Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Luận văn: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn hiện nay" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.08 KB, 66 trang )


Trang 1



Luận văn
Đề tài: "Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện và phát triển các công ty
chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn
hiện nay"

Trang 2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 7
1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán. 7
1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán. 7
1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán. 8
1.1.3. Các thành viên của thị trường chứng khoán. 8
1.2. Công ty chứng khoán. 9
1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. 9
1.2.1.1. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán. 9
1.2.1.2. Những nét đặc trưng trong tổ chức của các công ty chứng khoán. 10
1.2.2 Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. 11
1.2.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. 12
1.2.3.1. Nghiệp vụ môi giới 13
1.2.3.2 Nghiệp vụ bảo lãnh. 16
1.2.3.3 Nghiệp vụ tự doanh. 19
1.2.3.4. Các nghiệp vụ phụ trợ. 20
1.2.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán. 22


1.2.4.1. Nguyên tắc đạo đức. 22
1.2.4.2. Nguyên tắc tài chính. 23
1.2.5. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán. 25
1.3. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới. 26
1.3.1. Mô hình Mỹ. 27
1.3.2. Mô hình Nhật. 27
1.3.3. Mô hình Đức. 29
1.3.4. Mô hình tại một số nước Châu Á điển hình. 29
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 31
2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán. 31
2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán. 31

Trang 3
2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán. 32
2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam 34
2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán 35
2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. 35
2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng, công ty
bảo hiểm và tổng công ty. 36
2.3.3. Chế độ quản lý. 37
2.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán. 37
2.4.1. Phòng giao dịch (Phòng kinh doanh): 38
2.4.2. Phòng Tài chính- Kế toán: 38
2.4.3. Phòng Marketing: 39
2.4.4. Phòng quản trị hành chính-tổng hợp: Có nhiệm vụ: 39
2.4.5. Phòng đăng ký, lưu ký và lưu trữ thông tin: 39
2.5. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. 39
2.5.1. Hoạt động của TTGDCK. 40
2.5.1.1. Giao dịch chứng khoán 40

2.5.1.2. Tình hình giá giao dịch chứng khoán. 41
2.5.1.3. Hoạt động lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. 42
2.5.2. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của các công ty chứng
khoán. 44
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG
TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 46
3.1. Mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới. 46
3.2. Các giải pháp hoàn thiện công ty chứng khoán. 48
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện mô hình công ty chứng khoán. 48
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nguồn nhân lực trong các công ty chứng khoán. . 49
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tin học cho các công ty chứng khoán. 51
3.3. Các giải pháp nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán. . 54
3.3.1. Giải pháp tạo hành lang pháp lý cho các công ty chứng khoán. 54
3.3.2. Giải pháp tăng cường việc quản lý, thanh tra, giám sát các công ty
chứng khoán. 56

Trang 4
3.3.2.1. Tăng cường công tác giám sát tài chính và quản lí rủi ro đối với
công ty chứng khoán. 56
3.3.2.2. Quy định về việc trích lập quỹ dự phòng vốn điều lệ 58
3.3.2.3. Quy định về bảo vệ lợi ích các nhà đầu tư. 59
3.3.2.4. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin. 60
3.3.2.5. Cần hạn chế một số hoạt động kinh doanh chứng khoán ở thị
trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu hoạt động. 60
3.3.3. Giải pháp tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. 62
KẾT LUẬN. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
MỤC LỤC 2

Trang 5

MỞ ĐẦU
Nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồ,
nhất là vốn dài hạn, mà trong giai đoạn hiện nay, thị trường tài chính mới chỉ đáp
ứng được một phần nhỏ nhu cầu về vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.
Xuất phát từ đòi hỏi ấy, thị trường chứng khoán, với tư cách là kênh huy vốn
quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành một nhu cầu cấp thiết,
khách quan trong điều kiện hiện nay.
Tuy nhiên thị trường chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả cần phải có hàng
hoá cho nó (cổ phiếu, trái phiếu ) và đồng thời phải có các công ty chứng khoán
chuyên mua bán, giao dịch các loại hàng hoá đó.
Công ty chứng khoán sẽ là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng
khoán mà một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn lẻ tẻ trong
công chúng tập hợp lại.
Như vậy, sự ra đời của các công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay là một
nhu cầu khách quan. Tuy nhiên để nó đi vào hoạt động có hiệu quả cần tiếp tục có
những điều chỉnh hợp lý.
Đề xuất: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng
khoán ở Việt Nam giai đoạn hiện nay" sẽ đưa ra những kiến nghị góp phần vào
việc hoàn thiện các công ty chứng khoán và những giải pháp thúc đẩy hình thành
các công ty chứng khoán. Đề tài nghiên cứu những lí luận cơ bản về công ty chứng
khoán từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện công ty chứng khoán về cơ cấu tổ
chức; đội ngũ cán bộ, nhân viên; mô hình công ty; hệ thống tin học trong các công
ty chứng khoán, đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng và
phát triển các công ty chứng khoán.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Vai trò của công ty chứng khoán với hoạt động của thị trường
chứng khoán.

