Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài thu hoạch lớp CCLLCT môn quan he quoc te QUAN hệ CHIẾN lược mỹ TRUNG và sự tác ĐỘNG đến CHÍNH SÁCH đối NGOẠI của VIỆT NAM GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.4 KB, 13 trang )

1

BÀI THU HOẠCH MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ

QUAN HỆ CHIẾN LƯỢC MỸ- TRUNG VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

PHẦN MỞ ĐẦU
Quan hệ Trung-Mỹ là một trong những mối quan hệ song phương quan
trọng và phức tạp nhất trên thế giới cho đến thời điểm hiện tại . Quá trình phát
triển phức tạp của mối quan hệ hai nước này rất ít thấy ở bất cứ nước lớn nào
trên thế giới. Cơ sở của quan hệ Trung-Mỹ vốn rất yếu kém, hầu như bắt đầu
từ con số không. Tháng 10/1949, Trung Quốc mới ra đời trong bối cảnh quốc
tế lớn Mỹ-Xô đang đối đầu trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Mỹ có thái độ thù
địch với một Trung Quốc đang “nghiêng về” phe Chủ nghĩa Xã hội, tập hợp
các nước phương Tây thực hiện chính sách thù địch với Trung Quốc như cơ
lập về chính trị, phong tỏa về kinh tế, bao vây về an ninh…; đồng thời còn
liên minh quân sự với nhà cầm quyền của Đài Loan, trực tiếp cản trở sự
nghiệp thống nhất của Trung Quốc. Sau đó, hai nước Trung-Mỹ cịn tiến hành
“chiến tranh Nóng” tại Triều Tiên và Việt Nam, khiến cho hai bên rơi vào


2
trạng thái đối đầu và thù địch nhau trong một thời gian tương đối dài, hầu như
khơng có một sự trao đổi nào. Cho đến năm 1954, hai nước Trung-Mỹ mới có
sự tiếp xúc trong những ngày diễn ra Hội nghị Giơnevơ để bàn về việc giải
quyết hịa bình vấn đề Triều Tiên cũng như vấn đề khơi phục hịa bình Đơng
Dương, và cho đến ngày 1/8/1955 bắt đầu tổ chức hội đàm cấp đại sứ - đây
cũng là kênh trao đổi duy nhất giữa Trung Quốc và Mỹ khi đó.
Cho đến khi Tổng Thống Mỹ Nixon đã đi thăm Trung Quốc, mở đầu
cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ. Trải qua hơn 6 năm gian


nan tìm kiếm, hai nước đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
1/1/1979.
Trong những năm qua, quan hệ Trung-Mỹ đã trải qua quá trình phát
triển dài đằng đẵng, đầy trắc trở, nhưng cũng thu được thành quả to lớn. Là
hai nước lớn có ảnh hưởng trên thế giới, xu hướng phát triển từ nay về sau
của quan hệ Trung-Mỹ sẽ ảnh hưởng quan trọng đến triển vọng trong tương
lai của quan hệ hai nước thậm chí cả thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì thế,
ngày càng thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế.
PHẦN NỘI DUNG
1. Sự phát triển của quan hệ Mỹ- Trung qua các thời kỳ.
1.1. Thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Tính đến ngày 20/2/1970 hai bên đã tổ chức tổng cộng 136 cuộc hội
đàm, cuộc “đàm phán theo kiểu Ma-ra-tông” này diễn ra suốt 15 năm, nhưng
khơng đạt được bất kỳ tiến triển gì đối với những vấn đề mang tính thực chất,
bị coi là “cuộc đối thoại giữa những người điếc”.
Tháng 1/1969, Nixon lên làm tổng thống, ơng nhận định rằng tình hình
quốc tế đã nảy sinh những biến đổi to lớn, thế giới xuất hiện 5 trung tâm sức
mạnh lớn là Mỹ, Tây Âu, Liên Xô, Trung Quốc và Nhật Bản, và cho rằng
Liên Xô đã trở thành “đối thủ cạnh tranh hùng mạnh”. Lợi dụng mâu thuẫn và
sự đối lập giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mỹ muốn lôi kéo Trung Quốc cùng


