Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ QUANG CHIỀU

MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
VÀ HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành : Luật hình sự
Mã số

Cơng trình được hồn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh

Phản biện 1:

Phản biện 2:

: 60 38 40

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1

Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012.


Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm thông tin - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
Lời cam đoan
MỤC LỤC
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH

6

SỰ VÀ HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM

1.1.

Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự

6


1.1.1.

Khái niệm trách nhiệm hình sự, cơ sở trách nhiệm hình sự
và những điều kiện của trách nhiệm hình sự

6

1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự

6

1.1.1.2. Cơ sở trách nhiệm hình sự và những điều kiện của trách
nhiệm hình sự

9

1.1.1.3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm
hình sự

14

1.1.2.

18

Một số vấn đề chung về hình phạt

1.1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt


18

1.1.2.2. Hệ thống hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam

21

1.1.2.3. Quyết định hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam

23

1.1.2.4. Các căn cứ quyết định hình phạt

25

1.1.2.5. Mục đích và hiệu quả của hình phạt

34

Chương 2:

Nội dung phản ánh Mối liên hệ giữa Trách nhiệm Hình

38

sự và Hình phạt trong luật hình sự việt nam

2.1.

Những đặc điểm cơ bản của mối liên hệ giữa trách nhiệm
hình sự và hình phạt


38

2.2.

Nội dung phản ánh mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và

40

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
2.2.1.

Trách nhiệm hình sự và hình phạt với tích chất là hai chế
định cơ bản trong luật hình sự Việt Nam

40

2.2.2.

Hình phạt là một dạng của trách nhiệm hình sự và một hình
thức để thực hiện trách nhiệm hình sự

42

2.2.3.


Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt thể hiện
qua việc áp dụng hình phạt và quyết định hình phạt

43

2.2.4.

Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt thể hiện
qua một số chế định luật hình sự cụ thể

44

2.2.4.1. Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với
người phạm tội là người chưa thành niên

44

2.2.4.2. Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong
trường hợp đồng phạm

50

2.2.4.3. Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt

55

2.2.4.4. Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt


58

2.2.4.5. Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội

64

2.2.4.6. Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt bổ sung
trong luật hình sự Việt Nam

68

Chương 3: Đánh giá mối liÊn hệ giữa trách nhiệm hình sự

và hình

73

phạt qua thực tiễn áp dung và một số kiến nghị hoàn
thiện các chế định trách nhiệm hình sự và Hình phạt

3.1.

Đánh giá mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt
trong thực tiễn áp dụng

73

3.2.


Một số kiến nghị hoàn thiện các chế định trách nhiệm hình
sự và hình phạt

74

3.2.1.

Đối với chế định trách nhiệm hình sự

74

3.2.2.

Đối với miễn trách nhiệm hình sự

77

3.2.3.

Đối với chế định hình phạt

81

3.2.4.

Đối với chế định miễn hình phạt

83

Kết luận


84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
2.1

Tên bảng
Phân biệt giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt

Trang
43

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vơ ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, trước hết
phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, người đó phải chịu trách
nhiệm hình sự về việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã
gây ra. Khi trách nhiệm hình sự được đặt ra đối với một người, thì nguy cơ
người đó có thể phải chịu hình phạt là khó trách khỏi.
Trong luật hình sự Việt Nam, chế định trách nhiệm hình sự và chế
định hình phạt là hai chế định có vị trí quan trọng hàng đầu. Nó có ý nghĩa rất
lớn trong cơng tác đấu tranh, phịng và chống tội phạm; bảo vệ trật tự pháp
luật và pháp chế, đồng thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của
cơng dân. Thực tế trong khoa học luật hình sự, xung quanh hai chế định này
còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu và cũng cịn có những quan điểm
chưa thống nhất, như: định nghĩa pháp lý về trách nhiệm hình sự, hình phạt,
thẩm quyền áp dụng cùng như thời điểm phát sinh, thực hiện và chấm dứt
trách nhiệm hình sự v.v... Đặc biệt giữa hai chế định này có mối liên hệ hữu
cơ và tác động đến nhau trong thực tiễn áp dụng (giải quyết vụ án hình sự cụ
thể) pháp luật hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình (đề tài)
khoa học nào nghiện cứu về "Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam" một cách thống nhất và toàn diện.
Để thấy rõ mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt, đồng thời
làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận - khoa học các quy định về trách nhiệm hình
sự và hình phạt; cơ sở của trách nhiệm hình sự; phân biệt rõ trách nhiệm hình
sự và hình phạt; mục đích và hiệu quả của hình phạt; hệ thống hình phạt v.v...