Trang 6

Chương II: Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam
hiện nay.
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở
Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo Th.s
Đặng Ngọc Đức và cán bộ, công nhân viên Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán -
UBCKNN đã giúp em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Do hạn chế về lý luận, kinh nghiệm thực tế, điều kiện nghiên cứu nên bài viết
này của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cô, cán bộ,
nhân viên Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán - UBCKNN và tất cả các bạn đọc
để các bài viết sau của em được tốt hơn.

Hà Nội, tháng 5 năm 2003
Sinh viên TH: Lê Thanh Thái

Trang 7

CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI HOẠT
ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán.
1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính,
hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập
trung thành những nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế và Nhà nước để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án
đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và
các giấy ghi nợ trung hoặc dài hạn thường từ 01 năm trở lên. Công cụ trao đổi trên
thị trường chứng khoán rất phong phú. Vậy thị trường chứng khoán là nơi mua bán
các chứng khoán đã được phát hành và đang lưu hành trên thị trường.

Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau:
Quan điểm một cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán là khác
nhau vì công cụ của thị trường chứng khoán ngoài các chứng khoán dài hạn còn có
các giấy ghi nợ ngắn hạn (các tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn 03 tháng
hoặc 06 tháng).
Quan điểm thứ hai cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán chỉ là
các tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: thị trường tư bản.
Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường chứng
khoán được quan niệm là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều kiện, là
nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn giữa
những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng
khoán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau, nhưng nhìn
chung một thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi các hoạt động cơ bản sau.

Trang 8
1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán.
Trên thị trường chứng khoán các hoạt động giao dịch chứng khoán được thực
hiện . Xét về mặt hình thức, các hoạt động trao đổi mua bán chuyển nhượng các
chứng khoán là việc thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán; xét về thực chất
đây chính là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ, tức là quá trình chuyển
từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Các quan hệ mua bán các chứng khoán
trên thị trường chứng khoán phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng
khoán.
Xét về nội dung, thị trường vốn thể hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá
trình mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là
hình thức giao dịch vốn cụ thể. Các thị trường này không thể phân biệt, tách rời
nhau mà nó là thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài
của thị trường tư bản.
Do đó hoạt động của thị trường chứng khoán (xét về bản chất) phản ánh quan hệ

trao đổi mua bán quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn, tiền mặt. Các hoạt động
này được thực hiện thông qua các thành viên trên thị trường chứng khoán.
1.1.3. Các thành viên của thị trường chứng khoán.
- Người đầu tư chứng khoán: Là những người mua bán chứng khoán gồm có:
các doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và lực lượng rộng rãi nhất
là tầng lớp dân chúng đầu tư vào.
- Người kinh doanh chứng khoán: Là người được pháp luật cho phép thực hiện
các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, bao gồm môi giới chứng khoán (nhận mua
hộ và bán hộ để hưởng hoa hồng), bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, mua và bán chứng khoán cho chính
mình để hưởng chênh lệch giá.
- Người tổ chức thị trường: Là người tạo ra địa điểm và phương tiện để phục vụ
cho việc mua bán chứng khoán hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán.
- Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán: Tức là
Nhà nước, người bảo đảm cho thị trường hoạt động theo đúng các quy định của

