1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, quá trình thực thi CSTT
của Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản và ngày càng trở nên thích ứng
hơn với những mục tiêu điều tiết nền kinh tế, góp phần tích cực cho sự ổn
định thị trường tài chính, kiểm sốt lạm phát và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay kinh tế trong nước cũng như thế giới ngày càng có nhiều thay đổi khó
lường đã khiến cho quá trình xây dựng và thực thi CSTT ngày càng trở nên
khó khăn và phức tạp.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, mặc dù đã góp phần quan trọng
trong tiến trình ổn định nền kinh tế vĩ mơ nói chung và thị trường tiền tệ nói
riêng nhưng CSTT ở nước ta vẫn cịn bộc lộ khơng ít những bất cập và hạn
chế. Các giải pháp đưa ra cịn mang tính tình thế, tạm thời và chưa thật sự linh
hoạt, thậm chí cịn gây nên những bất ổn. Chẳng hạn, bằng việc liên tục thay
đổi các mục tiêu điều hành CSTT NHNN đã góp phần kiềm chế lạm phát
nhưng lại gây những tác động bất lợi đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, thị
trường tài chính và cả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Từ chỗ các ngân
hàng thiếu vốn nghiêm trọng trong giai đoạn đầu 2008 lại chuyển sang thừa
vốn vào những tháng cuối năm 2008, trong khi các doanh nghiệp - đặc biệt,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì lại đối mặt với hàng loạt khó khăn trong việc
tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Chính những diễn biến này cho thấy việc
sửa đổi, hồn thiện hơn nữa CSTT là đòi hỏi thực tế khách quan của nền kinh
tế. Đó khơng chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của NHNN, của các nhà lãnh đạo
mà còn là nhiệm vụ bức thiết đối với mỗi chúng ta - những người nghiên cứu
trong lĩnh vực kinh tế chính trị, những người góp tiếng nói của mình vào
trong q trình hoạch định đường lối, chính sách của đất nước. Vì vậy, việc
nhận diện rõ ràng và cụ thể các mục tiêu của CSTT nhằm thực thi một CSTT
2
linh hoạt, hữu hiệu, thích nghi tốt với diễn biến thời cuộc là yêu cầu bức thiết
đặt ra cho Việt Nam trong thời gian tới.
Với ý nghĩa đó, vấn đề “Thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam
hiện nay” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chun ngành kinh tế
chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong hơn 20 năm đổi mới kinh tế ở nước ta, những nghiên cứu về
CSTT ngày càng thu hút sự quan tâm của các cơ quan chức năng của Chính
phủ, của các nhà khoa học, nhà quản lý, các nhà quản trị… Nhiều cơng trình
đã được cơng bố, chẳng hạn như:
* Về sách, có một số cuốn sách đã được phát hành như
- Nguyễn Võ Ngoạn (1996), Hệ thống công cụ CSTT quốc gia trong
nền kinh tế thị trường”, NXB Tài chính.
- Nguyễn Duệ (chủ biên), Nguyễn Văn Tiến, Tô Kim Ngọc (1999),
Đồng tiền chung Châu Âu và CSTT của NHTW Châu Âu, NXB Thống kê
- Lê Vinh Danh (2005), CSTT và sự điều tiết vĩ mô của NHTW, NXB
Tài chính.
* Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ:
- Đặng Chí Chơn (1995), NHNN và việc thực thi có hiệu quả CSTT
trong cơ chế thị trường Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ kinh tế: 5.02.09 -- TP
Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Võ Ngoạn (1995), Hồn thiện các công cụ của NHNN Việt
Nam để thực hiện CSTT quốc gia, Luận án phó tiến sĩ kinh tế: 5.02.09 .
- Hồng Xn Quế (2003), Giải pháp hồn thiện các cơng cụ chủ yếu
của CSTT ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế: 5.02.09.
- Lê Thị Thanh Hằng (2007), Giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành CSTT của NHNN Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế: 60.31.12.
3
* Một số bài viết đã được công bố trên các báo, tạp chí:
- Hồng Ngọc Hịa (2003), “Những thách thức đối với tài chính - tiền
tệ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và phát triển.
- Hoàng Yến (2004), “Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến CSTT và chính
sách thương mại của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 8.
- Đinh Xuân Hạ (2005), “Đổi mới điều hành CSTT của NHNN trong
quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí
Tài chính, số 8.
- MU (2005),“Ảnh hưởng của quá trình hội nhập đến CSTT quốc gia”,
Tạp chí Ngân hàng Ngoại Thương, số 5.
- Nguyễn Thành Trung (2006), “Vai trò CSTT của Việt Nam và những
khuyến nghị”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 5.
- Nguyễn Văn Hậu (2008), “Tồn cầu hóa tài chính với CSTT - tín
dụng quốc gia”, Thơng tin những vấn đề kinh tế chính trị học, Số 18.
Mặc dù số lượng các cơng trình nghiên cứu rất nhiều, rất đa dạng và phong
phú, bên cạnh những đóng góp có giá trị cho việc nghiên cứu lý luận hay ứng
dụng, thực thi… nhưng tiếp cận CSTT trên phương diện kinh tế chính trị thì cịn
rất hạn chế, thậm chí chưa có cơng trình nào nghiên cứu vấn đề “Thực thi chính
sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay” trên phương diện kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực thi CSTT
làm cơ sở để phân tích thực trạng thực thi CSTT ở Việt Nam trong trong giai
đoạn 2001 - 3/2009. Trên cơ sở những quan điểm và phương hướng đã được
xác định, luận văn đề ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi CSTT
ở Việt Nam giai đoạn đến 2015.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ những vấn đề
chính sau:
4
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi CSTT, kinh nghiệm
thực thi CSTT của một số nền kinh tế và rút ra một số gợi ý cho Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn 2001 - 3/2009.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả CSTT của Việt Nam
giai đoạn đến năm 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trên phương diện kinh tế chính trị, luận văn chủ yếu tập trung nghiên
cứu những quan hệ kinh tế chủ yếu trong quá trình thực thi CSTT của Việt
Nam giai đoạn 2001 - 3/2009. Nếu xét theo quy trình thì q trình thực thi
chính sách tiền tệ bao gồm 5 hoạt động cơ bản sau: hoạt động soạn thảo và
ban hành CSTT; hoạt động thẩm định, đánh giá CSTT; hoạt động tổ chức thực
hiện CSTT; hoạt động chun mơn của CSTT và hoạt động kiểm sốt, giám
sát các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, để phù hợp với yêu cầu luận văn chỉ
chú trọng tập trung nghiên cứu các hoạt động thực thi chính sách trực tiếp
liên quan đến những mục tiêu chủ yếu của CSTT - đó là, đảm bảo cung ứng
và điều tiết tổng phương tiện thanh tốn; kiểm sốt hoạt động tín dụng trong
nền kinh tế; kiểm soát ngoại hối và kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách nhà
nước. Và, những công cụ chủ yếu như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết
khấu và nghiệp vụ thị trường mở. Trên cơ sở đó, luận văn tập trung đánh giá
những tác động của thực thi CSTT đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ năm
2001 đến đầu năm 2009
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Những nguyên lý cơ bản của Kinh tế chính trị Mác - Lênin, các lý
thuyết hiện đại về CSTT và thực thi CSTT.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng của Nhà nước và NHNN cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong quá trình điều hành và thực thi CSTT.