6


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trong pháp luật hình sự Việt Nam. Cấp thiết hơn, khi Đảng và Nhà nước ta
đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc
nghiên cứu đề tài này càng có ý nghĩa.
Tất cả những điều nêu trên là lý do luận chứng để chúng tôi lựa chọn
vấn đề "Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn thạc sỹ Luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay có khá nhiều cơng trình khoa học và bài viết
chuyên sâu liên quan đến trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Trước hết, về giáo trình, sách chun khảo, bình luận có các cơng trình
sau: 1) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa (Chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình
phạt, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2001; 2) TS. Trương Quang Vinh,
Trách nhiệm hình sự và hình phạt, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; 3)
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về chức vụ, Nxb Chính trị quốc gia, 1996; 4) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Ngun
tắc cơng bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1994; 5) GS.TSKH. Lê Cảm, Chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam, năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2000; 6) GS.TSKH.
Lê Cảm (Chủ biên), TS. Phạm Mạnh Hùng và TS. Trịnh Tiến Việt, Trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, năm 2005; 7) TS. Trịnh Tiến
Việt, Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 11/2010; 8) TS. Mai Bộ, Chế định hình phạt
và quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí
Kiểm sát, số 7/2000; 9) TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về quyết định hình
phạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Chuyên đề - Năm 2010 và 10)

ThS. Đinh Văn Quế, Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000.

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Về cơng trình khoa học: 1) TS. Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong
luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, bảo vệ năm 2003; 2) TS. Trịnh
Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến
sĩ Luật học, bảo vệ năm 2010; 3) ThS. Lưu Ngọc Cảnh, Các hình phạt và biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình
sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học, bảo vệ năm 2010.
Các cơng trình khoa học và bài viết chuyên sâu nêu trên đã đưa ra bàn
luận và giải quyết nhiều vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng luật
hình sự đặt ra liên quan đến trách nhiệm hình sự và hình phạt. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu của những cơng trình và bài viết kể trên xuất phát từ chính
yêu cầu của đề tài hay chuyên mục riêng nên chưa làm rõ giữa chúng có mối
liên hệ thế nào, tác động đến nhau ra sao; đan xen giữa hai chế định này trong
thực tiễn áp dụng cịn những tồn lại như thế nào?! Vì vậy, càng có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn, nếu có một đề tài nghiên cứu tổng thể, tồn diện về "Mối
liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam".
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và phát triển những vấn đề lý
luận mới về mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt, phân tích các
quy định về trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình sự thực định;

tình hình vận dụng mối liên hệ này trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự tại
Tịa án; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng mối liên hệ
giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt nói chung, cũng như hiệu quả áp dụng
từng chế định trách nhiệm hình và hình phạt nói riêng trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trên cơ sở mục đích đã nêu, đề tài cần làm sáng tỏ các nhiệm vụ
chính như sau:
1) Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự và
hình phạt, khái niệm, đặc điểm, bản chất và sự phân biệt giữa trách nhiệm
hình sự và hình phạt;
2) Phân tích các quy định của pháp luật thực định để thấy rõ đặc điểm,
nội dung phản ánh của mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt;
3) Phân tích một số chế định cụ thể trong luật hình sự Việt Nam liên
quan đến trách nhiệm hình sự và hình phạt, thơng qua sự phân tích thực tiễn
xét xử và áp dụng pháp luật hình sự tại Tòa án để làm rõ mối liên hệ giữa
trách nhiệm hình sự và hình phạt;
4) Đánh giá tình hình áp dụng chế định trách nhiệm hình sự và chế
định hình phạt trong một số trường hợp cụ thể để chỉ ra những tồn tại, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đề xuất những giải pháp khả thi góp
phần nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án hình sự tại Tòa án.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài là
"Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam".

4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Phương pháp luận
Để giải quyết những nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra, Luận văn đã sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa, chính sách hình sự và vấn đề hồn thiện hệ thống pháp luật, cải
cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng
01 năm 2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

9

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 "Về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 "Về
chiến lược cải cách công tác tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận như trên, đề tài sử dụng các phương
pháp nghiên cứu đặc thù, phổ biến của khoa học luật hình sự như: phân tích,
tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu, lịch sử v.v... để phân
tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần
nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự và hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Nội dung phản ánh mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và

hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Đánh giá mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam qua thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn
thiện các chế định trách nhiệm hình sự và hình phạt.

