận tải quân sự phục vụ chiến đấu, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu và lập
được nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, có ý nghĩa lịch sử trong truyền thống Khơng
qn nhân dân Việt Nam. Đó là: Phi cơng của Trung đồn đã dùng máy bay chiến lợi
phẩm bắn rơi máy bay địch, ghi chiến công mở đầu thắng lợi trên mặt trận “khơng đối
khơng”; đánh chìm tàu biệt kích của địch trên vùng biển Thanh Hóa, lập chiến công
đầu trên mặt trận “không đối biển” và tập kích, tiêu diệt căn cứ ra-đa Pa-thí trên đất

Lào ghi chiến công đầu trên mặt trận “không đối đất” của Khơng qn nhân dân Việt
Nam.
Về bay chun cơ, Trung đồn 919 thực hiện được 200 chuyến bay, đưa đón
Bác Hồ, các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Quân đội Việt Nam, thực hiện
nghĩa vụ quốc tế với các nước bạn Lào và Campuchia đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt
đối.
Trong chiến dịch Tết Mậu thân năm 1968, các chiến sĩ Không quân vận tải
(Hàng không dân dụng) đã dũng cảm, táo bạo vượt qua vĩ tuyến 17 chở vũ khí, lương
thực chi viện cho quân và dân ta anh dũng đánh địch ở mặt trận Trị - Thiên - Huế.
Những cánh bay với ý chí quyết tâm cao vì miền Nam ruột thịt đã bay trong đêm tối,
sương mù dày đặc rất khó tìm mục tiêu; nhiều tổ bay đã vĩnh viễn nằm lại chiến
trường.
Trong cuộc tổng tiến cơng mùa Xn 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
Hàng không dân dụng và Không quân vận tải đã dốc toàn lực tham gia và hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ, đáp ứng các yêu cầu thần tốc của mặt trận. Quân địch thua chạy rút
khỏi sân bay ở đâu, cầu hàng khơng được nối ngay tới đó để nhanh chóng tiếp tế vũ
khí, đạn dược, lương thực, thuốc men cấp cứu thương binh. Ngày 15/5/1975, chiếc
máy bay chuyên cơ của Hàng không dân dụng Việt Nam đã bay từ Thủ đơ Hà Nội vào
thành phố Sài Gịn chở Chủ tịch nước Tơn Đức Thắng và đồn đại biểu Đảng, Nhà
nước ta vào dự lễ đại thắng giải phóng đất nước.
Chỉ tính riêng q trình tham gia và chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, các máy
bay của Trung đồn Khơng qn vận tải 919 đã thực hiện 163 chuyến bay; cơ động
4.250 cán bộ, chiến sĩ; vận chuyển 120,7 tấn vũ khí, phương tiện kỹ thuật. Trong đó có
48 tấn đạn pháo cho xe tăng và bản đồ thành phố Sài Gòn, cờ, biểu ngữ, truyền đơn,
thuốc men... đáp ứng các nhu cầu cấp bách cho chiến dịch.


15
Tinh từ 1960 cho đến kết thúc chiến tranh tháng 04/1975, con đường này đã vận
chuyển vào miền Nam và xuống Nam Lào 60.000 lượt bộ đội, 31.000 tấn vũ khí đạn