- Những cam kết khu vực và quốc tế có liên quan
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng Mácxit, luận văn chú trọng
sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác-Lênin: phương pháp
trừu tượng hóa khoa học, kết hợp phân tích với tổng hợp, so sánh,...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa và phân tích cơ sở khoa học của việc thực
thi CSTT ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng thực thi CSTT Việt Nam
trong giai đoạn từ 2001 - 3/2009, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp
và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn
đến 2015. Từ đó, luận văn là cơ sở, tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
hoạch định và thực thi CSTT nước ta trong giai đoạn đến 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương và 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1.1. Chính sách tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ
1.1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Trong thực tế, có nhiều loại chính sách kinh tế và những chính sách này
được phân loại dưới nhiều góc độ khác nhau, chẳng hạn như: vi mơ, vĩ mô;
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;…
Theo các quan điểm phổ biến hiện nay thì chính sách tiền tệ thuộc
nhóm chính sách kinh tế vĩ mơ ngắn hạn. Nếu các chính sách kinh tế là cơng
cụ của Nhà nước để điều tiết và hướng nền kinh tế tới mục tiêu mong muốn,
chúng thường bị chi phối bởi 3 nhóm yếu tố: chủ thể ban hành và thực thi
chính sách kinh tế là Nhà nước, nền kinh tế mà trực tiếp là những bộ phận,
những chức năng của nền kinh tế trực tiếp là đối tượng điều chỉnh của chính
sách …và, mơi trường thực thi chính sách; thì, chính sách tiền tệ cũng khơng
nằm ngồi những cái chung đó.
Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế và giác độ
nghiên cứu mà luận văn đề cập thì chính sách tiền tệ cịn được tiếp cận theo
nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách bảo đảm việc cung ứng mức
cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) trong từng thời kỳ (thường là một
năm) phù hợp với mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế hay các mục tiêu
kinh tế vĩ mô khác.
- Theo nghĩa rộng, CSTT là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các
chính sách kinh tế vĩ mơ của Nhà nước, là hệ thống các giải pháp và công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường tiền tệ và tín dụng do
7
NHTW khởi thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, hướng nền kinh
tế vào những mục tiêu mong muốn [18, tr.217].
Trong tác phẩm “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính” F.S.
Mishkin đã đưa ra quan niệm CSTT theo nghĩa rộng: CSTT là một trong các
chính sách vĩ mơ, trong đó NHTW thơng qua các cơng cụ của mình thực hiện
việc kiểm sốt và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục
tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của
mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi
suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá hối đối [17, tr.211].
Ở Việt Nam, Điều 2 Luật NHNN Việt Nam ban hành năm 1997 đã nêu
rõ: CSTT là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước
nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống của
nhân dân [27].
Từ đó, có thể thấy CSTT có các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, CSTT là một bộ phận hữu cơ cấu thành các chính sách kinh tế.
Như chúng ta đã biết, trong tổng thể các chính sách kinh tế của một
quốc gia, mỗi chính sách đề có vị trí và vai trị riêng của nó. Trong đó, CSTT
ln được xem là một chính sách trung tâm, gắn kết nhiều chính sách lại với
nhau. Bởi lẽ, các nền kinh tế hiện đại đều là nền kinh tế tiền tệ, nói cách khác
- những nền kinh tế này đã được tiền tệ hóa cao độ (tính theo chỉ số hóa tiền
tệ M2/GDP). Vì vậy, ở các nền kinh tế này các quan hệ kinh tế chủ yếu phải
dựa trên, xoay quanh và được phản ánh bởi các quan hệ tiền tệ, tiền tệ đã xâm
nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong nền kinh tế và do vậy
CSTT là chính sách kinh tế trung tâm và có vai trị ngày càng quan trọng.
Thứ hai, CSTT thuộc nhóm chính sách kinh tế vĩ mơ - do đó, nó khơng
có mục đích tự thân mà phải hướng tới phục vụ các mục tiêu của nền kinh tế
Muốn thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần phải thực thi
nhiều chính sách kinh tế vĩ mơ trong đó có CSTT. Khác với các chính sách
8
kinh tế vĩ mơ khác như chính sách tài khố, chính sách kinh tế đối ngoại… thì
CSTT chủ yếu chỉ tác động ở thị trường tiền tệ, và qua đó tác động đến đến
mặt cầu của nền kinh tế, ảnh hưởng đến giá cả, đầu tư, việc làm, sản lượng …
Thứ ba, mặc dù CSTT chỉ chủ yếu tác động và làm thay đổi những cân
bằng ngắn hạn, vừa có tác dụng điều chỉnh ổn định kinh tế, vừa hướng sự cân
bằng ngắn hạn của nền kinh tế vận động xoay quanh giới hạn khả năng sản
xuất - tức là, đạt được mức hiệu quả trên cơ sở khai thác một cách có hiệu quả
tiềm năng kinh tế, do đó, góp phần làm giảm tính chu kỳ của nền kinh tế, nhưng
nó cịn ảnh hưởng mặc dù gián tiếp nhưng rất quan trọng đến sự phát triển của
nền kinh tế ở cả trung và dài hạn. Chẳng hạn như, bằng việc thay đổi mức lãi
suất, sử dụng định chế mức lãi suất ưu đãi mà CSTT góp phần khuyến khích đầu
tư mới, huy động các nguồn vốn, tăng tiết kiệm, tích lũy và do đó tăng đầu tư
đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, NHTW là cơ quan chức năng của Chính phủ, trực tiếp tham
gia vào quá trình soạn thảo, ban hành và thực thi CSTT.