3
đối phó với Liên Xơ, nhằm bảo vệ địa vị bá quyền của Mỹ, vì thế Nixon có ý
định cải thiện quan hệ đối với Trung Quốc. Khi đó Trung Quốc đang phải đối
diện với sự đe dọa an ninh trực tiếp từ Liên Xơ, vì thế Trung Quốc đã có
những hồi âm tích cực đối với mong muốn cải thiện quan hệ hai nước của
Nixon. Ngày 21/2/1972, Tổng thống Nixon nhận lời mời đến thăm Trung
Quốc, Trung-Mỹ đã thực hiện “cú bắt tay xuyên Thái Bình Dương” lần đầu
tiên kể từ hơn 20 năm qua, hai bên sau đó công bố “Thông cáo chung Thượng

Hải” nổi tiếng; 6 năm sau, phía Mỹ đã chấp nhận ba điều kiện “huỷ bỏ hiệp
ước ký với Đài Loan, rút quân khỏi Đài Loan, cắt đứt quan hệ ngoại giao với
Đài Loan” mà Trung Quốc đưa ra, hai bên ra thông cáo chung về việc thiết
lập quan hệ ngoại giao, và Trung-Mỹ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao;
ngày 17/8/1982, Trung-Mỹ đã ra thông cáo chung về vấn đề Mỹ bán vũ khí
cho Đài Loan, tức “thơng cáo chung 17/8”. Ba thơng cáo chung này đã đặt cơ
sở cho quan hệ Trung-Mỹ.
Quan hệ Trung-Mỹ phát triển nhanh chóng trong mười năm sau khi
thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhu cầu chiến lược cùng nhau đối phó với chủ
nghĩa bành trướng Liên Xơ là sợi dây gắn bó nhất trong việc duy trì quan hệ
hai nước khi đó. Mỹ coi trọng địa vị đặc thù của Trung Quốc trong “tam giác
lớn Trung-Mỹ-Xô”, coi Trung Quốc là “nước hữu hảo phi đồng minh”. TrungMỹ từng bước mở rộng hợp tác trên mọi lĩnh vực, sự tin tưởng nhau về chiến
lược giữa hai bên không ngừng được tăng cường. Trong thời gian này, giữa
Trung-Mỹ cũng tồn tại mâu thuẫn, nhưng nhân tố chiến lược vẫn chủ đạo
hướng đi trong quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác đều bị coi là thứ yếu.
Vào dịp Xuân-Hè năm 1989, Trung Quốc đã xảy ra động loạn lớn, Mỹ
tuyên bố biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc, các nước phương Tây dấy
lên làn sóng phản đối Trung Quốc mạnh mẽ, quan hệ Trung-Mỹ nhanh chóng
xấu đi. Nhưng việc trừng phạt Trung Quốc lại không phù hợp với chiến lược
tồn cầu và lợi ích lâu dài của Mỹ. Vào lúc quan hệ Trung-Mỹ xuất hiện sự
thay đổi, thì các nước Đơng Âu lại có những đột biến, Liên Xô tan rã. Mỹ


4
đánh giá lại tình hình quốc tế, cho rằng Trung Quốc cũng khó mà duy trì lâu
dài, và cịn mất đi giá trị chiến lược đối với Mỹ, nên Mỹ cũng khơng vội vàng
cải thiện quan hệ Trung-Mỹ. Tình trạng này kéo dài cho đến năm 1993.
Nhưng nằm ngoài dự tính của Mỹ, thế giới sau Chiến tranh Lạnh lại
khơng phát triển theo ý đồ của Oasinhtơn; Trung Quốc không những không
sụp đổ mà xu hướng phát triển ngày càng mạnh. Các nước phương Tây đua