10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
VÀ HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự, cơ sở trách nhiệm hình sự
và những điều kiện của trách nhiệm hình sự
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự, vấn đề
cơ bản và đầu tiên cần được giải quyết là phải đưa ra định nghĩa khoa học của
khái niệm trách nhiệm hình sự. Qua các tài liệu nghiên cứu khoa học về pháp
lý hình sự, nhận thấy xung quanh vấn đề khái niệm "Trách nhiệm hình sự"
các nhà hình sự học Việt Nam cịn nhiều quan điểm khác nhau, như:
- GS.TSKH. Đào Trí Úc có quan điểm: "Trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu
trách nhiệm về hành vi của mình trước nhà nước" [40, tr. 41].
- GS. TS. Đỗ Ngọc Quang có quan điểm:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là
trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do
Tịa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi mà người đó đã thực hiện [25, tr. 14].
- GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS. Lê Thị Sơn trong cuốn
"Trách nhiệm hình sự và hình phạt" có quan điểm:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm
nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm

11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hình sự, chịu sự kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm
hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích [20, tr. 122].
- GS.TSKH. Lê Cảm có quan điểm: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả
pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối
với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do
luật hình sự quy định" [6, tr. 122].
Qua một số quan điểm nêu trên, chúng ta thấy trách nhiệm hình sự
được hiểu theo nghĩa tích cực và tiêu cực.
Theo nghĩa tích cực - Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm phải xử sự
hợp pháp của một người trong việc ý thức được nghĩa vụ của mình là khơng
được thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Cách hiểu
này khơng truyền thống, ít được các nhà hình sự học thừa nhận và khơng có
tích chất phổ biến.
Theo nghĩa tiêu cực - Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm
và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án nhân danh Nhà nước
kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó, cịn người bị

kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự theo một số trình tự (pháp
luật tố tụng hình sự) riêng. Ngược lại với cách hiểu "tiêu cực" đây là quan
điểm truyền thống, có tích chất phổ biến được thừa nhận rộng rãi trong các
nhà hình sự học nói riêng và các nhà luật học nói chung [6, tr. 610].
Nhằm đảm bảo sự nhận thức khoa học thống nhất khi áp dụng các quy
phạm pháp luật hình sự và thơng qua đó thấy rõ sự khác nhau giữa trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm pháp lý khác của các ngành luật tương ứng phi
hình sự. Chúng ta phải chỉ được các đặc điểm của trách nhiệm hình sự.
Qua nghiên cứu các quan điểm nêu trên về khái niệm trách nhiệm hình sự,
theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực, đồng thời căn cứ vào các quy phạm phạm
pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình

12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm ấy. Chúng ta nhận thấy trách nhiệm
hình sự có các đặc điểm mà GS.TSKH Lê Cảm đã đưa ra như sau: [6, tr. 610-612]
- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm,
Một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
luật hình sự, khi đó trách nhiệm hình sự sẽ phát sinh đối với họ. Nói cách
khác khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm, thì đồng thời trách nhiệm hình sự được đặt ra để giải quyết hậu quả của
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, giữa họ với một bên là Nhà
nước.
Người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự, có thể đưa
đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng - khi hình phạt được áp dụng đối với họ,
có thể họ bị hạn chế hoặc tước bỏ quyền, tự do, thậm chí có thể bị tước bỏ cả
tính mạng.

- Trách nhiệm hình sự ln ln được thực hiện trong phạm vi của
quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tích chất là hai chủ thể có các
quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là Nhà nước, còn bên kia là người
phạm tội. Nhà nước có quyền truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải
chịu hình phạt nhất định tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của
tội phạm. Đồng thời Nhà nước cũng có nghĩa vụ đảm bảo các quyền và lợi ích
hợp pháp của người phạm tội không bị xâm phạm trong q trình giải quyết
vụ án hình sự, thơng qua các cơ quan tố tụng đại diện Nhà nước (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) để thực hiện trách nhiệm hình sự.
- Trách nhiệm hình sự được xác định bằng một trình tự đặc biệt bởi
các cơ quan Tư pháp hình sự có thẩm quyền mà trình tự đó phải do pháp luật
tố tụng hình sự quy định. Khi một công dân thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội thì chỉ có một số cơ quan được pháp luật quy định rõ ràng với các chức
năng và nhiệm vụ của mình mới có quyền tiến hành những thủ tục nhất định
để thực hiện trách nhiệm hình sự. Cụ thể các cơ quan này được Bộ luật tố