Việc thực hiện chức năng này của NHNN ở mỗi quốc gia cịn phụ
thuộc vào mơ hình tổ chức bộ máy của quốc gia đó. Ở Việt nam, NHNN là
thành viên của chính phủ, trực tiếp chịu sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ,
tính độc lập rất thấp nên ít tính linh hoạt và điều đó ảnh hưởng khơng ít đến
hiệu quả thực thi CSTT. Và điều ngược lại có thể xảy ra đối với các nền kinh
tế mà NHNN có tính độc lập rất cao.
1.1.1.2. Quan niệm thực thi chính sách tiền tệ
Thứ nhất, thực thi CSTT phải mang tính hệ thống. Vì CSTT là một bộ
phận cấu thành trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính của quốc gia
và trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động với
nhau. Do vậy một CSTT hữu hiệu đòi hỏi phải được thiết lập và vận hành
trong mối quan hệ với các chính sách khác, chứ khơng nên tự coi mình là một
yếu tố độc lập tuyệt đối mặc dù bản thân CSTT có vai trị cực kỳ quan trọng.
9
Vì vậy, việc sử dụng và thực thi CSTT khơng thể độc lập, tách rời với những
chính sách kinh tế vĩ mơ khác mà nó phải được đặt trong một hệ thống, một
chỉnh thể thống nhất - Đó là một tất yếu kinh tế và mang tính phổ biến.
Thứ hai, thực thi CSTT phải đảm bảo tính đồng bộ và nhất qn. Tính
đồng bộ và nhất qn ln được đặt lên hàng đầu trong quá trình thực thi CSTT.
Thứ ba, thực thi CSTT phải linh hoạt, chủ động, hiệu quả nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, điều hành cán cân thanh tốn quốc tế khơng để bị thâm hụt.
Nhưng cũng phải có nhiều phương án dự phịng để tính tốn trong trường hợp
có diễn biến mới trên thị trường quốc tế.
1.1.2. Nội dung cơ bản và hình thức thực thi chính sách tiền tệ
CSTT là một thành tố quan trọng của hệ thống các chính sách kinh tế vĩ
mơ, vì vậy việc xây dựng và thực thi CSTT phải gắn với những mục tiêu,
nhiệm vụ kinh tế vĩ mô trọng yếu - cụ thể, phục vụ đắc lực quá trình đổi mới,
ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế cả về ngắn hạn và dài hạn.
Theo như giới hạn nghiên cứu đã nêu, nội hàm của vấn đề này được
trình bày ở một số hoạt động thực thi cơ bản sau:
1.1.2.1. Cung ứng và điều tiết tổng phương tiện thanh tốn trong lưu thơng
* Lượng tiền cung ứng (Tổng phương tiện thanh toán - MS)
Theo lý thuyết về số nhân tiền ta có:
Trong đó:
s+1
MS =
s + ra
xH
H = U + Ra
s là tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi
ra là tỷ lệ dự trữ thực tế tiền gửi
H là tiền cơ sở (cơ số tiền tệ)
U là tiền mặt trong lưu thơng
Ra là tiền mặt dự trữ trong các
ngân hàng
Từ đó, có thể thấy, những thay đổi trong 3 biến (H, r a và s) làm cho
cung ứng tiền tệ thay đổi như thế nào:
10
Thứ nhất, cung ứng tiền tệ tỷ lệ thuận với cơ số tiền. Vì vậy, sự gia tăng
cơ số tiền làm tăng cung ứng tiền tệ theo cùng một tỷ lệ.
Thứ hai, tỷ lệ dự trữ trên tiền gửi càng thấp, thì ngân hàng càng cho vay
nhiều và tạo thêm nhiều tiền từ mỗi VNĐ dự trữ, tức càng được nhiều tiền.
Bởi vậy, sự cắt giảm tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi làm số nhân tiền và cung ứng tiền
tăng lên.
Thứ ba, tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi (s) càng thấp, cơng chúng càng giữ ít
VNĐ, các NHTM càng giữ nhiều VNĐ thì càng tạo ra được nhiều tiền. Vì
vậy, sự cắt giảm tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi làm số nhân tiền và cung ứng tiền
tệ tăng lên.
Trên thực tế, tốc độ lưu thơng tiền tệ cịn bị chi phối bởi: tốc độ chu
chuyển vật tư hàng hóa, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, sự tiên liệu
của dân cư vào thời cơ và vận hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng chi tiêu của
dân chúng, chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước, kỳ vọng của các doanh
nhân, trình độ kỹ thuật và khả năng tổ chức thanh tốn của Ngân hàng.
NHTW thơng qua các cơng cụ của mình (thị trường mở, quy định tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu) để khống chế sao cho khối lượng cung
ứng tiền tệ trong một giai đoạn nào đó phải cân bằng với mức tăng của GNPn
và vòng quay tiền tệ trong cùng thời kỳ đó. C.Mác cũng cho rằng: số lượng
các phương tiện lưu thông là do tổng giá trị của hàng hóa lưu thơng và tốc độ
lưu thơng trung bình của tiền tệ quy định. Tức là khối lượng tiền tệ lưu thông
thực tế (Kt) phải bằng khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (Kc), tức Kt
= Kc. Trong đó, Kc là tổng giá cả hàng hóa (H) chia cho vòng quay của đồng
tiền (V) [41, tr. 348]
* Điều hịa lượng tiền cung cứng tăng, giảm theo tín hiệu thị trường
Lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là chỉ tiêu định lượng. Điều quan
trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả, của
tỷ giá hối đối. Từ đó NHTW điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho
11
khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi không làm tăng giá cả hoặc tắc
nghẽn lưu thơng vì thiếu phương tiện thanh tốn.
Hai yếu tố động nhất của tín hiệu tiền tệ là giá cả và tỷ giá hối đối.
Cịn tốc độ tăng trưởng và vịng quay đồng tiền đều biến động tiệm tiến, khó
biết trước chính xác.
1.1.2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế
Khối lượng tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp
xuất phát từ hai nguồn - đó là: huy động tiền vốn có sẵn trong lưu thơng để
cho vay và sử dụng lượng tiền của NHTW thơng qua q trình tái cấp vốn.