Trang 9
pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư, bảo đảm việc mua bán chứng
khoán được công bằng, công khai, tránh những tình trạng tiêu cực có thể xảy ra.
Ngoài các đối tượng trên ra, còn có các đối tượng tương hỗ quan trọng khác
như: Các tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán, tổ chức dịch vụ sang
tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán, trung tâm đào tạo người hành nghề
chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Trong các đối tượng đó thì người kinh doanh chứng khoán (trong đó có các
công ty chứng khoán) giữ vai trò quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán
hoạt động ổn định và có hiệu quả.
1.2. Công ty chứng khoán.
1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.
1.2.1.1. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Vì công ty chứng khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề

xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó có nhiều điểm khác nhau ở các nước.
Mỗi nước đều có một mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán riêng, phù hợp với
đặc điểm của hệ thống tài chính và tuỳ thuộc vào sự cân nhắc lợi hại của những
người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ta có thể khái quát lên ba mô
hình cơ bản hiện nay là: mô hình công ty chứng khoán ngân hàng hay mô hình
ngân hàng đa năng (bao gồm: Ngân hàng đa năng toàn phần, Ngân hàng đa năng
một phần) và công ty chuyên doanh chứng khoán.
Trong mô hình ngân hàng đa năng toàn phần, một ngân hàng có thể tham gia tất
cả các hoạt động kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm mà không cần thông
qua những pháp nhân riêng biệt.
Khác với mô hình trên, trong mô hình ngân hàng đa năng một phần, một ngân
hàng muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua công ty
con là pháp nhân riêng biệt.

Trang 10
Với mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán, hoạt động kinh doanh chứng
khoán sẽ do công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm
nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
1.2.1.2. Những nét đặc trưng trong tổ chức của các công ty chứng khoán.
Do công ty chứng khoán là một hình thức định chế đặc biệt, có hoạt động
nghiệp vụ đặc thù nên về mặt tổ chức nó có nhiều điểm khác biệt so với các công
ty thông thường. Các công ty chứng khoán ở các nước khác nhau, thậm chí trong
cùng một quốc gia cũng có tổ chức rất khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc
của mỗi công ty và mức độ phát triển của thị trường. Tuy vậy, chúng vẫn có một
số đặc trưng cơ bản:
a. Chuyên môn hoá và phân cấp quản lí.
Công ty chứng khoán có trình độ chuyên môn hoá rất cao ở từng phòng ban, bộ
phận, đơn vị kinh doanh nhỏ.
Do chuyên môn hoá cao nên các bộ phận có quyền tự quyết.
Một số bộ phận trong công ty có thể không phụ thuộc lẫn nhau (chẳng hạn bộ

phận môi giới và tự doanh hay bảo lãnh phát hành )
b. Nhân tố con người.
Trong công ty chứng khoán, quan hệ với khác hàng giữ vai trò rất quan trọng,
đòi hỏi nhân tố con người phải luôn được quan tâm, chú trọng.
Khác với các công ty sản xuất, ở công ty chứng khoán việc thăng tiến cất nhắc
lên vị trí cao hơn nhiều khi không quan trọng. Các chức vụ quản lí hay giám đốc
của công ty nhiều khi có thể nhận được ít thù lao hơn so với một số nhân viên cấp
dưới.
c. Ảnh hưởng của thị trường tài chính.
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh
hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng khoán.
Thị trường chứng khoán càng phát triển thì công cụ tài chính càng đa dạng, hàng

Trang 11
hoá dịch vụ phong phú, qua đó công ty chứng khoán có thể mở rộng hoạt động thu
nhiều lợi nhuận.
Với các trình độ phát triển khác nhau của thị trường, các công ty chứng khoán
phải có cơ cấu tổ chức đặc thù để đáp ứng những nhu cầu riêng. Thị trường càng
phát triển thì cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán càng phức tạp (chẳng hạn
Mỹ, Nhật ). Trong khi đó, thị trường chứng khoán mới hình thành thì cơ cấu tổ
chức của công ty chứng khoán giản đơn hơn nhiều (như Đông Âu, Trung Quốc ).
1.2.2 Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán.
Có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản: công ty hợp danh, công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
a. Công ty hợp danh.
Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên.Thành viên tham gia vào quá
trình đưa ra các quyết định quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các thành
viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với các
khoản nợ của công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại thành
viên không tham gia vào quá trình điều hành quản lí công ty được gọi là thành viên

góp vốn. Họ chỉ chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ của công ty trong giới
hạn góp vốn của mình.
Thông thường khả năng huy động vốn góp của công ty hợp danh không lớn, nó
chỉ giới hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
b. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đây là công ty chỉ đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên đối với các khoản nợ
của công ty trong giới hạn số vốn góp của họ, do đó gây tâm lí nhẹ nhàng hơn đối
với các nhà đầu tư.
Về phương diện huy động vốn, nó đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp
danh. Đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lí cũng năng động hơn, không bị bó
hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.