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tụng quy định rất cụ thể - Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Bản thân
các cơ quan này cũng khơng phải là có "siêu quyền", mà phụ thuộc vào từng
giai đoạn giải quyết vụ án hình sự có những quyền tương ứng, bản thân các cơ
quan này cũng có sự phụ thuộc, kiểm chế, giám sát nhau.
- Trách nhiệm hình sự chỉ được thể hiện trong bản án kết tội của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật, bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định. Đặc
điểm này của trách nhiệm hình sự đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
quy định rất rõ ràng - "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi

chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật".
Như trên đã trình bày, khi xác định trách nhiệm hình sự thì có thể bao
gồm cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, song việc khẳng định và
thực hiện trách nhiệm hình sự thì chỉ duy nhất Tịa án. Tịa án thực hiện trách
nhiệm hình sự bằng việc tuyên bố người phạm tội phải chịu hình phạt bằng
việc tuyên trong bản án đã có hiệu lực pháp luật.
- Trách nhiệm hình sự chỉ mang tính chất cá nhân (thể nhận). Trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ quy định đối với
bản thân người phạm tội mà chưa quy định đối với pháp nhân và các tổ chức.
Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta với chủ trương hội nhập sâu rộng trong các
mối quan hệ quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, vấn đề trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân và tổ chức đang được các nhà luật học quân tâm.
1.1.1.2. Cơ sở trách nhiệm hình sự và những điều kiện của trách
nhiệm hình sự
- Cơ sở trách nhiệm hình sự
Điều 2 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về cơ sở của trách
nhiệm hình sự như sau: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự
quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự".

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nhà làm luật quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự như đã viện dẫn
trên, chính là thể hiện các nguyên tắc pháp chế và công bằng trong luật hình
sự Việt Nam. Với ngun tắc pháp chế, - chính là sự thể hiện cơ sở duy nhất,
rõ ràng và dứt khoát nội dung "... phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy
định..." của trách nhiệm hình sự, cịn với ngun tắc cơng bằng, - thể hiện ở
chỗ có nghĩa bảo đảm sự bình đẳng ngang nhau trong đánh giá hành vi phạm

tội của những người phạm tội, bình đẳng trước pháp luật đối với tất cả mọi
người với nội dung "người nào..." (không trừ một ai trong xã hội). Tuy nhiên,
như đã đề cập, để công tác đấu tranh, phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả
cao, cùng với việc phân loại tội phạm, đa dạng hóa hệ thống các hình phạt, tội
danh, căn cứ quyết định hình phạt, chế tài... luật hình sự nước ta cũng đồng
thời phân hóa các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có
đường lối xử lý phù hợp. Theo đó, phân hóa các trường hợp phạm tội và người
phạm tội còn thể hiện ở chỗ: bên cạnh các trường hợp phải chịu trách nhiệm hình
sự thì cịn có một số trường hợp khi có đầy đủ những điều kiện nhất định, thì
một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy
định là tội phạm có thể khơng phải chịu trách nhiệm hình sự, chịu mức độ hạn
chế hay có thể được (hoặc phải được) miễn trách nhiệm hình sự [42, tr. 60].
Cũng chính từ cơ sở pháp lý này cho phép chúng ta hiểu "hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
" là cơ sở của việc xác định trách nhiệm hình sự. Đây là cơ sở có tính bắt
buộc khi xác định trách nhiệm hình sự của một người. Từ nội dung của điều
luật đã viện dẫn trên, quy định "...chỉ người nào phạm một tội...". Vì vậy,
chúng ta càng có căn cứ để khẳng định hành vi của một người phải chịu trách
nhiệm hình sự - bị coi là có tội khi có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể.
Ngoài ra, qua nghiên cứu các quan điểm về trách nhiệm hình sự, các
cơng trình nghiên cứu về trách nhiệm hình sự và thực tiễn giải quyết vấn đề trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, chúng ta nhận thấy cơ sở trách nhiệm
hình sự cịn được đặt ra dưới góc độ, như: cơ sở khách quan, cơ sở hình thức.