dược, khí tài, lương thực, thuốc men và hàng hóa qn sự, ... và hàng triệu đơ la cho
cơ quan Kinh-Tài của miền Nam. Với cách thức vận chuyển này, ta đã rút ngắn thời
gian của mỗi chuyển vận chuyển.
Ngồi ra, con đường hàng khơng dân sự hồn tồn cơng khai nhưng lại tuyệt
đối bí mật, rất an tồn. Ta sử dụng hãng hàng không Cambodia và France. Máy bay
dân dụng từ Hà Nội đi Phnom Pênh và ngược lại hoặc từ Phnom Pênh đi Quảng Châu,
Hồng Kông và ngược lại. Tuyến đường này chuyên chở các cán bộ cao cấp, thương
binh nặng, phụ nữ, trẻ em và hàng hóa đặc biệt. Giấy tờ của hành khách, hàng hóa đi
lại đều giả nhưng rất tinh vi. Nhân viên hành nghề ở các sân bay quá cảnh là người
Hoa, Khơ Me, Lào, Ấn kiểu, Pháp... có cảm tình với cách mạng Việt Nam và là những
người giỏi, có tín nhiệm của các hãng hàng không Cambodia và France.
2.5. Đường chuyển ngân
2.5.1. Q trình hình thành và hồn thiện
Từ năm 1960 Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc.
Từ đó, việc đưa viện trợ tiền bạc và vật chất vào Nam gặp nhiều khó khăn.
Chi viện cho chiến trường, đặc biệt là chiến trường miền Nam là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của hậu phương miền Bắc. Do vậy, vào đầu
những năm 1960, “Hội đồng chi viện tiền phương” được Bộ Chính trị thành lập. Dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng
chi viện tiền phương), sau đó là Phó Thủ tướng Phạm Hùng trong 2 năm (từ giữa năm
1965 cho đến giữa năm 1967, khi ông được cử vào miền Nam đảm nhiệm chức Bí thư
TƯ Cục) và tiếp theo là Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị trong 8 năm từ 1967-1975.
Để chuyên trách việc chi viện tài chính cho các chiến trường, tháng 4/1965, từ
đề xuất của Phó Thủ tướng Phạm Hùng, Bộ Chính trị đã cho thành lập “Quỹ Ngoại tệ
đặc biệt”. Quỹ này tiếp nhận, tập trung các nguồn ngoại tệ viện trợ, ủng hộ cho miền
Nam của nước ngoài, dự trữ, bảo quản, “chế biến” ngoại tệ thành tiền ngụy Sài Gòn,
một số loại ngoại tệ phù hợp; phối hợp với các đơn vị của Tổng cục hậu cần để vận
chuyển, chi viện cho miền Nam.
Quỹ mang mật danh B29, trong đó B là ký hiệu của phịng cơng tác miền Nam,
cịn 29 là số điện thoại của phòng qua tổng đài của Ngân hàng Nhà nước.



16
Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Văn Châu cho hay, mọi hoạt
động thu chi được hạch toán, kế tốn riêng, có các bộ phận nghiệp vụ chun mơn về
giao dịch, thanh tốn, kế tốn và ngân quỹ - mỗi bộ phận chỉ có một người.
Với tính chất cơng việc đặc biệt bí mật, B29 như một “binh đồn tiền tệ”, theo
ngun tắc của hoạt động tình báo, chịu sự chỉ đạo và báo cáo đơn tuyến với cấp trên,
trực tiếp là Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị. Nhiều chỉ thị, mệnh lệnh được thực hiện
bằng truyền miệng từ lãnh đạo cấp cao, khơng có văn bản ký duyệt. Mỗi cán bộ chỉ
biết cơng việc của mình, khơng biết việc của người khác. B29 được xem là tổ chức
tình báo kinh tế đầu tiên của Việt Nam.
Ngun Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong suốt 10 năm hoạt
động, biên chế của B29 chỉ có hơn chục cán bộ, hoạt động dưới sự điều hành của ơng
Mai Hữu Ích (cố Phó Chủ tịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam). Ngay khi mới
thành lập, B29 đã có 3 đại diện thường trú dưới danh nghĩa khác tại Hồng Kơng, Bắc Kinh
và Paris.
Quỹ này có danh nghĩa là Cục Ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chính là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) hiện nay. Tuy
nhiên, trong điều hành, quỹ chỉ chịu sự chỉ đạo đơn tuyến của Ban Viện trợ miền Nam.
Quỹ có các nguồn viện trợ quốc tế để dành riêng cho miền Nam và được sử dụng một
cách độc lập chứ không liên quan đến vốn ngoại tệ công khai của Nhà nước tại miền
Bắc.
2.5.2. Hoạt động
B.29 là đơn vị bí mật, được biên chế 14 cán bộ phụ trách. Người trực tiếp điều
hành là ơng Mai Hữu Ích (Bảy Ích) lúc đó là Phó Cục trưởng Cục Ngoại hối, đồng thời
là Ủy viên Ban Viện trợ miền Nam.
Theo lời kể trong hồi ký của một số cán bộ trực tiếp phụ trách B.29, cách thức
hoạt động của đơn vị này có thể được diễn giải đơn giản như sau: Nguồn tiền viện trợ
từ các nước XHCN và bạn bè quốc tế (bao gồm nhiều loại tiền như: đô la Mỹ, đô la