Trang 12
Nhờ những ưu thế đó, hiện nay rất nhiều công ty chứng khoán hoạt động dưới
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
c. Công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ đông.
Đại hội cổ đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các
chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để
điều hành công ty.
Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện món nợ của công ty, mà thể hiện
quyền lợi của chủ sở hữu đối với các tài sản của công ty.
* Ưu điểm của công ty cổ phần:
+ Nó tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông hoặc cổ đông
nghỉ hưu hay qua đời.
+ Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được giới hạn ở mức nhất định.
Nếu công ty thua lỗ, phá sản, cổ đông chỉ chịu thiệt hại ở mức vốn đã đóng góp.
+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu.
+ Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ
phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn phí.

+ Hình thức tổ chức quản lí, chế độ báo cáo và thông tin tốt hơn hai loại hình
hợp danh và trách nhiệm hữu hạn.
Do những ưu điểm này, ngày nay chủ yếu các công ty chứng khoán tồn tại dưới
hình thức công ty cổ phần thậm chí một số nước (như Hàn Quốc) còn bắt buộc các
công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần.
1.2.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán có thể là những công ty chuyên kinh doanh một dịch
vụ như công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ chuyên thực hiện bảo lãnh phát
hành hoặc là những công ty đa dịch vụ, hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán. Nhìn chung có ba nghiệp vụ kinh doanh chính là:

Trang 13
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
- Nghiệp vụ tự doanh.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Ngày nay, do thị trường ngày càng phát triển và do nhu cầu của bản thân công
ty chứng khoán ngày càng mở rộng nên đã phát sinh nhiều nghiệp vụ như: cho vay
kí quĩ, tư vấn đầu tư, quản lí danh mục đầu tư, quản lí thu nhập chứng khoán.
Đồng thời các công ty chứng khoán ngày nay còn hoạt động trên cả lĩnh vực tiền
tệ, ngân hàng, bảo hiểm.
1.2.3.1. Nghiệp vụ môi giới
Bản chất nghiệp vụ.
Công ty chứng khoán tiến hành nghiệp vụ môi giới sẽ đại diện cho khách hàng
tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hoặc
thị trường OTC. Khách hàng sẽ phải chịu hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Các nhà môi giới thường gặp phải rủi ro khi khách hàng của mình hoặc nhà môi
giới giao dịch khác không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn.
Qui trình giao dịch.
Quá trình môi giới của công ty chứng khoán thường qua các bước chủ yếu thể
hiện ở sơ đồ sau:

Bước 1: Mở tài khoản (1).
Bước 2: Nhận lệnh (2).
Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh (3).
Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng (4).
Bước 5: Thanh toán và giao hàng.

Trang 14

Bước 1: Mở tài khoản.
Công ty chứng khoán yêu cầu khách hàng mở tài khoản giao dịch (tài khoản
tiền mặt hoặc tài khoản kí quĩ). Tài khoản kí quĩ dùng cho giao dịch kí quĩ còn tài
khoản giao dịch dùng cho các giao dịch thông thường.
Bước 2: Nhận đơn đặt hàng.
Khách hàng ra lệnh mua, bán cho công ty chứng khoán dưới nhiều hình thức:
Điện thoại, telex, phiếu lệnh
Nếu là lệnh bán, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu khách hàng xuất trình số
chứng khoán muốn bán trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị phải kí quĩ một
phần số chứng khoán cần bán theo một tỉ lệ do uỷ ban chứng khoán qui định.
Nếu là lệnh mua, công ty sẽ đề nghị khách hàng mức tiền kí quĩ nhất định trên
tài khoản kí quĩ của khách hàng tại công ty. Khoản tiền này thường bằng 40% trị
giá mua theo lệnh.
Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện.
Trước đây, người đại diện của công ty gửi tất cả lệnh mua, bán của khách hàng
tới bộ phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của công ty. Ở đây,
một người thư kí sẽ kiểm tra xem chứng khoán được mua bán ở thị trường nào
(tập trung, phi tập trung ). Sau đó, người thư kí sẽ gửi lệnh đến thị trường đó để
thực hiện.
Ngày nay, các công ty chứng khoán có mạng lưới thông tin trực tiếp từ trụ sở
chính tới phòng giao dịch. Do vậy, các lệnh mua, bán được chuyển trực tiếp tới
Khách hàng