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Cơ sở khách quan của trách nhiệm hình sự được hiểu là những dấu

hiệu do luật định về một tội phạm cụ thể mà khi một người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn các dấu hiệu để cấu thành tội phạm. Các dấu
hiệu đó có thể là: lỗi, hành vi, mục đích v.v...
Cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự được hiểu là những căn cứ
chung mang tính bắt buộc được quy định trong luật hình sự do các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền đặt ra để xác định người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội có phải chịu tách nhiệm hình sự hay khơng?
Những điều kiện của trách nhiệm hình sự
Điều kiện là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể
xảy ra. Vậy điều kiện của trách nhiệm hình sự là gì? Qua nghiên cứu khái
niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự cũng như cơ sở của trách nhiệm
hình sự, chúng ta nhận thấy: điều kiện của trách nhiệm hình sự là những căn
cứ riêng cần và đủ, có tính chất bắt buộc được quy định trong luật hình sự, mà
khi hội đủ các căn cứ đó thì một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Những điều kiện (căn cứ) của trách nhiệm hình sự trong khoa học
luật hình sự Việt Nam có một số quan điểm đưa ra các điều kiện, như:
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa cho rằng chính là "sự thỏa mãn cấu thành tội
phạm là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự" [17, tr. 9-10] hoặc; có
quan điểm cho rằng những điều kiện của trách nhiệm hình sự là: con người
cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có
lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi này bị pháp
luật hình sự cấm (được quy định trong luật hình sư). Quan điểm này có nội
hàm rộng và đầy đủ, đó cũng là quan điểm được đơng đảo các nhà khoa học
luật hình sự ủng hộ.
Từ khái niệm (về mặt nội dung) điều kiện của trách nhiệm hình sự đã
nêu trên cho thấy, hệ thống của những điều kiện trách nhiệm hình sự gồm có

16


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


các điều kiện dưới đây để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự, mà
GS.TSKH Lê Cảm đã chỉ ra như sau: [6, tr. 636-638]
- Người đó phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể
của trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có
thể là thể nhân. Nếu như xuất hiện bất kỳ sự nghi ngờ nào về năng lực trách
nhiệm hình sự của chủ thể, thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
quyền tương ứng khơng được truy cứu trách nhiệm hình sự người ấy mà
nhất thiết phải trưng cầu giám định tâm thần pháp y để có kết luận chính xác
về năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể và; Chủ thể có năng lực trách
nhiệm hình sự ấy phải là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm ở trong trạng thái bình thường và hồn
tồn có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp
lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được đầy
đủ hành vi đó.
Khi xem xét những điều kiện của trách nhiệm hình sự, chúng ta cũng
thấy rằng, khái niệm "người có năng lực trách nhiệm hình sự" này chỉ là quan
điểm khoa học pháp lý, cịn khái niệm pháp lý của nó thì vẫn chưa được ghi
nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999.
- Người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Cụ thể Điều 12 của Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy, có thể hiểu định nghĩa
khoa học của khái niệm người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người mà
tại thời điểm phạm tội đã đạt đến độ tuổi do luật hình sự quy định để có thể
có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của
hành vi do mình thực hiện, cũng như có khả năng điều khiển được đầy đủ
hành vi đó; theo chính sách hình sự của Nhà nước ta, người ở độ tuổi chưa
thành niên phạm tội do sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất và tinh thần nên


17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


bao giờ cũng được hưởng sự khoan hồng của nhà làm luật. Nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội bao giờ cũng chịu mức độ trách nhiệm hình
sự nhẹ hơn người đã thành niên phạm tội.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có lỗi. Điều kiện
này của trách nhiệm hình sự, nói nên người đó phải có thái độ tâm lý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm và đối với hậu quả do hành
vi đó gây nên được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nếu như thiệt hại
gây ra mà không phải do lỗi của chủ thể (như: trường hợp sự kiện bất ngờ),
thì dù hành vi đó tuy có dấu hiệu của hành vi nào đó được quy định trong Bộ
luật hình sự nhưng các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền cũng khơng
được truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể của hành vi đó.
- Hành vi của người đó phải nguy hiểm cho xã hội. Ngay trong khái
niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 của Bộ luật hình sự năm
1999 đã thể hiện rất rõ điều kiện này. Trong thực tế khách quan phải có sự
kiện của chủ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hành vi đó phải
gây nên hoặc có khả năng thực tế đe dọa gây nên thiệt hại cho các quan hệ xã
hội (các lợi ích của con người, của xã hội hay của Nhà nước) được bảo vệ
bằng pháp luật hình sự và; Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chủ thể
đã thực hiện phải đáng kể đến mức phải áp dụng biện pháp xử lý về hình sự
(vì nếu như áp dụng các biện pháp phi hình sự của các ngành luật tương ứng
khác thì khơng đảm bảo đủ sức ngăn chặn). Tuy nhiên không thể đưa ra một
"mức nguy hiểm" nào để làm chuẩn mực cho mỗi hành vi bị coi là nguy hiểm
cho xã hội, mà "mức nguy hiểm" này được pháp luật hình sự Việt Nam quy
định riêng cho mỗi tội phạm.