Hồng Kông, franc Pháp, bảng Anh…) được B.29 tập hợp, sau đó gửi vào tài khoản tại
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Đến lượt mình, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam lại gửi nguồn vốn này tại các ngân hàng ở Hồng Kông, Pháp và một số ngân
hàng quốc tế lớn đáng tin cậy.
Sau khi nhận viện trợ xong, B.29 sẽ căn cứ trên những diễn biến thị trường tiền
tệ quốc tế để đổi một số ngoại tệ như đô la Hồng Kông, franc Pháp, bảng Anh… sang
đô la Mỹ và một số loại tiền (như tiền bath Thái, kip Lào…) để chi dùng trong các


17
chiến trường miền Nam. Khi đã đổi ra đô la Mỹ bằng tiền mặt, B.29 chịu trách nhiệm
đưa tiền từ Hồng Kơng về Hà Nội, đóng gói và lưu trữ tại kho riêng của mình tại miền
Bắc, chờ lệnh vận chuyển vào miền Nam theo chỉ đạo của Ban Viện trợ.
Hoạt động tại 2 khu vực là Miền Bắc và miền Nam, theo nguyên tắc của hoạt
động tình báo, chịu sự chỉ đạo và báo cáo đơn tuyến với cấp trên, trực tiếp là Phó Thủ
tướng Lê Thanh Nghị. Nhiều chỉ thị, mệnh lệnh được truyền miệng từ lãnh đạo cấp
cao chứ khơng có văn bản ký duyệt. Mỗi cán bộ chỉ biết cơng việc của mình, khơng
biết việc của người khác.
Miền Bắc:
Hoạt động của B29 ở miền Bắc tuyệt đối bí mật, kịp thời nhanh chóng, chính
xác và phải theo dõi, giám sát được lộ trình của dịng tiền chi viện cho tiền phương.
Khâu vận chuyển tiền ở phạm vi phía Bắc với các nước bạn do B29 phụ trách thường
sử dụng các phương tiện như đường sắt, liên vận quốc tế, các hãng hàng không…Mỗi
chuyến vận chuyển tiền trong cặp thường có từ vài triệu USD tiền mặt. Những cán bộ
chuyển ngân hoạt động như khách VIP đi cơng tác, các lộ trình đều tuyệt mật theo
ngun tắc đơn tuyến.
Miền Nam:
Con đường đưa ngoại tệ vào chiến trường chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (1965-1973) - Vận chuyển bằng tiền mặt:
Mật danh gọi là AM. Ban đầu, chỉ thực hiện vài chuyến qua đường hàng không

Paris - Hà Nội - Phnom Penh. Sau đó, do nhu cầu cần nhiều loại tiền, ngồi USD cịn
cần cả tiền Sài Gòn, Riel Campuchia, Bath Thái Lan, Kip Lào, việc cho tiền vào vali
ngoại giao xách tay là không thể. Vì thế phải dùng vali lớn đóng gói, ngụy trang thành
nhiều kiện (có lúc hàng trăm kg) chở bằng máy bay, tàu hỏa đưa ngoại tệ từ nước
ngoài về Hà Nội, giao C100 Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng) cho vào hòm đạn và
thùng sắt vận chuyển vào chiến trường bằng ô tô, tàu thủy.
- Giai đoạn thứ 2 là (1973 -1975) - Chuyển khoản:
Giao dịch theo quy ước tay ba giữa B29 với N2683 và thương gia Sài Gịn
(nhận hàng trước, thanh tốn sau). Khi B29 nhận được điện mật từ N2683 gửi ra đã
nhận đủ số tiền Sài Gòn từ thương gia, B29 điện cho ngân hàng ngoại thương có tài
khoản tại nước ngồi, u cầu họ trích tài khoản ghi có tài khoản của thương gia với số
USD tương đương với số tiền mặt (theo tỷ giá N2683 đã thỏa thuận) C130 đã nhận tại
Sài Gòn.