nhau huỷ bỏ trừng phạt đối với Trung Quốc, tích cực cải thiện quan hệ với
Bắc Kinh. Trước tình hình này, Tổng thống Bill Clinton đã đề ra chính sách
mới đối với Trung Quốc "tiếp xúc và kiềm chế". Tháng 9/1993, lãnh đạo hai
nước Trung-Mỹ đã có cuộc gặp gỡ chính thức lần đầu tiên sau 4 năm tại
Seattle , quan hệ hai nước đã được cải thiện, về tổng thể duy trì được xu thế
phát triển tốt đẹp, hai bên còn xác định cố gắng xây dựng quan hệ đối tác
chiến lược Trung-Mỹ. Sau khi Bush (Con) lên nhậm chức Tổng thống, Mỹ đã
thúc đẩy chính sách “bá quyền đơn cực”, trong giai đoạn đầu của nhiệm kỳ có
thái độ cứng rắn với Trung Quốc, trong vấn đề Đài Loan ngang nhiên công bố
“giúp Đài Loan phòng vệ” và quyết định bán lượng lớn vũ khí cho Đài Loan;
sau đó lại xảy ra sự kiện va chạm máy bay đã dẫn đến quan hệ Trung-Mỹ lại
trở nên căng thẳng. Sau sự kiện 11/9, Mỹ tiến hành điều chỉnh chiến lược,
việc chống khủng bố và ngăn chặn phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt được
Mỹ đưa lên làm mục tiêu chiến lược chủ yếu, theo đó nhu cầu chiến lược đối
với Trung Quốc cũng được nâng cao, mang lại cơ hội cho việc cải thiện và
phát triển quan hệ Trung-Mỹ. Trong thời gian Tổng thống Bush (Con) cầm
quyền, quan hệ Trung-Mỹ về tổng thể phát triển tương đối thuận lợi. Tháng
9/2005, Thứ trưởng thường trực Bộ ngoại giao Mỹ Robert Zoellick đưa ra
quan điểm cho rằng Trung Quốc và Mỹ đều là “bên tương quan lợi ích”, tỏ rõ
trong thời kỳ hệ thống quốc tế trải qua sự biến đổi sâu sắc, Mỹ càng phải coi
trọng vai trò của Trung Quốc, hy vọng cùng Trung Quốc phát triển quan hệ
hợp tác toàn diện.


5
1.2. Thời kỳ thiết lập quan hệ “tích cực, hợp tác, toàn diện” (Từ
năm 2009)
Năm 2009, Barack Obama vào làm ông chủ Nhà Trắng, cơ bản đã làm
theo chính sách đối với Trung Quốc của người tiền nhiệm và có sự phát triển
mới. Lãnh đạo hai nước Trung-Mỹ đã tổ chức gặp mặt lần đầu tiên trong thời

gian diễn ra Hội nghị thượng đỉnh G-20 tại Luân Đôn, định vị rõ quan hệ
Trung-Mỹ là “tích cực, hợp tác, tồn diện”, và quyết định thiết lập cơ chế đối
thoại chiến lược và kinh tế Trung-Mỹ. Tháng 11/2009, Tổng thống Obama có
chuyến thăm Trung Quốc thành công, đây là lần đầu tiên một Tổng thống Mỹ
chính thức đến thăm Trung Quốc đúng vào năm nhậm chức. Tháng 1/2011,
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cầm Đào chính thức tới thăm Mỹ, nguyên thủ hai
nước đã đạt được nhận thức chung quan trọng trong việc xây dựng mối quan
hệ đối tác hợp tác tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi cùng thắng lợi, xác định
phương hướng mới cho việc phát triển quan hệ hai nước.
1.3. Đặc trưng của quan hệ Trung – Mỹ.
Trên con đường phát triển quan hệ Trung-Mỹ trong 40 năm qua, có hợp
tác cũng có đấu tranh, có thành cơng cũng có trắc trở, có cao trào cũng có
thối trào, nhưng phương hướng lớn phát triển đi lên chưa bao giờ thay đổi.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta có thể thấy được những mặt tích cực của nó :
Thứ nhất, hai nước Trung-Mỹ tồn tại sự khác biệt có tính kết cấu, khó
tránh khỏi nảy sinh bất đồng, mâu thuẫn hay đấu tranh.
Thứ hai, Trung-Mỹ đều là những nước lớn chủ quyền độc lập, nội
chính khơng dễ can thiệp, khơng bên nào có thể có mưu đồ thay đổi và kiểm
sốt đối phương, quan hệ hai nước cần phải dựa trên nguyên tắc tơn trọng lẫn
nhau, chung sống hịa bình, khơng đối đầu và hợp tác phát triển.
Thứ ba, tình hình thế giới thay đổi ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Mỹ,
quan hệ Trung-Mỹ cũng ảnh hưởng tới tình hình thế giới. Quan hệ Trung-Mỹ
từ khi bắt đầu đã không phải là quan hệ song phương đơn thuần, nó có quan