- Hành vi của người đó bị luật hình sự cấm, tức là hành vi mà người
đó thực hiện phải bị luật hình sự cấm (trái pháp luật hình sự). Khi xem xét cơ
sở trách nhiệm hình sự, chúng ta đều thống nhất, tội phạm phải được quy định

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trong luật hình sự (Điều 2 của Bộ luật hình sự năm 1999 - Cơ sở của trách
nhiệm hình sự).
Ví dụ: Thơng thường hành vi đó phải là hành vi có đầy đủ các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự, nhưng có những trường hợp nó cũng có thể là hành vi chuẩn bị phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, hay hành vi phạm tội chưa đạt
được đề cập trong Phần chung nhưng tương ứng với tội phạm cụ thể nào đó
trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Do vậy, theo nguyên tắc pháp chế
được thừa nhận chung của luật hình sự (khơng có tội phạm, khơng có hình
phạt nếu khơng có luật quy định), mặc dù tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi có lớn như thể nào đi chăng nữa nhưng nếu như nó vẫn chưa bị nhà làm
luật tội phạm hóa, tức là hành vi đó vẫn chưa được khẳng định bằng một cấu
thành tội phạm cụ thể tại điều tương ứng nào đó trong Phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự, thì cũng khơng được truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể
thực hiện hành vi đó.
Trên đây là những điều kiện để buộc một người phải chịu trách nhiệm
hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện. Chỉ khi nào
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có tất cả các điều kiện của
trách nhiệm hình sự nêu trên, thì người đó mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.1.1.3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm
hình sự

- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Hiệu quả và ý nghĩa của việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như
áp dụng hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc rất nhiều vào khoảng thời
gian giữa thời điểm thực hiện tội phạm và thời điểm áp dụng hình phạt. Theo
PGS.TS. Trần Văn Độ, "khoảng thời gian đó càng nhỏ thì hiệu quả đạt được
của việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt càng cao; và ngược

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


lại, khoảng thời gian đó càng dài thì hiệu quả đạt được càng thấp" [14, tr. 102].
Vì vậy, nếu giữa thời điểm thực hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình
sự đã trải qua một thời hạn tương đối dài; đồng thời người đó đáp ứng được
những điều kiện nhất định, như: người đó khơng phạm tội mới, khơng cố tình
trốn tránh thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó khơng hợp lý
và rõ ràng khơng cịn cần thiết từ góc độ giáo dục, phịng ngừa riêng và phòng
ngừa chung, đi ngược lại nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và ở
một chừng mực nào đó, gây lãng phí cho Nhà nước từ việc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự bao giờ cũng phản ánh chính
sách hình sự của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nhưng từ khi thực hiện hành vì đó đã trải qua một thời hạn nhất định,
đáp ứng được các điều kiện nhất định, thì một người đã phạm tội không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được quy định tại Điều 23 của Bộ luật hình sự năm 1999, nội dung
điều luật quy định:
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ
luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội khơng

bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a. Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b. Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trong;
c. Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d. Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ
ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật hình
sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên
một năm tù, thì thời gian đã qua khơng được tính và thời hiệu đối
với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn
trách và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn trách khơng được tính
và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú [31].
Qua sự phân tích về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và nội
dung Điều 23 của Bộ luật hình sự năm 1999, chúng ta nhận thấy thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, có một số điểm cần hồn thiện hơn nữa, như:
Luật hình sự thực định vẫn chưa khẳng định dứt khoát hậu quả pháp lý
của việc khơng truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề này hiện nay, có nhiều
nhà luật hình sự cho rằng đó là một dạng miễn trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, nếu là một dạng miễn trách nhiệm hình sự thì cũng cần sớm được quy
định dứt khốt trong luật hình sự.
Một hành vi được coi là tội phạm, thường bao giờ cũng gây ra thiệt