18
Một bên bán hàng thu USD ghi có vào tài khoản ở nước ngoài (nơi nhập hàng);
một bên bán USD ở nước ngồi lấy tiền mặt tại Sài Gịn. Tiền mặt được lấy từ các tài
khoản của thương gia tại ngân hàng ở Sài Gòn, mật danh là FM, do tổ chức C130 và
N2863 bảo quản, vận chuyển tới vùng căn cứ địa cách mạng bằng nhiều phương thức
ngụy trang đặc biệt để che mắt kẻ thù.


19
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN
ĐỐI VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
3.1. Kết quả
Con đường chi viện đã hình thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc, là cơ sở
hạ tầng bảo đảm chi viện liên tục vật chất, cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật, bảo
đảm cho địn tấn công chiến lược khi thời cơ đến. Sự ra đời, phát triển của tuyến chi

viện chiến lược Trường Sơn đã tạo bước ngoặt trong việc đưa sức mạnh của hậu
phương ra tiền tuyến. Nếu như trong 05 năm đầu (1959 - 1964), ta mới chỉ chuyển
hàng vào tới Khu V được hơn 2.500 tấn, thì từ năm 1966 đã bắt đầu chuyển tới Tây
Nguyên và Nam Bộ. Để đáp ứng yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân,
trong 07 tháng mùa khơ 1967 - 1968, tồn tuyến đã vận chuyển được 63.024 tấn hàng
cho các chiến trường, bảo đảm vật chất cho bộ đội hành quân 31.054 tấn. Chuẩn bị cho
cuộc Tiến công chiến lược 1972, mùa khô 1971 - 1972, ta đã vận chuyển tổng cộng 64.785
tấn, đạt 145% kế hoạch.
Tuyến chi viện chiến lược ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong hơn 02 năm chuẩn bị cho Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã chuyển cho
các chiến trường 413.450 tấn vũ khí và hàng hóa các loại, trong đó có cả vũ khí hạng
nặng, v.v. Tổng cộng trong 16 năm, tuyến chi viện chiến lược đường Hồ Chí Minh đã
vận chuyển 1.349.060 tấn vũ khí và hàng hóa; 5.500.000 tấn xăng dầu; đồng thời, bảo
đảm cho hơn 1.100.000 lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân vào miền Nam chiến đấu, đưa
hơn 650.000 lượt cán bộ, chiến sĩ từ chiến trường trở về hậu phương, trong đó có gần
310.000 thương binh, bệnh binh, lập nên kỳ tích, góp phần quan trọng vào những
thắng lợi trên chiến trường, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nó làm cho đối
phương kinh ngạc, bất ngờ và khơng thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mơ, sự
dũng cảm và tính sáng tạo vơ song của con đường, những con tàu và những con người
tham gia tuyến đường.
Sự chi viện của miền Bắc thông qua các tuyến đã trở thành một hệ thống mạng
đường không thể bị chặn cắt, chuyển vận toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn từ hậu
phương miền Bắc vào chi viện cho cách mạng miền Nam, giúp quân và dân các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long phát triển lực lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực mới,
đánh thắng địch nhiều trận, củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Thành cơng của
những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, xây dựng
và phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ. Có thể thấy,
hiệu quả vận chuyển của tuyến chi viện chiến lược biển, đã tạo nên thế trận chiến tranh