Khi NHTM tiến hành nghiệp vụ cấp tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo
tiền gửi mới nhờ số nhân tiền. Trong các nước cơng nghiệp, nơi có hệ thống
ngân hàng đã phát triển cao, thị trường tiền tệ nhạy cảm, cơ chế vay mượn
hiện đại và tinh vi, thì việc sử dụng các công cụ gián tiếp như: nghiệp vụ thị
trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu không chỉ điều tiết khối
lượng tiền tệ trong lưu thơng, mà cịn điều tiết cả tín dụng. Ngồi ra, người ta
cịn dùng giải pháp bổ trợ bằng khống chế hạn mức tín dụng, cụ thể là:
Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm, NHTW dành chủ yếu cho
hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng, có tính đến mức
lạm phát (nếu có) đã được khống chế trong từng thời kỳ nhất định.
Đồng thời, khối lượng tiền tệ tăng thêm qua tín dụng sẽ khơng được
“rót” từ NHTW xuống, bất chấp thực trạng về vốn, chất lượng tín dụng của
các NHTM, mà được hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường
tiền tệ thông qua quan hệ vay vốn giữa các doanh nghiệp và các NHTM. Khi
các NHTM thiếu vốn thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn (tái chiết khấu) tiền
trung ương. NHTW là người cho vay thường xuyên, là người cho vay cuối
cùng và là chủ nợ đối với NHTM nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín
dụng, các nguồn tiền gửi của các NHTM và TCTD, theo các định hướng
chính sách cụ thể sau:
12
* Đa dạng hóa các thành phần của khối tiền tệ
Để tăng tầm kiểm sốt của NHTW, tích cực kiềm chế lạm phát, tăng
nguồn tín dụng, người ta thực hiện chính sách đa dạng hóa các thành phần của
khối tiền tệ trong lưu thông bằng cách NHTW thúc đẩy các NHTM thu hút tất
cả các nguồn tiền gửi của mọi doanh nghiệp và dân cư bằng cách mở tài
khoản và thanh tốn qua ngân hàng. Từ đó, phát triển các thành phần khác
của khối tiền tệ như séc và các cơng cụ lưu thơng tín dụng khác bên cạnh tiền
mặt, nhằm tăng nguồn vốn tín dụng của các NHTM và tăng khả năng chi phối
của NHTW đối với khối tiền tệ
* Thay lãi suất thực âm (thường lấy lý do hỗ trợ sản xuất, khuyến khích
đầu tư) bằng lãi suất thực dương (đã loại trừ tỷ lệ lạm phát) để thay CSTT
làm xói mịn nguồn vốn bằng CSTT mở rộng nguồn vốn.
Với một lãi suất thực dương vừa phải, sẽ làm cho dân cư chuyển từ
dạng tiết kiệm phi tài chính (dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản,…) qua dạng
tiết kiệm tài chính, tăng lượng tiền gửi ngân hàng. Bên cạnh đó, cần khuyến
khích các ngân hàng trung gian thực hiện CSTT “mở rộng nguồn vốn” bằng
việc áp dụng lãi suất thực dương, thực hiện triệt để nguyên tắc “vay để cho
vay”. Trong khi đó, các NHTM chỉ tìm đến nguồn tiền trung ương bằng biện
pháp tái cấp vốn.
* Thay CSTT thụ động phục vụ bằng CSTT chủ động điều tiết.
Tín dụng và lãi suất khơng phải là những công cụ “phục vụ” đơn giản
và thụ động đối với các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp quốc doanh)
với bất cứ giá nào, như một thứ cấp phát ngân sách. Trên thị trường tiền tệ,
khách hàng hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn ngân hàng. Và đến lượt mình,
ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả
để đầu tư, khơng phân biệt thành phần kinh tế. Điều này có nghĩa là phải
chuyển từ một CSTT thụ động sang một CSTT tích cực, trong đó ngân hàng
được chủ động điều tiết. Mặt khác, khách hàng muốn tồn tại, cần sửa đổi
phương pháp kinh doanh sao cho có hiệu quả để được vay vốn…
13
1.1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối nhằm mục đích bảo vệ giá trị nội tệ, kích
thích tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều đó, trong lĩnh vực ngoại hối
NHTW thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại trên
các phương diện sau: quản lý ngoại hối; lập và theo dõi diễn biến của cán cân
thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào trị trường hối đoái; xây dựng
và thống nhất quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của đất nước; phấn đấu ổn định tỷ
giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước; quan hệ với
NHTW khác, với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, nhằm tìm kiếm nguồn
tài trợ (vay nợ) nước ngồi có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước
ngoài và thu hút kiều hối; tổ chức quản lý nợ nước ngoài…
Trong số các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đối, quản lý dự trữ
ngoại hối, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá hối đoái là những yếu
tố tác động mạnh tới khối lượng tiền cung ứng và giá trị đồng tiền trong nước,
cụ thể là:
* Chính sách hối đối
Nhiều nước thực hiện chính sách độc quyền hối đối, cấm lưu thơng
tiền nước ngồi trên đất nước mình, chính sách ngoại hối hướng vào việc
ngăn chặn việc tích trữ ngoại hối rải rác trong các pháp nhân và thế nhân,
quản lý việc mua bán ngoại tệ (có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và khi cần
thì mua tại ngân hàng hay tại thị trường hối đoái), thu hút các nguồn ngoại tệ
vào NHTW. Đây là chính sách mua đứt bán đoạn chứ không phải cho phép
các tổ chức dân cư và người cư trú được cất giữ ngoại tệ trên tài khoản mở ở
các ngân hàng. Bởi vì điều này chỉ có lợi cho nước phát hành số ngoại tệ đó.
Nhờ phát hành tiền, họ đã thu về khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà chưa bị
địi nợ, như một khoản tín dụng tự nguyện khơng phải trả lãi. Về phía các
ngân hàng trong nước, nếu huy động tiền gửi khơng kỳ hạn hoặc ngắn hạn thì
14
cũng không thể sử dụng được nhiều số ngoại tệ đó. Tất yếu họ phải đem gửi
ngân hàng nước ngồi để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút ra của khách hàng và
tìm kiếm chút lãi để bù đắp lãi suất tiền gửi đã huy động vào. Việc vay hoặc
huy động ngoại tệ dài hạn lại là vấn đề khác.
* Dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối là lượng ngoại hối được lưu giữ tại NHTW nhằm cân
bằng cán cân thanh toán quốc tế và can thiệp vào cung, cầu ngoại hối trên thị
trường để điều tiết tỷ giá hối đối. Do đó, mỗi quốc gia đều có dự trữ ngoại
hối, tùy theo khả năng nền kinh tế nước đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu
cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng trong nước.
NHTW mua và gia tăng dự trữ ngoại hối sẽ làm gia tăng khối lượng tiền tệ.
Ngược lại, khi NHTW bán ngoại tệ ra, giảm dự trữ ngoại hối thì cũng đồng
thời làm giảm khối lượng tiền tệ. Do đó, qua việc mua bán ngoại hối, NHTW
thực hiện can thiệp thị trường, chủ động tác động tỷ giá hối đoái theo chiều
mong muốn.
* Thị trường hối đoái
Thị trường hối đối (cịn gọi thị trường ngoại hối) là nơi diễn ra các
hoạt động giao dịch, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh tốn có giá trị
như ngoại tệ.
NHTW với tư cách là người thực thi và điều hành CSTT, có thể tác
động trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường ngoại hối thông qua cung, cầu
ngoại hối. Trong đó, tác động trực tiếp bằng cách thiết lập quỹ bình ổn hối
đối và quỹ dự trữ ngoại hối. Cụ thể, khi NHTW dùng những quỹ này để tác
động đến cung, cầu ngoại hối như sau: Nếu cầu ngoại hối cao, tỷ giá hối đối
có xu hướng tăng q mức, NHTW sẽ bán ngoại hối từ dự trữ ngoại hối làm
tăng khả năng cung ngoại hối trên thị trường trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, tỷ giá hối đoái từ từ giảm xuống. Ngược lại nếu tỷ giá hối đối có
xu hướng giảm q giới hạn cho phép, NHTW sẽ mua ngoại hối bằng đồng
15
nội tệ làm tăng cầu nội tệ trên thị trường, trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên và dự trữ ngoại hối cũng tăng theo.
Tác động gián tiếp là thông qua hệ thống NHTM để tác động vào việc
mua bán ngoại tệ của các doanh nghiệp như việc quy định khung của tỷ giá trên
thị trường liên ngân hàng, quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ, lượng ngoại tệ
được phép mua, các quy định về giao dịch ngoại hối của các doanh nghiệp và
dân chúng qua ngân hàng,…Việc tác động của NHTW vào cung cầu ngoại hối
nhằm mục đích điều tiết tỷ giá hối đoái để thực hiện các mục tiêu của CSTT.
* Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ phản ánh tương quan về mặt lượng giữa hai loại
tiền có khả năng chuyển đổi cho nhau, trong giao dịch thực tế thì tương quan
đó đồng thời phản ánh tương quan trao đổi sức mua giữa nội tệ với ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu
ngoại tệ. Nhưng đến lượt mình, tỷ giá hối đối lại là đòn bẫy điều tiết cung
cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đối với
sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu, tình trạng tài chính, tiền
tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại tệ của đất
nước…- chẳng hạn:
Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp (đối với ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập
khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu, vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước
ngồi, gây trở ngại cho ngành sản xuất hàng xuất khẩu, bất lợi cho việc chuyển
dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, dự trữ ngoại tệ dễ bị xói mịn.
Một tỷ giá hối đối cao (đối với ngoại tệ) sẽ bất lợi cho nhập khẩu,
nhưng khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu rẻ hơn, hàng xuất khẩu
đắt hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm thị trường tiêu thụ, kích thích
chuyển dịch ngoại tệ vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng.
Do đó, để quản lý và ổn định tỷ giá hối đoái cần phải:
16
Thứ nhất, thực hiện chính sách thặng dư hay tối thiểu là thăng bằng cán
cân thanh toán quốc tế bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả các nguồn ngoại tệ.
Thứ hai, kiểm soát và hạ thấp tỷ lệ lạm phát để ổn định giá cả và nâng
cao sức mua đối nội của đồng tiền, tạo sự tác động ngược lại đối với tỷ giá
hối đối.
Thứ ba, có chính sách lãi suất tín dụng thích hợp để thu hút các khoản
tiết kiệm và đầu tư, kể cả bằng nguồn ngoại tệ từ ngoài vào, đồng thời hạn chế
việc săn lùng ngoại tệ và vàng bạc
Thứ tư, tạo quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường hối đoái khi
cần thiết. Tuy nhiên, việc can thiệp chỉ có thể tiến hành khi sự biến động đó
xuất phát thuần túy vào quan hệ cung và cầu. Nếu vì ngun tắc khác, ví dụ như
lạm phát hoặc thiểu phát, thì khơng thể dùng biện pháp can thiệp được mà phải
tìm các biện pháp khác nhau hạn chế lạm phát hay khắc phục thiểu phát, mà
không nên dùng dự trữ để can thiệp, vì như vậy chẳng khác nào là tự sát.
1.1.2.4. Chính sách tiền tệ trong quan hệ với ngân sách Nhà nước
CSTT của NHTW muốn có tác dụng mong muốn cần xử lý mối tương
quan của nó với ngân sách nhà nước. Tùy theo tình trạng ngân sách có cân
bằng hay khơng sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác
nhau đối với lưu thông tiền tệ. Do vậy, cách xử sự của CSTT trong quan hệ
với ngân sách cũng khác nhau trong những trường hợp sau đây:
* Trường hợp ngân sách cân bằng
Khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi lưu thơng một lượng tiền
nào đó và chi số tiền ấy vào guồng máy kinh tế. Tổng khối lượng tiền tệ
khơng thay đổi vì nó được tăng giảm một ngạch số như nhau. Tuy nhiên, nó
có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm, trong khi đó, chính
phủ phải dùng số tiền thuế thu được cấp phát cho những người có thu nhập
thấp, hay cho chi tiêu của chính phủ thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu
17
tư giảm và kết quả là có khả năng làm tăng dần giá cả. Nếu Nhà nước dùng số
chi ngân sách để đầu tư, thì số đầu tư của tư nhân giảm, trong khi đầu tư của
Nhà nước tăng lên. Tuy nhiên, trong trường hợp ngân sách thăng bằng, cơ cấu
thu và chi ngân sách khơng cùng chiều vẫn có khả năng gây mất cân đối cục
bộ trong quan hệ tiền hàng.