Công ty chứng khoán

(4)

(1)

(2)

(3)
(5)


Trang 15
phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán mà không cần chuyển qua phòng
thực hiện lệnh.
Bước 4: Xác nhận cho khách hàng.
Sau khi thực hiện lệnh xong, công ty chứng khoán sẽ gửi cho khách hàng một
phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh.
Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch.
Hoạt động này bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao dịch.
Hiện nay các nước áp dụng việc đối chiếu cố định: Sở giao dịch chứng khoán sẽ
tiến hành bù trừ trên cơ sở nội dung lệnh của các công ty chứng khoán chuyển vào
hệ thống. Những sai sót của công ty chứng khoán sẽ do công ty chứng khoán tự
sửa chữa.
Việc bù trừ các kết quả giao dịch kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh
toán. Chứng từ này được gửi cho công ty chứng khoán. Nó là cơ sở để thực hiện
thanh toán và giao chứng khoán.
Bước 6: Thanh toán và giao hàng.
Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền thông qua ngân hàng chỉ định
thanh toán; người bán sẽ giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản tại

trung tâm lưu kí chứng khoán. Sau khi hoàn tất các thủ tục tại Sở, công ty sẽ thanh
toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua hệ thống tài khoản khách hàng
mở tại công ty chứng khoán.
Phí môi giới.
Hoạt động với tư cách là nhà đại lí nên công ty chứng khoán được hưởng hoa
hồng môi giới. Số tiền hoa hồng thường được tính phần trăm trên tổng giá trị một
giao dịch. Số tiền mua bán càng nhỏ thì số phần trăm hoa hồng càng lớn.
Một số nước hiện nay duy trì tỉ lệ hoa hồng cố định như Thái Lan, Inđônêxia,
Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Theo đó mức hoa hồng cao, thấp tuỳ thuộc vào giá
trị hợp đồng.

Trang 16
Thông thường, các công ty chứng khoán đều có chế độ hoa hồng của mình và
thỉnh thoảng lại điều chỉnh cho thích hợp. Các công ty nhỏ thường phải chờ xem
các hãng lớn cho biết tỉ suất hoa hồng rồi mới công bố tỉ suất của mình.
Thuế giao dịch chứng khoán.
Các công ty chứng khoán phải nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Doanh thu chịu thuế tuỳ thuộc vào các nghiệp vụ mà công ty tiến hành.
Đối với hoạt động môi giới, bảo lãnh, thuế được tính trên mức hoa hồng hay
chiết khấu mà công ty chứng khoán nhận được. Đối với hoạt động tự doanh thuế
được tính trên chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán. Ngoài ra, công ty
chứng khoán còn phải chịu thuế lợi tức trong trường hợp kinh doanh chứng khoán
có lãi.
Để khuyến khích mọi người mua Trái phiếu Chính phủ, các nước thường không
đánh thuế các khoản lãi nhận được từ đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ.
1.2.3.2 Nghiệp vụ bảo lãnh.
Bản chất bảo lãnh.
Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách bán
chứng khoán trên thị trường. Có ba hình thức bảo lãnh phát hành mà thế giới
thường áp dụng:

Một là, bảo lãnh chắc chắn: công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số
chứng khoán trong đợt phát hành của công ty phát hành và sau đó sẽ bán ra công
chúng. Giá mua của công ty bảo lãnh là giá đã được ấn định, thường là thấp hơn
giá thị trường. Giá bán của công ty bảo lãnh là giá thị trường. Đây là hình thức
công ty bảo lãnh hoạt động cho chính họ và sẵn sàng chịu mọi rủi ro.
Hai là, bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức mà công ty bảo lãnh phát hành hứa
sẽ cố gắng tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty phát hành.
Nếu không bán hết, công ty bảo lãnh sẽ trả lại số chứng khoán không bán được cho
công ty phát hành. Người bảo lãnh được hưởng số hoa hồng trên số chứng khoán
bán được.