20
nhân dân rộng khắp trên tất cả các vùng chiến lược, các địa bàn chiến lược ở miền
Nam. Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thời những vũ khí tương đối hiện đại, có tính năng
chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh của quân và dân ta, thay đổi tương quan lực
lượng giữa ta và địch, góp phần xứng đáng vào Đại thắng mùa Xuân 1975, hoàn thành
sứ mệnh lịch sử lớn lao mà triệu triệu người Việt Nam u nước đã khơng tiếc tính
mạng và của cải giành lại - đó là giữ vững độc lập, tự do và thống nhất non sông.
3.2. Ý nghĩa
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, con đường Hồ Chí Minh lịch sử
nói chung và năm tuyến đường nói riêng đã thể hiện vai trị chiến lược khơng thể phủ
nhận trong sự nghiệp kháng chiến oai hùng của dân tộc Việt Nam. Nó đã thể hiện
thành cơng vai trị cốt yếu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là tuyến đường
thực hiện vai trò hậu phương của miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam thông qua các
tuyến đường bộ, đường biển, đường xăng dầu, đường hàng không và đường chuyển
ngân. Đây là những con đường mang tầm vóc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, cũng
chính là biểu tượng ý chí sắt đá, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao cả được hun đúc,
kết tinh từ truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử
của dân tộc; truyền thống yêu nước và cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
Đường bộ: Đánh giá về tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí
Minh, Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi trong Sổ vàng truyền thống của Bộ đội
Trường Sơn: “Đây là một trong những nhân tố chiến lược có ý nghĩa quyết định đưa
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hồn tồn”. Đường Hồ Chí Minh
trở thành biểu tượng sáng ngời của tình đồn kết gắn bó keo sơn của quân với dân,
miền Bắc với miền Nam, giữa ý Đảng với lịng dân và tình đoàn kết chiến đấu chống
kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia; của Đảng, Chính
phủ và nhân Cu-ba - một đất nước ở bên kia bán cầu dành riêng cho tuyến chi viện
chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh nói riêng, cho Việt Nam nói chung; một
pho lịch sử bằng vàng để các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau học tập và

noi theo.
Đường biển: Việc thiết lập “Đường Hồ Chí Minh trên biển” đã đánh dấu sự ra
đời của một phương thức chi viện mới, hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Tuyến đường vận tải biển đặc biệt này đã có vai trị hết sức quan trọng, trực tiếp chi
viện lực lượng, trang bị, vũ khí... cho chiến trường miền Nam; góp phần to lớn vào sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Vận chuyển thành cơng hàng chục
nghìn tấn hàng hóa, trang thiết bị, vũ khí, khí tài, đạn dược... chỉ với những phương


21
tiện thô sơ, thuyền nhỏ, “tàu không số”, “Đường Hồ Chí Minh trên biển” đã đi vào lịch
sử dân tộc như một kỳ tích, một mốc son chói lọi, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, trí tuệ, sự hy sinh, lòng dũng cảm, khát vọng độc lập dân tộc.
Đồng thời, “Đường Hồ Chí Minh trên biển” cũng là tuyến vận tải quan trọng có ý
nghĩa chiến lược trong quá tình tăng cường nhân lực, vật lực phục vụ cho chiến trường
miền Nam, trực tiếp góp phần hàng loạt thắng lợi của quân dân miền Nam, đỉnh cao là
đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đường
Hồ Chí Minh trên biển là một trong những sáng tạo độc đáo, đặc sắc, thể hiện tầm nhìn
chiến lược, tài thao lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ
đạo chiến tranh. Những bài học lịch sử về tuyến đường này, đặc biệt là vận dụng sáng
tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng để xây dựng Hải quân nhân
dân Việt Nam đủ mạnh, nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vùng
đặc quyền kinh tế, ngăn chặn hiệu quả mọi mưu đồ tấn công Tổ quốc ta từ hướng biển.
Đường ống xăng dầu: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường
ống xăng dầu đã lập công xuất sắc. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên nhận định "Nếu đường
Trường Sơn là huyền thoại thì đường ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại
đó". Đây là một cơng trình thể hiện ý chí quyết tâm, tinh thần dũng cảm, mưu trí và
đầy sáng tạo, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc
Việt Nam.
Đường hàng khơng: Bí mật trong cơng khai, đi từ Phnom Penh, bay qua lãnh