6
hệ mật thiết đối với hồ bình, ổn định, phát triển của khu vực châu Á-Thái
Bình Dương, thậm chí là thế giới.
Thứ tư, hai nước Trung-Mỹ đều có thuộc tính và đặc điểm riêng của
mỗi nước, đều có lợi ích cốt lõi và mối quan tâm lớn của mỗi nước. Việc tìm

ra điểm hội nhập tốt nhất của lợi ích hai nước và khơng ngừng mở rộng lợi ích
chung chắc chắn là điều đặc biệt quan trọng.
2. Quan hệ chiến lược Trung-Mỹ giai đoạn hiện nay .
Từ khi bước vào thế kỷ 21 đến nay, những nhân tố quyết định và ảnh
hưởng đến quan hệ Trung-Mỹ khơng ngừng có sự thay đổi, nhưng có hai xu
thế lớn quan trọng hơn đó là:
Thứ nhất, cục diện thế giới đang có sự phát triển, thay đổi và điều chỉnh
lớn. Sau Chiến tranh Lạnh, tồn cầu hố tiếp tục phát triển, ngày càng bao
trùm lên toàn thế giới, mối liên hệ giữa các nước ngày càng mật thiết, hịa
chung lợi ích, an nguy có nhau, mức độ dựa vào nhau lớn chưa từng có,
khơng gian dành cho “trị chơi dược mất ngang nhau” đã thu hẹp lại. Nhiều
mối đe dọa về an ninh và sinh tồn nguy hại cho nhân loại đã trở thành vấn đề
mang tính tồn cầu, bất cứ quốc gia nào cũng đều khó có thể đơn độc đối phó,
cần cộng đồng quốc tế hợp tác giải quyết. Chính trị cường quyền và chủ nghĩa
bá quyền truyền thống đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng quốc
tế, trật tự thế giới địi hỏi có sự sắp xếp và tư duy mới. Hịa bình, phát triển và
hợp tác đã trở thành mục tiêu mà tất cả các nước cùng theo đuổi.
Thứ hai, so sánh lực lượng thế giới đang phát triển theo hướng cân
bằng hơn. Sự trỗi dậy của nhiều nước đang phát triển đã dần dần vẽ lại bản đồ
cũ về kinh tế chính trị quốc tế, trở thành lực lượng mới ảnh hưởng tới sự thay
đổi của cục diện thế giới. Các nước lớn truyền thống tuy vẫn có ưu thế thực
lực về nhiều mặt, nhưng khả năng độc quyền và thao túng các công việc quốc
tế đã yếu đi rõ rệt. Các nước lớn mới nổi yêu cầu tiến hành cải cách sự phân
phối quyền lực trong việc quản lý thế giới, để được hưởng quyền tham gia,