* Trường hợp ngân sách thiếu hụt
Thâm hụt ngân sách sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến nền kinh tế, tùy
theo cách tài trợ số chênh lệch ấy. Trong thực tế, có 4 cách để tài trợ thiếu hụt
ngân sách: vay dân cư, vay ở hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong
nước, vay NHTW, vay ở nước ngồi. Trong đó, vay của NHTW và vay của
nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ, gây áp lực lạm phát
tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của các NHTM trong nước, nguy cơ làm
tăng khối tiền tệ nhẹ hơn. Áp lực lạm phát ở các nước đang phát triển mạnh
hơn các nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp
vay NHTW bằng cách phát hành tiền trực tiếp và nợ nước ngồi.
Như vậy, khơng có sự lựa chọn nào tốt hơn là phải phấn đấu thực hiện
một ngân sách Nhà nước cân bằng nguồn thu thuế và tiết kiệm chi tiêu.
Không nên bội chi ngân sách để bù đắp chi phí hành chính, mà tối thiểu, ngân
sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi thường xuyên. Phần chi
xây dựng hạ tầng cơ sở và chi phát triển nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng
cách phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ để vay nhân dân, vay
các NHTM trên thị trường tiền tệ (ngắn hạn) và thị trường chứng khốn (dài
hạn) hoặc vay nước ngồi. Theo chuẩn quốc tế, mức độ bội chi ngân sách
phải vay nợ để bù đắp, nếu chiếm khoản 2 - 3% tổng sản phẩm quốc nội là
chấp nhận được. Tuy nhiên, không nên coi khoảng vay của Nhà nước là
nguồn thu phụ thêm, mà đó chỉ là nguồn bù đắp bội chi ngân sách.
* Trường hợp ngân sách thặng dư
Đây là trường hợp rất hiếm, vì nó rút bớt khối tiền tệ dư thừa, tác động
có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
18
1.1.3. Các cơng cụ thực thi chính sách tiền tệ
Cơng cụ thực thi CSTT là những công cụ được các chủ thể sử dụng (kể
cả chủ thể phi Nhà nước) để thực thi chính sách. Vì vậy, cơng cụ thực thi
CSTT có phân thành 2 nhóm là nhóm các cơng cụ bên trong bao gồm: tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở; nhóm các
cơng cụ bên ngồi: mơi trường kinh tế xã hội, vấn đề dân chủ hóa cơ sở, bệnh
quan liêu, những tác động bên ngồi, hệ thống thơng tin, giáo dục, hành pháp,
… Tuy nhiên trong giới hạn của luận văn này tác giả chỉ tập trung phân tích
nhóm các công cụ bên trong.
1.1.3.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi lại Ngân hàng
NHNN Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia [28]. Theo luật định, khi
các NHTM huy động được vốn tiền gửi trong xã hội, phải trích ra một phần của
số tiền gửi này để gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc tại NHTW và để tại quỹ của
mình. Số tiền gửi được trích là theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định của NHTW.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số giữa số lượng phương tiện thanh tốn cần
vơ hiệu hóa trên tổng số tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn, nhằm điều chỉnh
khả năng thanh tốn của NHTM. Đó là, tỷ lệ phần trăm giữa lượng dự trữ bắt
buộc trên tổng số tiền gửi tại hệ thống NHTM. Tỷ lệ này do NHNN quy định
tùy theo từng thời kỳ, từng loại tiền gửi và mang tính pháp lý bắt buộc phải
thi hành. Thông qua điều chỉnh trực tiếp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác
động cả vào khối lượng và giá cả tín dụng của NHTM.
Về lý thuyết, khi NHTW thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây tác động
làm thay đổi số nhân tiền tệ và tất nhiên sẽ gây ảnh hưởng thay đổi mức cung
tiền. Cụ thể, khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm số nhân tiền và
ngược lại, khi giảm dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng số nhân tiền. Bên cạnh đó, việc
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các
ngân hàng đồng thời tác động đến nguồn vốn có thể sử dụng được để cho vay
19
nên tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của các ngân hàng. Cũng giống
như mối quan hệ giữa số nhân tiền tệ và dự trữ bắt buộc, mối quan hệ giữa lãi
suất cho vay của các NHTM và dự trữ bắt buộc là mối quan hệ nghịch chiều.
Mặc dù dự trữ bắt buộc có ưu điểm là cơng cụ mang tính chất đầy
quyền lực vì nó mang nặng tính chất hành chính và nó gây tác động như nhau
đối với các ngân hàng nhưng nhược điểm của nó là làm tăng chi phí đầu vào
cho các ngân hàng do đó khơng thể tăng dự trữ bắt buộc lên q cao vì nó sẽ
làm gia tăng gánh nặng chi phí cho ngân hàng và đẩy lãi suất cho vay lên cao
hơn nhiều. Bên cạnh đó, do việc tính tốn và trích lập dự trữ bắt buộc là khá
phức tạp khi thực thi, không thể thực hiện thường xuyên hàng ngày do vậy
nếu liên tục thay đổi dự trữ bắt buộc sẽ rất có thể gây nên tình trạng bất ổn
định cho các ngân hàng và làm khó khăn cho công tác quản trị thanh khoản của
ngân hàng. Hơn nữa, khi thay đổi một tỷ lệ nhỏ trong dự trữ bắt buộc có thể gây
nên sự thay đổi đáng kể của số nhân tiền và kết quả, với sự khuyếch đại của cơ
số tiền - do cơ số tiền là rất lớn về giá trị tuyệt đối - sẽ gây nên sự thay đổi rất lớn
trong cung tiền. Nói cách khác, không thể dùng dự trữ bắt buộc để thực hiện
những điều chỉnh nhỏ trong mức cung tiền. Vì những lý do đó, các nước phát
triển thường ít khi thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc để điều hành CSTT dù vẫn luôn
ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn, trong suốt thời gian xảy ra khủng
hoảng tài chính năm 2008, NHTW của các nước như Hoa Kỳ, Anh Quốc, .v.v.