thổ miền Nam Việt Nam, thậm chí bay qua chính Sài Gịn, tới Hồng Kơng hoặc Quảng
Châu, rồi về Hà Nội. Con đường này đã từng vận chuyển hàng ngàn lượt tướng tá của
miền Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, vận chuyển hàng triệu đô la cho cơ quan Kinh
Tài của miền Nam, vận chuyển rất nhiều thủ máy móc, thuốc men và hóa chất quan
trọng, vận chuyển thương binh, vận chuyển vợ con những chiến sĩ và cán bộ của miền
Nam ra Bắc để học tập và điều dưỡng... góp phần cải thiện tình hình loạn chiến nước
ta thời bấy giờ. Nhưng phía Mỹ và chính quyền Sài Gịn hình như cũng hồn tồn
chưa biết gì.
Đường tài chính, con đường chuyển ngân: Đó là con đường vơ hình, khơng có
đường, khơng có lối trên đất liền, trên biển, trên không, trên những đường ống... Nó đi
theo hệ thống ngân hàng của chính các nước phương Tây và hệ thống ngân hàng này ở
ngay Sài Gòn để chi tiêu cho những lực lượng Giải phóng. Nó đã mang đến sức mạnh
vật chất vơ cùng to lớn, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của toàn quân, toàn dân ta.


22
Đường Hồ Chí Minh đã hồn thành sứ mệnh lịch sử, góp phần to lớn kết thúc
thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Năm tháng sẽ qua đi,
nhưng những chiến công anh hùng và hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận
tải chiến lược, của quân và dân làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại mãi mãi là niềm tự hào của quân đội ta,
nhân dân ta, là biểu tượng sáng ngời, lịng dũng cảm, ý chí sắt đá, quyết tâm giành độc
lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc ta.
Trong hiện tại, con đường Hồ Chí Minh cũng là tượng đài bất diệt đối với nhân
dân ta; là con đường phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chính
thức trở thành một tuyến đường Quốc lộ Bắc - Nam hiện đại, phục vụ cho khát vọng
vươn lên của một dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước;
mở ra hướng khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội của Tổ quốc, phục vụ cho sự phát
triển đất nước và củng cổ nền quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Những hy sinh cao cả và chiến công oanh liệt của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân
ta trong những năm tháng chiến tranh ác liệt vẫn cịn ngun ý nghĩa và đang thơi
thúc, nhắc nhở, động viên khích lệ chúng ta hiện nay. Trong sự nghiệp đổi mới đất
nước, đòi hỏi các cấp, các ngành, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần
gìn giữ, phát huy truyền thống, truyền lại những kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ
hôm nay và mai sau. Nhất là thế hệ trẻ phải luôn tu dưỡng, rèn luyện, đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng cường huấn luyện
quân sự, nghiệp vụ, tỏa sáng, sẵn sàng tham gia chiến đấu khi Tổ quốc cần, phấn đấu
xứng danh Bộ đội Cụ Hồ, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân
dân; đồng thời, không dao động, không ngả nghiêng trước các luận điệu xuyên tạc
trắng trợn của các thế lực thù địch về hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong lịng nhân dân. Mỗi
người “Con Lạc cháu Hồng” đất Việt phải quyết tâm cùng góp sức, góp tài nhằm xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.


23
KẾT LUẬN
Con đường Hồ Chí Minh lịch sử nói chung và năm tuyến đường (bộ, biển, xăng
dầu, hàng không, chuyển ngân) nói riêng đã thể hiện vai trị chiến lược không thể phủ
nhận trong sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ oai hùng của dân tộc Việt Nam.
Nó đã hồn thành sứ mệnh lịch sử, góp phần to lớn kết thúc thắng lợi vẻ vang trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, thu non sông về một mối. Nhưng trong hiện tại nó cũng
là tượng đài bất diệt đối với nhân dân ta; là con đường phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; chính thức trở thành một tuyến đường Quốc lộ Bắc- Nam
hiện đại, phục vụ cho khát vọng vươn lên của một dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc
tế và phát triển của đất nước; mở ra hướng khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội của Tổ
quốc, phục vụ cho sự phát triển đất nước và củng cố nền quốc phịng tồn dân và thế
trận an ninh nhân dân.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng con đường lịch sử, sẽ mãi mãi là niềm tự hào, niềm
kiêu hãnh của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ, văn nghệ sĩ, thanh niên xung phong, dân công

hỏa tuyến đường Trường Sơn năm xưa sẽ là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, là huyền thoại trong trường ca chống đế quốc Mỹ xâm lược của dân
tộc. Là bài học và những giá trị lịch sử để lại cho thế hệ trẻ không những hôm nay và
mãi mãi về sau.


×