7
quyền quyết sách và quyền phát ngôn công bằng hợp lý hơn. Những thay đổi
trong so sánh sức mạnh Trung-Mỹ là điểm nổi bật nhất.
Nhìn vào quá trình phát triển 40 năm của quan hệ Trung-Mỹ thì có thể

thấy quan hệ hai nước vẫn ở trong giai đoạn phát triển tốt đẹp như:
- Cấp cao hai nước giao lưu mật thiết và rộng rãi hơn bao giờ hết.
Nguyên thủ hai nước Trung-Mỹ trong 3 năm gặp gỡ nhau tổng cộng 11 lần.
Cấp cao hai bên không ngừng thăm hỏi lẫn nhau. Trung-Mỹ đã xây dựng hơn
60 cơ chế tham vấn, bao trùm lên lĩnh vực như ngoại giao, kinh tế thương
mại, tài chính, năng lượng, mơi trường, chấp pháp, nhân văn và an ninh... Đặc
biệt là hai cơ chế cấp cao Đối thoại chiến lược và kinh tế Trung-Mỹ và Tham
vấn cấp cao về giao lưu nhân văn Trung-Mỹ, hai cơ chế này đều phát huy vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu giữa hai bên, đẩy mạnh sự hiểu
biết lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác mang tính thực chất giữa hai nước.
- Nhận thức chiến lược của hai nước về quan hệ song phương tương đối
rõ ràng. Việc xây dựng quan hệ đối tác hợp tác cùng có lợi cùng thắng lợi là
nhận thức chung quan trọng của hai bên Trung-Mỹ. Hai nước đều coi mối
quan hệ này là một trong những quan hệ song phương quan trọng nhất thế
giới hiện nay, đặt nó vào vị trí quan trọng trong chiến lược đối ngoại của mỗi
bên.
- Trung-Mỹ tiếp tục đi sâu và mở rộng hợp tác trên mọi lĩnh vực, và
không ngừng đạt được những thành quả thực chất, thực hiện được việc cùng
có lợi cùng thắng lợi.
- Giao lưu nhân văn và trao đổi nhân viên giữa hai nước ngày càng mật
thiết. Tình cảm hữu nghị giữa nhân dân hai nước dần dần sâu sắc hơn, đang
hình thành nên cơ sở dân ý tốt đẹp trong quan hệ hai nước; lấy việc lưu học
sinh làm ví dụ, lưu học sinh Trung Quốc tại Mỹ hiện nay khoảng 150.000
người.


8
- Hiệp thương và hợp tác Trung-Mỹ trong các công việc quốc tế không
ngừng đẩy mạnh, hai nước đã xây dựng các cơ chế như tham vấn an ninh
châu Á - Thái Bình Dương… Hai nước tích cực hợp tác trong việc cùng nhau

đối phó với các vấn đề mang tính tồn cầu, duy trì sự trao đổi và phối hợp
trong việc đối phó với các vấn đề khu vực và quốc tế quan trọng.
Đương nhiên, quan hệ Trung-Mỹ cũng tồn tại rất nhiều nhân tố tiêu
cực, có những bất đồng được tạo ra từ sự khác biệt vốn có giữa hai nước,
cũng có những vướng mắc lịch sử cịn chưa được giải quyết, cịn có những
vấn đề mới nảy sinh do tình hình thay đổi. Đặc biệt trong thời gian bầu cử của
Mỹ, hai đảng đối lập thường đem Trung Quốc ra làm “vật hy sinh” cho cuộc
đấu tranh chính trị giữa hai đảng, tìm mọi cớ để thể hiện sự cứng rắn đối với
Trung Quốc, nhằm tranh thủ lá phiếu của các cử tri Mỹ. Quan hệ Trung-Mỹ
luôn có tính hai mặt rõ rệt, mặt tích cực và mặt tiêu cực kiềm chế lẫn nhau, có
lúc tạo nên sự bất ổn định giữa quan hệ hai nước.
3. Quan hệ Trung – Mỹ và chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Trung-Mỹ là hai nước lớn có ảnh hưởng quan trọng ở hai bờ Đơng-Tây
Thái Bình Dương, đều là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc, phát huy vai trị quan trọng trong các cơng việc quốc tế. Trung-Mỹ
có thể cống hiến cho cộng đồng quốc tế trong việc duy trì hồ bình ổn định
thế giới đặc biệt là khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.
Sự cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc đang gia tăng, và hai
nước đang hướng tới một cuộc đối đầu mang phong cách Chiến tranh Lạnh,
đặc trưng bởi cuộc cạnh tranh gay gắt để giành các vùng ảnh hưởng, và ở một
mức độ thấp hơn là giành ưu thế về quân sự. Quyết tâm của Trung Quốc
trong việc mở rộng dấu chân của mình trên tồn thế giới và thách thức ưu thế
của Mỹ thơng qua việc phát triển quân sự và các sáng kiến như Ngân hàng
Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), dự án “Một vành đai, một con đường,”
hay hoạt động xây dựng ồ ạt các đảo nhân tạo ở Biển Đông với hy vọng vươn
tới một “Giấc mơ Trung Hoa,” và thiết lập một trật tự quốc tế mới có lợi hơn