hại nhất định về vật chất cho người bị hại. Vậy, vấn đề gây thiệt hại về vật
chất hay các nguyên đơn dân sự và người thực hiện hành vi đó có tranh chấp
dân sự, nhưng theo luật họ đã được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự do hết
thời hiệu thì được giải quyết như thế nào? Theo chúng tôi vấn đề này sớm được
bổ sung trong luật hình sự về quy định thời hiệu, nhằm đảm bảo nghĩa vụ bồi
thường của người này cũng như giải quyết vấn đề dân sự để duy trì trật tự xã hội
chung và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị hại hay các nguyên đơn
dân sự.
- Miễn trách nhiệm hình sự
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự nói

21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chung và các quy định pháp luật thuộc về luật hình sự nói riêng, bên cạnh
cơng tác nhằm mục đích đấu tranh và phòng chống tội phạm còn phải thực
hiện tốt các nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc công bằng trong chính sách
hình sự. Vì vậy, một Nhà nước pháp quyền thực sự, trong chính sách pháp
luật hình sự khơng thể khơng có các quy phạm pháp luật hình sự về miễn
trách nhiệm hình sự.
Đối với nguyên tắc nhân đạo, miễn trách nhiệm hình sự thể hiện sự
khoan hồng, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc kết hợp các biện pháp cưỡng
chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội (phi hình sự)
trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, không buộc phải cách ly người
phạm tội ra khỏi cộng đồng. Trong các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự,
thì việc miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá là một trường hợp
mang tính nhân đạo sâu sắc nhất.

Đối với ngun tắc cơng bằng, miễn trách nhiệm hình sự thể hiện thái
độ từ phía Nhà nước và xã hội đối với người có hành vi phạm tội. Người được
miễn trách nhiệm hình sự, bản thân họ cũng đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Song, với người này tùy
thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng, các cơ quan tiến hành tố tụng
thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự người đó lại khơng cần thiết mà
vẫn đáp ứng (đạt) được các yêu cầu đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm,
cũng như cơng tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, và nếu đáp ứng được
những điều kiện nhất định họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự mà
được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mặc dù họ được miễn trách nhiệm
hình sự, nhưng vẫn có thể họ phải chịu áp dụng một số các biện pháp cưỡng
chế phi hình sự, thuộc các ngành luật tương ứng khác.
Với cơ sở và ý nghĩa như trên về miễn trách nhiệm hình sự, chúng ta
có thể đưa ra một khái niệm như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là hủy bỏ
hậu quả pháp lý hình sự của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị

22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi
đó [6, tr. 753].
Từ sự phân tích khái niệm về miễn trách nhiệm hình sự như trên, đồng
thời qua phân tích các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, có liên
quan đến việc giải quyết vấn đề miễn trách nhiệm hình sự và qua thực tiễn áp
dụng các quy phạm này, chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản về miễn
trách nhiệm hình sự mà GS.TSKH đã chỉ ra như sau: [6, tr. 753-755]
Miễn trách nhiệm hình sự khơng phải là sự minh oan theo thủ tục của
pháp luật hình thức (luật tố tụng hình sự) cho người được coi là vô tội trong

việc thực hiện tội phạm, mà nó là chế định phản ánh rõ nét nhất ngun tắc
nhân đạo, cơng bằng của chính sách hình sự nói chung và của pháp luật hình
sự nói riêng của Nhà nước ta.
Miễn trách nhiệm hình sự là xóa bỏ hồn tồn hậu quả pháp lý hình sự
của việc thực hiện một tội phạm chỉ có thể được đặt ra đối với người nào là
chủ thể của chính tội phạm ấy mà lẽ ra nếu khơng có đủ các căn cứ và những
điều kiện do luật định để được miễn trách nhiệm hình sự, thì người đó phải
chịu trách nhiệm hình sự theo các quy định của pháp luật hình sự.
Người được miễn trách nhiệm hình sự tuy khơng phải chịu các hậu
quả pháp lý hình sự của hành vi phạm tội do mình thực hiện, nhưng cắn cứ
vào các tình tiết cụ thể họ vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác
động về mặt pháp lý thuộc ngành luật tương ứng khác vào thời điểm trước
hoặc sau khi được miễn trách nhiệm hình sự.
Trong luật hình sự Việt Nam hiện hành miễn trách nhiệm hình sự chỉ
được áp dụng đối với thể nhân (cá nhân) người phạm tội nào có đủ các căn cứ
và điều kiện do luật định.
Từng giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn trách nhiệm
hình sự chỉ do một số cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định (Cơ