đều đã không thực hiện việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tuy nhiên, công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc được sử dụng ở hầu hết các
quốc gia. Nhìn chung, ở các nước phát triển tỷ lệ này thường được quy định ở
mức 5% - 8% và ổn định trong một thời gian khá dài. Còn ở các nước đang
phát triển, do kinh tế thị trường có có biến động, hệ thống tài chính - ngân
hàng lạc hậu, tỷ lệ này thường được xác định ở mức cao hơn (8% - 12%) và
thường xuyên phải thay đổi, tùy theo biến động thị trường tiền tệ và mục tiêu
ngắn hạn đặt ra của chính sách [41].
20
1.1.3.2. Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu hay lãi suất chiết khấu (gọi chung là lãi suất
chiết khấu) của NHTW là lãi suất mà NHTW áp dụng cho các món vay đối
với các ngân hàng và một số các trung gian tài chính phi ngân hàng khác
thông qua các công cụ cho vay của mình. Nói cách khác, lãi suất chiết khấu là
lãi suất được áp dụng nội bộ giữa NHNN với các NHTM khi các NHTM cần
vay cấp cứu để trang trải nhu cầu tiền mặt ngắn hạn.
Ở Việt Nam, Lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được
áp dụng khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho
các TCTD [28]. Như vậy, NHNN áp dụng lãi suất chiết khấu cho hoạt động chiết
khấu của mình tức là cho các TCTD vay tiền bằng cách mua lại các giấy tờ có
giá cịn thời hạn thanh tốn. Theo quy định hiện hành, thơng thường NHNN chỉ
chiết khấu các giấy tờ có giá của khu vực nhà nước được phát hành bằng VNĐ
bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và trái phiếu
NHNN. Thời gian chiết khấu tối đa là 91 ngày, do vậy nếu giấy tờ có giá có thời
hạn cịn lại khơng q 91 ngày thì mới có thể được NHNN chiết khấu tồn bộ
thời gian cịn lại. Trường hợp giấy tờ có giá có thời hạn cịn lại dài hơn 91 ngày
thì NHNN sẽ áp dụng phương thức chiết khấu có kỳ hạn. Tuy nhiên, điều này
khơng có nghĩa là các TCTD có thể chiết khấu “tự do” với NHNN mà việc chiết
khấu được thực hiện trong phạm vi hạn mức chiết khấu do NHNN xác định.
Dựa trên mục tiêu CSTT và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhu cầu vốn khả dụng và
dự báo biến động nhu cầu vốn khả dụng cùng với các chỉ tiêu có liên quan khác,
NHNN sẽ xác định tổng hạn mức chiết khấu cho các TCTD, trên cơ sở đó sẽ xác
định hạn mức tín dụng cho từng TCTD.
Bên cạnh việc điều tiết cung tiền thông qua việc cấp tín dụng cho các
TCTD - chủ yếu là các ngân hàng - thông qua phương thức chiết khấu,
NHNN Việt nam cịn thực hiện việc cấp tín dụng thơng qua việc cho vay thấu
chi qua đêm theo lãi suất cho vay thấu chi qua đêm - thường bằng với lãi suất
chiết khấu- và cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, cho vay dựa
21
trên hồ sơ tín dụng của các TCTD theo lãi suất tái cấp vốn - thường cao hơn
lãi suất chiết khấu. Như vậy có thể thấy NHNN đang sử dụng lãi suất chiết
khấu như là lãi suất “sàn” và lãi suất tái cấp vốn như là lãi suất “trần” để điều
hành lãi suất cùng với việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở để
hướng lãi suất liên ngân hàng - lãi suất cho vay qua đêm giữa các NHTM biến động trong mức “sàn” và “trần” tương tự theo cách mà Cục dự trữ liên
bang Hoa kỳ sử dụng lãi suất quỹ dự trữ liên bang - có vai trò là lãi suất “sàn”
- và lãi suất chiết khấu - có vai trị là lãi suất “trần”.
Về mặt lý thuyết, khi NHTW thay đổi lãi suất chiết khấu sẽ tác động
gián tiếp làm thay đổi cơ số tiền tệ và qua đó tác động đến cung tiền nên sẽ
gây ảnh hưởng để làm thay đổi lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của
các trung gian tài chính và đây cũng là cách thức thơng dụng mà NHTW sử
dụng để thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng. Tuy nhiên, nhược điểm
của công cụ lãi suất chiết khấu là NHTW không thể đảo ngược khi có sai lầm
trong việc điều hành của mình và quan trọng hơn nữa là hệ thống ngân hàng có
thể khơng hành động theo ý đồ mà NHTW mong muốn (sơ đồ 1.1).
Sơ đồ 1.1: Dây chuyền tác động của lãi suất chiết khấu
Lãi suất thị
trường
Lãi
suất
chiết
khấu
Cầu nội
địa
Giá cả tài
sản
Tổng
cầu
Áp lực
lạm phát
Cầu bên
ngồi
Lạm
phát
Mong ước
dự tính
Tỷ giá hối
đối
Giá nhập
khẩu
22
1.1.3.3. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ tái chiết khấu là một cửa rất quan trọng để NHTW phát hành
tiền vào guồng máy vận động của nền kinh tế, song nó chỉ thực hiện được khi
các NHTM nảy sinh nghiệp vụ vay mượn ở NHTW. Trong thực tế, nhiều
NHTM không chịu vay tiền của NHTW vì những thủ tục ngặt nghèo. Do đó,
ngồi nghiệp vụ tái chiết khấu, thì nghiệp vụ thị trường mở là một cửa quan
trọng khác để NHTW điều chỉnh khối lượng tiền trong lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá
do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện CSTT quốc gia [28].
Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ được NHTW thực hiện
bằng cách mua hoặc bán ngắn hạn các giấy tờ có giá trên thị trường tài chính
nhằm thay đổi cơ số tiền tệ, qua đó tác động đến mức cung tiền và lãi suất.
