Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch lớp CCLLCT môn van hoa và phát triển vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.6 KB, 14 trang )

1

Vai trị của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
ở việt nam hiện nay
MỞ ĐẦU
Hơn ba mươi năm qua, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã giành được
nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có nhiều thành tựu về phát
triển văn hóa. Văn hóa là sự kết tinh và phản ánh sinh động mọi mặt của cuộc
sống, là sự kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn hóa là linh hồn, là động
lực sáng tạo vô bờ của dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội. Tìm hiểu, xây
dựng và phát triển văn hóa có vai trị thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh
sức mạnh kinh tế cần có sức mạnh văn hóa.
Nhận thức rõ vai trị, vị trí của văn hóa, Đảng ta đã khẳng định: văn hóa
là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, đồng thời, cũng đặt ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thế giới ngày nay đang vận động rất nhanh,
khoa học - kỹ thuật phát triển rất mạnh mẽ, kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế luôn đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới cho xây dựng văn hóa, tạo
ra nhiều cơ hội nhưng cũng có khơng ít khó khăn, thách thức cho phát triển
văn hóa. Cùng với kinh tế phát triển, vị trí, vai trị của văn hóa ngày càng nổi
trội hơn, địi hỏi chúng ta cần phải có cái nhìn sâu sắc, am tường về bản chất
của văn hóa, vai trị động lực của văn hóa, để từ đó xây dựng một mơ hình
phát triển hồn chỉnh, khắc phục những mơ hình phát triển thiên lệch, chỉ chú
trọng kinh tế, tuyệt đối hóa kỹ thuật, phá vỡ sự cân bằng sinh thái và cạn kiệt
tài nguyên. Tiến tới xây dựng mơ hình phát triển hài hịa và bền vững.


2

Làm được điều này chính là huy động tối đa năng lực văn hóa tiềm ẩn


trong con người - dân tộc Việt Nam để xây dựng đất nước Việt Nam ngày một
giàu mạnh.


3

NỘI DUNG
I. VAI TRỊ CỦA VĂN HỐ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm văn hóa
Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có, sự phát triển khơng
phải chỉ là lao động, vốn kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà còn là tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này lại nằm trong
văn hoá, nghĩa là trong sự hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu,
trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái
niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp
và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian…
Theo nghĩa rộng, văn hoá được hiểu là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần của hoạt động người trong các quan hệ với môi trường thiên nhiên
và môi trường xã hội được lưu giữ, truyền thụ, tiếp biến từ thế hệ này sang thế
hệ khác nhằm duy trì và phát triển cuộc sống của cộng đồng, hướng đến cái
đúng, cái tốt, cái đẹp.
1.2. Vị trí của văn hóa trong tiến trình cách mạng Việt Nam
Phát triển kinh tế, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh cần có nhiều
yếu tố trong đó phải kể đến văn hóa như là một động lực để thúc đẩy sự phát
triển được lâu dài. Chất lượng phát triển xã hội nếu chỉ được đo bằng các chỉ



4

số kinh tế, các điều kiện về vật chất và trình độ kỹ thuật thì đó sẽ là một sự
phiến diện, không bảo đảm sự tiến bộ của con người sẽ dần đưa xã hội đến bế
tắc, khủng hoảng. Một xã hội phát triển đúng nghĩa phải là một xã hội vì sự
tiến bộ và phát triển, hồn thiện con người - xã hội nhân văn thực chất là xã
hội văn hóa. Tồn bộ sự phấn đấu, hy sinh và cống hiến sức lực của con người
là nhằm xây dựng một xã hội văn hóa, đồng thời vươn tới những giá trị văn
hóa cao đẹp do con người đề ra.
Nhận thức sâu sắc bản chất và vai trò của văn hóa trong phát triển và
tiến bộ xã hội, ngay từ những năm 1943 Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến vai trị của văn hóa trong xây dựng
nền văn hóa mới Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay được Đảng
ta gắn liền với vai trò to lớn của văn hóa. Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta
khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vì thế chúng ta cần phải nỗ lực
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là điều kiện cho sự thực hiện
lý tưởng cao đẹp của dân tộc ta là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh,
văn minh, con người được ấm no, hạnh phúc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã kế thừa và phát huy
những tinh hoa lý luận về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà
nước khi chủ trương : Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát
triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân


5


chủ, cơng bằng, văn minh, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội. Như vậy cùng với các nguồn lực kinh tế, tài nguyên thiên
nhiên, quốc phịng - an ninh,... nguồn lực văn hóa cũng đang ngày càng đóng
vai trị quan trọng, chi phối, ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến sự phát triển
của đất nước.
1.3. Vai trị của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội
Hiện nay, trước xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các quốc gia
muốn phát triển bền vững cần phải đạt được sự hài hịa giữa tăng trưởng kinh
tế, xây dựng văn hóa. Văn hóa bao gồm tất cả mọi hoạt động thực tiễn của
con người để hình thành, phát triển xã hội. Trong xã hội lồi người, văn hóa ra
đời, phát triển, thay đổi theo lịch sử, địa lý tạo nên những nét đặc trưng văn
hóa của một cộng đồng, khu vực. Con người đã tạo ra thiên nhiên thứ hai cho
mình là văn hóa.. Văn hóa là hành trang của mỗi người, dân tộc, quốc gia, khu
vực, con người luôn luôn không ngừng tạo ra các giá trị văn hóa, biến đổi văn
hóa phù hợp với từng hồn cảnh, từng thời đại để phát triển xã hội. Trong thời
kỳ hiện tại, những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin trên thế giới, sự ra
đời của các nền kinh tế kỹ trị, kinh tế tri thức, sự phát triển mất cân bằng,
thiếu hài hòa càng làm cho thế giới của chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bao
giờ hết vai trị, vị trí của văn hóa trong mọi hoạt động sáng tạo của con người
ở phạm vi dân tộc, quốc gia, khu vực, thế giới. Điều đó được thể hiện
qua thập kỷ văn hóa do UNESCO phát động, đồng thời khẳng định rằng trong
một xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào, văn hóa, phát
triển là hai mặt gắn liền với nhau. Từ nay trở đi văn hóa cần coi mình là người
cổ xúy trực tiếp cho phát triển, ngược lại phát triển cần phải thừa nhận văn
hóa đứng ở vị trí trung tâm, có vai trị điều tiết xã hội.


6


Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh: trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý
đến cùng, phải coi trọng ngang nhau, đó là chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển hài hịa giữa kinh tế, văn hóa chính là
mấu chốt của chiến lược phát triển bền vững. Kinh tế chính là cơ sở, điều kiện
cho sự hình thành, phát triển văn hóa. Đảng ta ln ln khẳng định phát triển
kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, gắn với tiến bộ, cơng bằng xã hội, là
yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Như vậy, xuyên suốt các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trị của văn
hóa trong sự nghiệp cách mạng đều thể hiện trực tiếp hay gián tiếp vai trị của
phát triển văn hóa trong mối quan hệ với phát triển kinh tế.
Văn hóa, kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa có mối quan hệ biện chứng.
Kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn hóa. Theo Hồ
Chí Minh, kinh tế khơng độc lập với văn hóa mà có mối quan hệ biện chứng
với nhau, kinh tế cũng chính là một lĩnh vực của văn hóa. Quan điểm này thể
hiện tầm chiến lược thiên tài của Hồ Chí Minh trong việc xác định những tiêu
chí cơ bản nhằm định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam trong tương lai.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là một lĩnh vực riêng trong tương quan với các lĩnh
vực khác như kinh tế, chính trị, xã hội, mơi trường. Theo nghĩa rộng, văn hóa
là nhân hóa hoạt động của con người, đánh dấu sự vượt lên của con người đối
với trạng thái tự nhiên. Theo cách hiểu này, mọi hoạt động của con người đều
là hoạt động văn hóa kể cả các hoạt động kinh tế, chính trị. Theo đó, văn hóa
trong phát triển kinh tế, xã hội được gọi là sức mạnh mềm, lực nâng đỡ, lực
hội tụ. Thực tiễn ngày càng cho thấy văn hóa khơng thể đứng ngoài sự phát


7


triển mà phải hài hòa trong mối quan hệ với kinh tế, chính trị. Văn hóa khơng
chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế, văn
hóa phát triển đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội.
Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh, nền tảng
tinh thần của một dân tộc, đóng vai trị to lớn thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói riêng, của cả dân tộc nói chung. Văn hóa phát triển là cơ sở cho
phát triển kinh tế một cách bền vững, tồn diện.
Văn hóa, tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ đa chiều, mật thiết với
nhau, cùng phát huy nhiều năng lực khác nhau. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của con người, xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần. Văn hóa phát
triển thơng qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con
người về trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân, cộng
đồng, sẽ là điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định.
Văn hóa là mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, nền tảng tinh thần xã
hội.
Theo quan điểm của Đảng, mục đích của phát triển kinh tế, xã hội là
nhằm phục vụ công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cơng cuộc cách mạng
giải phóng con người. Mục tiêu cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là: xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, những kết quả, giá trị to lớn
nhất của văn hóa. Văn hóa là mục tiêu của kinh tế, phát triển kinh tế để phát
triển con người. Văn hóa đóng vai trị là mục tiêu trước mắt, lâu dài của sự
phát triển kinh tế. Như vậy, phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng


8

một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người
được hạnh phúc, phát triển toàn diện.
Văn hóa là nền tảng tinh thần bởi văn hóa có chức năng định hình các

giá trị, những chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi của mỗi
người, toàn xã hội. Các giá trị, chuẩn mực đó được chắt lọc, lưu giữ, phát
triển trong tiến trình lịch sử, trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một
dân tộc như chính trị, đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học, nghệ thuật, các
thể chế, thiết chế văn hóa, tập quán, lối sống..., tạo nên cái cốt, cái hồn, bản
sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng văn hóa không chỉ là động
lực của phát triển kinh tế, xã hội mà còn là động lực phát triển đối với một
quốc gia, dân tộc. Thông qua mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội để đặt ra
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế. Mọi kế hoạch phát triển kinh tế đều
phải hướng đến mục tiêu cao nhất, đảm bảo yêu cầu cơ bản nhất là bảo vệ con
người, phục vụ con người, vì chính lợi ích của con người, nâng cao chất
lượng cuộc sống con người.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG Q TRÌNH PHÁT
TRIỂN VĂN HỐ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển văn hóa
Phát triển văn hóa trong kinh tế thị trường không những thể hiện nhận
thức đúng về tác dụng tích cực của kinh tế thị trường mà cịn thấy rõ vai trị
của văn hóa trong việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của


9

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở tầm hoạch định
chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nguồn lực văn hóa, mà
sâu xa và quan trọng nhất là nguồn lực con người, là chất lượng nguồn nhân
lực bao gồm cả thể lực, trí tuệ và đạo đức. Thực tiễn phát triển văn hóa trong

kinh tế thị trường cho thấy tính tích cực của thị trường đối với sự phát triển
của văn hóa. Thị trường góp phần mở rộng trao đổi, quảng bá các sản phẩm
văn hóa và dịch vụ văn hóa một cách năng động, phục vụ nhu cầu ngày càng
đa dạng của xã hội. Góp phần dân chủ hóa trong hưởng thụ văn hóa, phân bổ
nguồn lực, kích thích và đa dạng hóa tài năng trong sáng tạo, sản xuất, truyền
bá, tiếp nhận các sản phẩm văn hóa, tạo điều kiện, cơ hội để huy động nhiều
nguồn lực để phát triển văn hóa - xã hội.
Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường tác động vào văn hóa cũng rất
rõ. Đó là sự phân hóa về cơ hội và điều kiện sáng tạo, sản xuất, truyền bá các
giá trị văn hóa thơng qua phương tiện chuyển tải của nó. Tình trạng xuất hiện
ngày càng nhiều sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa chất lượng thấp tác động
tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội, ảnh hưởng xấu đến thị hiếu
thẩm mỹ của một bộ phận dân chúng, đe dọa việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, các giá trị đạo đức truyền thống, thẩm mỹ, nghệ thuật
của dân tộc.
Nhận thức sâu sắc những mặt tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế
thị trường đối với văn hóa, Đảng ta đã xác định phải đặc biệt chú trọng nắm
vững và giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội. Đó là q trình phát triển văn hóa để
tạo ra sức mạnh nội sinh và mơi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế và
đồng thời kinh tế phát triển là điều kiện cho sự phát triển văn hóa. Vì vậy,
cần phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách văn hóa trong kinh tế và chính


10

sách kinh tế trong văn hóa để tạo nên sự phát triển hài hịa giữa văn hóa
với kinh tế.
Trong gần 30 năm đổi mới và phát triển, lĩnh vực văn hóa đã có sự tiến
bộ trên nhiều mặt, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thơng tin, khoa học - giáo

dục ngày càng mở rộng, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa từng bước đi vào
chiều sâu. Di sản văn hóa dân tộc được bảo vệ và phát huy, các giá trị văn hóa
mới được hình thành và phát triển, giao lưu văn hóa được mở rộng. Tuy
nhiên, trên lĩnh vực văn hóa cịn nhiều bất cập. Văn hóa phát triển chưa tương
xứng và chưa đồng bộ với tăng trưởng kinh tế. Công tác xây dựng văn hóa
trong Đảng và cơ quan nhà nước cịn nhiều hạn chế. Quản lý văn hóa, văn
nghệ, báo chí, xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hóa bị ơ nhiễm,
văn hóa mạng diễn biến phức tạp. Việc gắn kết giữa văn hóa với kinh tế, kinh
tế với văn hóa cịn hạn chế. Tình trạng suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong xã hội có xu hướng gia tăng.
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay là tập
trung xây dựng con người và mơi trường văn hóa lành mạnh, bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc, nâng cao văn hóa trong lãnh đạo và quản lý đất nước,
gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; tạo môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo văn học, khoa
học, nghệ thuật; xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý văn hóa trong cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; nâng cao sức
mạnh của văn hóa Việt Nam trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm pháp huy vai trị của văn hóa trong
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay


11

Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đẩy mạnh phát triển xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, muốn nâng cao chất lượng sống của
nhân dân cần sử dụng và tận dụng phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa với
tư cách là mục tiêu và động lực phát triển, tiến bộ xã hội - con người. Muốn
vậy, thì ngồi quan niệm đúng, chủ trương đúng, phải có thể chế, chính sách,

đặt biệt là phải có cơ chế để đưa đường lối văn hóa vào cuộc sống hằng ngày
trên mọi lĩnh vực hoạt động sống của con người và xã hội.
Trong thời gian tới có thể và cần thiết sử dụng đồng bộ một số giải
pháp phát triển văn hóa:
Nâng cao chất lượng cuộc vận động giáo dục lòng yêu nước gắn với
phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” và cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Tiếp tục xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện tốt luật pháp và các
chính sách văn hóa. Tăng cường sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và
phương tiện hoạt động văn hóa. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
Đầu tư xây dựng con người và mơi trường văn hóa lành mạnh. Xây
dựng con người tồn diện, có đủ phẩm chất (tư tưởng, đạo đức, lối sống và
nhân cách văn hóa) đáp ứng uầu thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách
vừa cơ bản, lâu dài của sự nghiệp phát triển văn hóa ở nước ta. Mọi chương
trình, dự án phát triển kinh tế phải ln kết hợp hai mục tiêu: hiệu quả kinh tế
và hiệu quả văn hóa, xã hội, tránh chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá mà làm
suy thoái con người.


12

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trên
lĩnh vực văn hóa. Coi trọng, nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, phát triển
kinh tế và văn hóa phải gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội. Đây là một trong những nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của
dân tộc.
Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, khuyến
khích cổ vũ, phát huy giá trị lành mạnh, hướng thiện, nhân đạo, có ý nghĩa
tiến bộ. Xây dựng mơi trường văn hóa, thực hiện tốt trách nhiệm cơng dân đối

với Tổ quốc; đấu tranh chống lại những mầm mống phản văn hóa.
Tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hố. Cần chủ
động đón nhận các cơ hội phát triển cũng như bản lĩnh vượt qua các thử thách
để giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, góp phần làm đa dạng, phong phú
thêm nền văn hóa thế giới, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm
giàu thêm nền văn hóa Việt Nam, tiến kịp với thời đại. Chú trọng ngăn chặn,
loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa đối với văn hóa
nước ta.


13

KẾT LUẬN
Lịch sử của nhân loại nói chung và lịch sử của dân tộc Việt Nam nói
riêng đã chứng minh rằng, văn hóa ln gắn liền với cuộc sống của con người
và sự phát triển của xã hội. Văn hóa không chỉ là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội mà còn là một nhân tố quan trọng tạo nên sự phát triển bền
vững của đất nước, của dân tộc. Văn hóa là một trong bốn trụ cột của phát
triển bền vững, có mối quan hệ chặt chẽ và có vị trí, vai trị ngang hàng với
kinh tế, chính trị và mơi trường
Ngày nay, khơng ai có thể phủ nhận vai trị quan trọng của văn hóa với
tư cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử
phát triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia
nào, con người cũng đều đóng vai trị quyết định với q trình sản xuất, mà
trước hết, họ là một thực thể văn hóa. Tố chất con người (tinh thần u nước,
trình độ khoa học cơng nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý
nghĩa quyết định làm nên sức mạnh của văn hóa ở mỗi quốc gia - dân tộc.
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố văn hóa và con người Việt Nam luôn được
phát huy, tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành và

bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ngày
nay, những nhân tố đó tiếp tục đóng vai trị là động lực thúc đẩy sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ta phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.


14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), “Thơng báo Hội nghị
lần thứ IV”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (1&2).
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Phạm Minh Hạc (2007), “Văn hóa trong hội nhập kinh tế hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản.
8. Đặng Hữu Tồn (2007), “Tồn cầu hóa thách thức hiện nay ở nước
ta”, Tạp chí Cộng sản.




×