23

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


quan điều tra nhưng phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án) áp dụng khi có đầy đủ các căn cứ và điều kiện do luật hình sự quy
định.
1.1.2. Một số vấn đề chung về hình phạt
1.1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt
Bất kể một ngành luật nào, xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của

mình đều có đối tượng và phương pháp điều chỉnh đặc trưng. Luât hình sự
Việt Nam với chức năng và nhiệm vụ đặc trưng của mình là bảo vệ các quan
hệ xã hội quan trọng nhất khỏi tội phạm và phòng ngừa tội phạm. Để hồn
thành chức năng và nhiệm vụ của mình, luật hình sự cần phải có những chế
định về tội phạm, cơ sở trách nhiệm hình sự, nguyên tắc xử lý tội phạm, hình
phạt, các biện pháp tư pháp khác v.v... Trong đó hình phạt là một trong những
chế định quan trọng nhất của luật hình sự. Vì hình phạt khơng những trực tiếp
tác động đến người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới mà cịn có tính chất
răn đe, giáo dục người khác.
Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ như trên, khoa học luật hình sự
Việt Nam, xung quanh khái niệm hình phạt, giữa các nhỉ hình sự học vẫn cịn
nhiều ý kiến khác nhau, chưa có một quan điểm thống nhất, chẳng hạn:
GS.TS. Đỗ Ngọc Quang có quan điểm:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của Nhà
nước được quy định trong luật hình sự do tòa án áp dụng đối với
người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ých
nhất định với mục đích là cải tạo giáo dục người phạm tội và ngăn
ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân [25].
GS.TS. Võ Khánh Vinh có quan điểm: "Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế do Tịa án quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực

24

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền lợi
ích do luật quy định đối với người bị kết án" [45].
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa và TS. Lê Thị Sơn có quan điểm:

Hình phạt biện pháp cưỡng chế nhà nước được luật hình sự
quy định và do tịa án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm trừng trị, giáo dục họ, cũng
như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
chống và phịng ngừa tội phạm [20].
GS.TSKH. Lê Văn Cảm có quan điểm: "Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong các bản án
kết tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do
của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự" [6, tr. 675].
Ngoài ra, qua nghiên cứu khoa học luật hình sự chúng ta cịn thấy một
số quan điểm nữa về hình phạt, như:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được quy định
trọng luật hình sự, do Tịa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm,
nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phịng và chống
tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân.
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy định
được Tòa án nhân danh Nhà nước quyết định trong bản án đối với người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn
chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án.
Về mặt luật thực định, khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 26
của Bộ luật hình sự năm 1999, nội dung điều luật như sau:

25

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền lợi ích của người phạm tội.

Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tịa án
quyết định [31].
Điều 26 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về hình phạt như trên
đã phản ánh được bản chất và chức năng của hình phạt. Khái niệm luật định
này là sự tiếp thu những kết quả nghiên cứu về hình phạt trong lý luận luật
hình sự Việt Nam. Hầu hết nội dung quan trọng của các quan điểm về khái
niệm hình phạt đều được thể hiện trong khái niệm này.
Từ sự phân tích khái niệm hình phạt cho thấy hình phạt có các đặc
điểm cơ bản mà GS.TSKH đã chỉ ra như sau: [6, tr. 675-677]
Đặc điểm thứ nhất: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình phạt
nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của
Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu hậu quả
pháp lí là người đó bị coi là có án tích.
Đặc điểm thứ hai: Hình phạt với tính chất là một dạng của trách
nhiệm hình sự và là một hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự, hình phạt
chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội. Hình phạt gắn liền với tội phạm
và chỉ được áp dụng với tính chất là sự phản ứng của Nhà nước và xã hội đối
với tội phạm.
Đặc điểm thứ ba: Hình phạt phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình
sự duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự (Tịa án - áp dụng) và chỉ đối
với người bị kết án nói riêng (chứ khơng phải người phạm tội nói chung vì nguời
phạm tội nếu được Tịa án miễn trách nhiệm hình sự thì khơng phải là người bị
kết án nên khơng bị áp dụng hình phạt) trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.
Đặc điểm thứ tư: Hình phạt nhằm mục đích tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, tự do của người bị kế án (tuy nhiên, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền,

26

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



×