Khác với các thị trường khác, chủ thể tham gia trên thị trường chỉ bao
gồm hai đối tượng là NHTW và các trung gian tài chính, hai đối tượng này
ln ở hai vị thế ngược nhau trên thị trường - kẻ bán, người mua hoặc ngược
lại. Tất nhiên, NHTW luôn là chủ thể nắm vai trò chủ động quyết định khối
lượng, chủng loại giấy tờ có giá và vị thế mua hay bán. Do vậy, đây là công cụ
mà NHTW các nước phát triển thường hay sử dụng nhất vì nó cực kỳ linh
hoạt, chính xác, thực hiện nhanh chóng và quan trọng hơn nữa là NHTW hầu
như kiểm sốt hồn tồn nghiệp vụ này, có thể dễ dàng đảo ngược vị thế trên
thị trường khi có sai lầm trong q trình thực thi. Điều cần lưu ý là NHTW
hoạt động trên thị trường mở không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà hướng đến
mục tiêu tối thượng là điều tiết cung tiền. Trong khi đó ở vị thế ngược lại, các
trung gian tài chính tham gia vào thị trường này có thể vì mục tiêu lợi nhuận
hoặc mục tiêu thanh khoản hoặc cả hai.
Về lý thuyết cơ bản, khi NHTW thực hiện việc mua các giấy tờ có giá
tức là làm gia tăng cơ số tiền qua đó tác động làm tăng cung tiền và ngược lại,
khi NHTW bán các giấy tờ có giá thì sẽ kéo theo làm giảm cung tiền. Tuy
23
nhiên, tác động thực sự của nghiệp vụ thị trường mở là rất lớn, có thể nhìn
nhận chuỗi tác động qua sơ đồ 1.2.
Tác động của nghiệp vụ thị trường mở đến cơ số tiền là tác động trực tiếp
và đương nhiên nhưng nghiệp vụ thị trường mở sẽ đem lại những tác động khác
nhau đến số nhân tiền tùy theo cách thức giao dịch của NHTW. Nếu NHTW giao
dịch với các NHTM thì khả năng gia tăng số nhân tiền sẽ cao hơn rất nhiều so với
việc NHTW giao dịch với các trung gian tài chính phi ngân hàng do bởi các trung
gian này có thể rút tiền mặt hoặc thậm chí dù họ để lượng tiền đó gửi tại hệ thống
ngân hàng thì các NHTM cũng phải trích lập dự trữ bắt buộc, làm giảm đi đáng kể
mức tác động đến số nhân tiền từ nghiệp vụ thị trường mở.
Sơ đồ 1.2: Chuỗi tác động của NHTW khi mua giấy tờ có giá trên
thị trường mở
NHTW mua GTCG trên thị trường mở
Tăng dự trữ, tăng cơ số tiền tệ, cung tiền
Giảm lãi suất
Nội tệ giảm giá trên thị trường ngoại
hối
Gia tăng xuất khẩu
ròng
Gia tăng sức mua và đầu
tư
Gia tăng tổng cầu
Tăng tốc độ tăng GDP thực và
lạm phát
24
Về mặt kỹ thuật, NHTW tổ chức giao dịch trên thị trường mở thông qua
việc đấu thầu một cách tự do, không áp đặt và để cho quy luật cung cầu tự
nhiên quyết định giá của các giấy tờ có giá - tức là số tiền mà NHTW nhận
thanh toán hoặc thanh tốn cho các trung gian tài chính tham gia - thơng qua
lãi suất được hình thành từ việc đấu thầu. Trên thực tế, việc đấu thầu có thể
được thực hiện thông qua hai phương thức là đấu thầu khối lượng hoặc đấu
thầu lãi suất.
Ở phương thức đấu thầu khối lượng, NHTW sẽ xác định khối lượng trúng
thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các đối tượng tham gia và khối lượng
thông báo của NHTW theo mức lãi suất ấn định được thơng báo trước. Do đó,
đấu thầu theo phương thức này NHTW quyết định lãi suất trước nhưng tác động
đến hoạt động kinh tế thông qua việc phân bổ quy mô khối lượng cung tiền vào
nền kinh tế và qua đó gián tiếp tác động đến lãi suất của các NHTM.
Trong khi đó, ở phương thức đấu thầu lãi suất, NHTW sẽ xác định lãi
suất trúng thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các đối tượng tham gia và và
khối lượng thông báo của NHTW. Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp
nhất (nếu NHTW mua giấy tờ có giá) hoặc lãi suất dự thầu cao nhất (nếu
NHTW bán giấy tờ có giá) mà tại mức lãi suất đó đạt được khối lượng giấy tờ
có giá NHTW cần mua hoặc cần bán. Tùy theo quy định của mỗi nước hoặc
diễn biến tình hình thực tế, NHTW có thể quy định việc đấu thầu lãi suất theo
nguyên tắc lãi suất thống nhất - đấu thầu một giá theo kiểu Hà lan - hoặc
nguyên tắc lãi suất riêng lẽ - đấu thầu nhiều giá theo kiểu Hoa kỳ.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách tiền tệ
1.1.4.1. Các chủ thể thực thi
Đối với Việt Nam, việc tổ chức và thực thi CSTT được quy định ở Điều
3 của Luật NHNN như sau:
25
Quốc hội quyết định và giám sát việc thực thi CSTT của quốc gia, mức
lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với mức tăng trưởng kinh
tế, cân đối ngân sách nhà nước.
Chủ tịch nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến Pháp và
Pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, tham gia, phê chuẩn điều ước
quốc tế, thỏa thuận quốc tế nhân danh Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về lĩnh vực tài chính, tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Chính phủ xây dựng dự án CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng
năm trình Quốc Hội quyết định, tổ chức thực thi CSTT quốc gia, quyết định
lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số
tiền này và định kỳ báo cáo Ủy Ban thường vụ quốc hội, quyết định các chính
sách cụ thể khác và các giải pháp thực thi.
NHTW là cơ quan của Chính Phủ thực hiện chức năng xây dựng và
thực thi CSTT quốc gia, quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và
hoạt động Ngân hàng; là ngân hàng phát hàng, ngân hàng của các TCTD và
Ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính Phủ. Hoạt động của NHTW nhằm
ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an tồn hoạt động ngân hàng và
các TCTD, thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Để tư vấn cho Chính Phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính Phủ về CSTT, theo điều 4 Luật NHNN, Chính
Phủ cho thành lập Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia, bao gồm: Chủ tịch là phó
thủ tướng Chính phủ, Ủy viên thường trực là Thống đốc NHNN, các ủy viên
khác là các đại diện của Bộ Tài Chính, Bộ Thương mại, Bộ Kế Hoạch và Đầu
tư, các bộ, ngành hữu quan khác và các chun gia về lĩnh vực ngân hàng
Bên cạnh đó, cịn có các chủ thể khác như các nhà mơi giới và kinh
doanh chuyên nghiệp.
1.1.4.2. Các nhân tố khác