9
cho những lợi ích của Trung Quốc và tương xứng với sức mạnh đang lên của

nước này. Trong bối cảnh đó, Đơng Nam Á đã nổi lên như một đấu trường
cho sự cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc. Đặc biệt, Việt Nam đã trở
thành một mục tiêu tự nhiên cho những động thái ngoại giao của cả hai cường
quốc.
3.1. Quan hệ đối ngoại Việt – Mỹ.
Chuyến thăm Washington gần đây của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng (2015) là một dấu mốc “lịch sử” trong
quan hệ song phương với Mỹ (The White House, 2015).
Điều này được thể hiện ở một số điểm sau:Mỹ thiết lập một mối quan
hệ chiến lược gần gũi hơn với Việt Nam bằng cách cam kết viện trợ 18 triệu
USD cho Việt Nam để mua tàu tuần tra vào năm 2013, và quyết định dỡ bỏ
một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam vào tháng 10 năm
2014. Những khuôn khổ rộng hơn cho hợp tác chiến lược song phương cũng
đã được thiết lập. Hai bên đã ký một Bản ghi nhớ về việc thúc đẩy hợp tác
quốc phịng song phương năm 2011, sau đó bổ sung bằng một “Tun bố Tầm
nhìn chung” được cơng bố hồi tháng 6 năm 2015.

3.2. Quan hệ đối ngoại Việt – Trung.
Sau cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu Hải Dương 981 năm 2014,
Trung Quốc đã cố gắng khôi phục mối quan hệ với Việt Nam bằng cách mời
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới thăm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 2015.
Trung Quốc đã đón tiếp bằng nghi thức ngoại giao cấp cao nhất với 21 loạt
đại bác. Trong chuyến thăm, bên cạnh việc cố gắng giải quyết những căng
thẳng trong vấn đề Biển Đông, hai bên cũng nhấn mạnh vấn đề hợp tác kinh
tế. Hai bên đồng ý thành lập hai nhóm cơng tác về phát triển cơ sở hạ tầng và
hợp tác tài chính. Các thỏa thuận này nhằm phục vụ mục đích thúc đẩy AIIB.