Trang 17
Ba là, bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: trường hợp này được áp dụng khi
công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định. Nếu huy động được đủ
số vốn đó thì thực hiện phát hành, còn không huy động đủ thì sẽ bị huỷ bỏ. Ví dụ,
một công ty cố gắng bán toàn bộ 100.000.000$ cổ phiếu nó yêu cầu công ty chứng
khoán phải bán tối thiểu 60% giá trị của đợt phát hành, tức là công ty phải nhận
được lượng tiền bán tối thiểu là 60.000.000 $ nếu không toàn bộ đợt phát hành sẽ
bị loại bỏ.
Một số khâu quan trọng trong quy trình bảo lãnh .
+ Lập nghiệp đoàn bảo lãnh.
Khi số số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một công ty
chứng khoán thì một nghiệp đoàn bao gồm một số công ty chứng khoán và các tổ
chức tài chính sẽ được thành lập.
Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức bảo lãnh chắc chắn.
Trong nghiệp đoàn có một công ty bảo lãnh chính, thường là người khởi đầu cho
cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các giấy tờ với công ty phát hành.
Nó quyết định công ty chứng khoán nào được mời tham gia nghiệp đoàn và sẽ trả
chi phí bảo lãnh cho các công ty khác trong nghiệp đoàn.
Nhóm bán:

Để việc bán nhanh hơn, nghiệp đoàn bảo lãnh có thể tổ chức thêm một "nhóm
bán". Nhóm này bao gồm một số công ty không nằm trong nghiệp đoàn bảo lãnh,
họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không phải chịu trách nhiệm về số chứng khoán
không bán được. Do vậy, thù lao cho họ ít hơn các thành viên trong nghiệp đoàn
bảo lãnh.
+ Phân tích, định giá chứng khoán.
Định giá cho cổ phiếu rất phức tạp. Ở đây bắt gặp vấn đề nan giải: một mặt,
người phát hành cổ phiếu muốn nhận được càng nhiều tiền càng tốt từ đợt phát
hành này; mặt khác người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán được và bán
càng nhanh càng tốt. Nếu giá cao quá công chúng sẽ không mua, nếu giá thấp quá
thì giá chứng khoán sẽ mau chóng chuyển lên cao hơn ở thị trường thứ cấp và

Trang 18
người phát hành sẽ chịu thiệt. Thông thường, việc định giá cổ phiếu căn cứ vào
nhiều yếu tố: lợi nhuận của công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số lượng cổ phiếu
chào bán, tỉ lệ giá cả - lợi tức so với những công ty tương tự, tình hình thị trường
lúc chào bán
Đối với trái phiếu, việc định giá đơn giản hơn vì trên thị trường đã có sẵn lãi
suất chuẩn và yết giá của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái
phiếu tương tự.
+ Ký hợp đồng bảo lãnh.
Sau khi thành lập nghiệp đoàn và tiến hành một số công việc như phân tích định
giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán , nghiệp đoàn bảo
lãnh sẽ ký một số hợp đồng với công ty phát hành trong đó xác định:
Phương thức bảo lãnh.
Phương thức thanh toán.
Khối lượng bảo lãnh phát hành.
+ Đăng kí phát hành chứng khoán.
Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh, nghiệp đoàn bảo lãnh phải trình lên cơ quan
quản lý đơn xin đăng kí phát hành cùng một bản cáo bạch thị trường có đầy đủ chữ

kí của công ty phát hành, công ty luật, công ty bảo lãnh. Bản cáo bạch của công ty
phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng
tiền thu được từ việc phát hành nhằm giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết
định mua chứng khoán.
+ Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng kí.
Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát bản cáo bạch và phiếu
đăng kí mua chứng khoán và đợi khi đăng kí phát hành chứng khoán có hiệu lực,
công ty chứng khoán hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối chứng
khoán.
Phân phối chứng khoán ra công chúng có thể được thực hiện dưới các hình
thức:

Trang 19
Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể (như các quĩ đầu tư, quĩ bảo hiểm, quĩ
hưu trí ).
Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ
chức phát hành.
Bán ra công chúng.
+ Thanh toán
Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán
chứng khoán cho công ty phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát
hành trừ đi thù lao cho công ty bảo lãnh.
Thù lao cho công ty bảo lãnh có thể là khoản phí (đối với hình thức bảo lãnh
chắc chắn) hoặc hoa hồng (đối với các hình thức bảo lãnh khác).
Mức phí bảo lãnh tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành, tình hình thị trường
và do hai bên thoả thuận. Nếu là phát hành lần đầu thì phí bảo lãnh cao hơn lần
phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu phí và hoa hồng còn tuỳ thuộc vào lãi suất
trái phiếu (lãi suất cao sẽ dễ bán, chi phi sẽ thấp và ngược lại).
Hoa hồng: là tỉ lệ (%) cố định đối với từng loại chứng khoán nhất định. Việc
tính toán và phân bổ hoa hồng do các thành viên trong nghiệp đoàn thương lượng

với nhau.
Phí bảo lãnh: là chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và số tiền
công ty phát hành nhận được.
1.2.3.3 Nghiệp vụ tự doanh.
Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó công ty chứng khoán dùng kinh phí của
mình để mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể làm thêm nhiệm
vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó.
Nhà giao dịch chịu lãi hay lỗ tuỳ thuộc vào chênh lệch giá mua và bán chứng
khoán. Hoạt động buôn bán chứng khoán có thể là:

Trang 20
Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt lệnh mua và bán của mình trên
Sở giao dịch, lệnh của họ được xác định đối với bất kì khách hàng nào không xác
định trước.
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công
ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch
trực tiếp thường là các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường OTC.
Thông thường các công ty chứng khoán phải dành một tỉ lệ % nhất định cho
hoạt động bình ổn thị trường (ở Mỹ luật qui định là 60%). Các công ty có nghĩa vụ
mua vào (khi giá chứng khoán giảm) để giữ giá và phải bán ra khi giá chứng khoán
lên để kìm giá chứng khoán.
Ngoài các hoạt động kinh doanh chính: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành,
công ty chứng khoán còn tiến hành các nghiệp vụ phụ trợ.
1.2.3.4. Các nghiệp vụ phụ trợ.
a. Nghiệp vụ tín dụng.
Ở các thị trường phát triển thì đây là một hoạt động thông dụng. Còn ở những
thị trường chưa phát triển thì hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính
đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Một số nước còn qui định không được phép
cho vay kí quỹ.
Cho vay kí quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách

hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế
chấp cho khoản vay.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải dàn xếp với ngân hàng
và phải chịu trách nhiệm về khoản vay đó.
Trong tài khoản kí quỹ, tài sản thực của khách hàng chỉ chiếm một tỉ lệ nhất
định (50%-60% tuỳ từng nước), số còn lại là tiền vay của công ty chứng khoán.
Đến hạn, khách hàng phải trả vốn vay và lãi cho công ty chứng khoán. Nếu không
trả được nợ, công ty chứng khoán sẽ bán chứng khoán trên tài sản kí quỹ để thu
hồi khoản vay.

Trang 21
Rủi ro đối với công ty chứng khoán xảy ra khi chứng khoán thế chấp giảm giá
và giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay kí quỹ. Vì vậy, công ty chứng
khoán không nên tập trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng
khoán.
b. Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty.
Đây là việc cung cấp các thông tin về đối tượng chứng khoán, thời hạn, các vấn
đề mang tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán Nó đòi hỏi nhiều kiến
thức, chuyên môn kỹ năng và yêu cầu vốn không cao. Tính trung thực của cá nhân
hay công ty tư vấn có ý nghĩa quan trọng.
c. Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư.
Đây là một dạng tư vấn đầu tư nhưng ở mức độ cao hơn vì khách hàng uỷ thác
cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo những nguyên tắc
mà khách hàng yêu cầu. Thông thường nghiệp vụ này tuân thủ theo bốn bước cơ
bản:
Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của
nhau.
Bước 2: Công ty và khách hàng tiến hành kí hợp đồng quản lí.
Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lí. Khi có phát sinh ngoài hợp đồng, công ty
chứng khoán phải xin ý kiến của khách hàng rồi mới được phép quyết định. Công

ty chứng khoán phải tách rời hoạt động này với hoạt động môi giới và tự doanh để
tránh mâu thuẫn lợi ích.
Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng công ty phải cùng khách hàng bàn bạc,
quyết định xem gia hạn hay thanh lí hợp đồng. Khi công ty bị phá sản, tài sản uỷ
thác của khách hàng phải được tách riêng và không được dùng để trả nghĩa vụ nợ
cho công ty chứng khoán.
Khoản phí mà công ty chứng khoán nhận được dựa trên số lợi nhuận thu về cho
khách hàng.
d. Nghiệp vụ quản lí thu nhập chứng khoán (quản lí cổ tức).