10
Nhiều đề nghị khác cũng có thể được Trung Quốc đưa ra trong chuyến thăm

Hà Nội của Chủ tịch Tập Cận Bình vào cuối năm 2017.
3.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với hai nước lớn Trung –
Mỹ.
Từ năm 2015 đến nay, với sự chạy đua gây ảnh hưởng tại Đông Nam Á
và Việt Nam của Mỹ và Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đối
ngoại của nước ta với hai nước lớn này.
* Thực hiện quan hệ hợp tác trên cơ sở tôn trọng chế độ chính trị và
độc lập, chủ quyền của nhau đối với Mỹ.
Việt Nam chính thức thực hiện hợp tác trong quan hệ với Mỹ về Giáo
Dục – Đòa tạo.
Việt Nam đã cấp giấy phép thành lập Trường Đại học Fulbright Việt
Nam, tiền thân là Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright và được Bộ
Ngoại giao Mỹ tài trợ một phần. Trường Đại học Fulbright sẽ áp dụng chương
trình đào tạo của Mỹ và có mức độ tự chủ cao hơn các trường đại học khác
trong nước.
Thiết lập, mở rộng về hợp tác quân sự
Trong chuyến thăm đầu tiên của mình tới Mỹ hồi tháng 3 năm 2015, Bộ
trưởng Công an Trần Đại Quang đã khẳng định Việt Nam sẽ cho phép Đội
hịa bình Mỹ được hoạt động trong nước. Cuối cùng nhưng không kém phần
quan trọng, theo nhiều nhà quan sát, chỉ dấu quan trọng nhất cho sự tin tưởng
ngày một sâu sắc giữa hai nước là việc mở rộng và thắt chặt hợp tác quân sự.
Mức độ tin cậy lẫn nhau được tăng cường là kết quả của những nỗ lực
của cả hai bên, đặc biệt là cam kết của Mỹ sẽ ln tơn trọng lợi ích chính trị
trong nước của ĐCSVN. Điều này được thể hiện trong Tuyên bố chung về
việc thiết lập quan hệ đối tác toàn diện giữa Tổng thống Barack Obama và
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2013, hai bên đã nhấn mạnh rằng họ sẽ
tơn trọng “hệ thống chính trị của nhau”. Cam kết tương tự cũng được nhắc lại


11

trong Tuyên bố Tầm nhìn chung trong chuyến thăm Washington của Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng.
* Chính sách đối ngoại với Trung Quốc dựa trên nguyên tắc bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc
Sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, sự kiện xây dựng ồ
ạt đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Quần đảo Trường Sa ngay sau cuộc khủng
hoảng tàu Hải Dương 981, đường lối ngoại giao với Trung Quốc dựa trên
nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc chứ dựa vào ý thức hệ đang quyết
định q trình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm
“Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển."*
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan
hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh
thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và
khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức
quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế
và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ
động đàm phán và ký kết với Trung Quốc và nhiều nước trong, ngồi khu vực
những khn khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều
Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết như Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định
về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc,.. Các mối
quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần khơng nhỏ vào việc
khơng ngừng củng cố mơi trường hồ bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc
tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.



12

PHẦN KẾT LUẬN.
Có thể thấy, những động lực trong quan hệ Việt-Mỹ-Trung cũng phản
ánh những dòng chảy chủ chốt trong địa chính trị khu vực, đáng chú ý nhất là
sự (tái) điều chỉnh chiến lược của các nước trong khu vực để đối phó với sự
trỗi dậy của Trung Quốc, và sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, đặc
biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đối ngoại
của các quốc gia. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Do vậy, việc
điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam một cách phù hợp là yếu tố vô
cùng quan trọng cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước trong bối cảnh
thế giới có nhiều biến động. Đặc biệt là sự trỗi dây của Trung Quốc trên thế
giới hiện nay. Trong đó, sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam với hai


13
cường quốc vẫn tiếp tục là một sự biến đổi từ từ, chứ không phải là một sự
chuyển dịch mạnh. Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta không thể công bố thực
hiện chính sách thân Mỹ, hay thân Trung Quốc, cũng khơng thể tun bố
trung lập mà phải định chính sách ngoại giao thật linh hoạt để có thể tận dụng
được thời cơ trong sự cạnh tranh của các nước lớn và tận dụng được các thế
mạnh của mình. Đồng thời, phải tìm cách tăng cường quan hệ với các nước
lớn khác trong khu vực, đặc biệt là Nhật Bản, Ấn Độ, và các đối tác ASEAN
có cùng lợi ích.

Tài liệu tham khảo
1. Van kien dai hoi dai bieu toan quoc thoi ky doi moi [Documents of
National Congresses in the Era of Doi Moi] (Vol. 1). Ha Noi: National
Political Publishing House.
2. General Department of Customs. (2014). Customs Trade Statistics.

Retrieved 27 Jun .
3. Các bải giảng của thầy cô Viện Quan hệ Quốc tế.



×