Trang 22
Nghiệp vụ này xuất phát từ nghiệp vụ lưu kí chứng khoán. Công ty phải thực
hiện hoạt động theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi
báo cáo cho khách hàng. Trên thực tế, các công ty chứng khoán không trực tiếp
quản lí mà sẽ lưu kí tại trung tâm lưu giữ chứng khoán.
Ngoài các nghiệp vụ trên, công ty chứng khoán còn có thể tiến hành một số hoạt
đông khác như: cho vay chứng khoán, quản lí quỹ đầu tư, quản lí vốn, kinh doanh
bảo hiểm
Vì là một định chế tài chính đặc biệt nên công ty chứng khoán phải tuân thủ một
số nguyên tắc nhất định.
1.2.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán.
1.2.4.1. Nguyên tắc đạo đức.
Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi ích
công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước qui
định rất chặt chẽ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn chung có một
số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ
thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
+ Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được
tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào.

+ Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài
chính để kinh doanh.
+ Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách
hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách hàng
làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
+ Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho
khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy.
+ Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các
khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình.

Trang 23
+ Ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà đầu tư
chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công ty chứng
khoán bị mất khả năng thanh toán.
+ Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị trường;
cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích cực bề ngoài";
cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán; cấm
giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng khoán cho chính mình
làm thiệt hại tới khách hàng.
1.2.4.2. Nguyên tắc tài chính.
a. Vốn.
Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn chung,
số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân
đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty.
b. Cơ cấu vốn: Nợ và Có.
Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các thành
viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc huy
động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông, thông qua hệ
thống ngân hàng, thị trường vốn.
Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của công ty chứng khoán có các đặc điểm

chung:
 Các công ty phụ thuộc khá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn.
 Các chứng khoán đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường chiếm phần lớn
tổng giá trị tài sản của công ty chứng khoán (40%-60%).
 Ở các nước đang phát triển, thông thường các công ty chứng khoán không
được vay vốn của nước ngoài trong khi ở những nước phát triển điều này được
phép thực hiện.
 Tỉ lệ nợ tuỳ thuộc vào công ty chứng khoán nhưng phải tuân theo qui định
của các cấp quản lí.

Trang 24
c. Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh.
* Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một mức
vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán.
* Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự
doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các công
ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù đắp các
khoản lỗ kinh doanh trong năm đó.
* Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ phần
trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ
phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong
tương lai.
* Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau
tuỳ từng quốc gia. Thông thường nó tuân theo một số qui định sau:
Hạn chế mua sắm tài sản cố định theo tỉ lệ % trên vốn điều lệ.
Đặt ra hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán.
Qui định hạn mức đầu tư vào một số tài sản rủi ro cao.
d. Chế độ báo cáo.
Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này, theo
qui định một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan quản lý

tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo cáo tài chính
thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán.
- Báo cáo lỗ lãi.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Ngoài báo cáo thường niên, công ty chứng khoán phải gửi một báo cáo quản lý
toàn diện về tình hình tài chính theo quý như quy định của Uỷ ban chứng khoán.

Trang 25
Ngoài ra công ty phải gửi báo cáo hàng tháng cho tổ chức tự quản có thẩm
quyền để kiểm tra tình hình tài chính và việc tuân thủ các trách nhiệm tài chính.
Nếu công ty chứng khoán không đáp ứng được một số tiêu chuẩn kinh doanh và
tài chính thì có thể phải gửi nhiều báo cáo hơn (báo cáo tuần).
1.2.5. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán.
Hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhiều tới lợi ích của công
chúng nên nó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nhìn chung, qui định về
điều kiện thành lập, cấp phép hoạt động cho công ty chứng khoán được thể hiện ở
hai khía cạnh sau:
Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn
pháp định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ. Một công
ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về vốn càng
nhiều. Mức vốn qui định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều.
Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành đòi hỏi mức vốn pháp
định tương đối cao.
Điều kiện nhân sự: Những người quản lí hay nhân viên của công ty chứng
khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các
nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Muốn có giấy
phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số qui định như tuổi tác, trình độ học vấn,
lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến thức chuyên môn chứng khoán. Những
người nắm giữ các chức năng quản lí trong công ty chứng khoán phải có giấy phép

đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại diện cao hơn so với giấy phép hành
nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm công tác.
Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán cần chú ý tới tính điều kiện và
tính đương nhiên. Tính điều kiện có nghĩa là giấy phép thực hiện hoạt động này có
thể lại chính là điều kiện xin cấp giấy phép hoạt động kia. Chẳng hạn muốn thực
hiện hoạt động bảo lãnh thì bắt buộc phải có giấy phép hoạt động tự doanh. Tính
đương nhiên có nghĩa là được thực hiện hoạt động này thì đương nhiên thực hiện

×