Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

SKKN Hình thành và củng cố tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ thông theo chương trình 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.52 KB, 95 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Giáo dục nước ta hiện nay đã và đang không ngừng đổi mới về chương
trình, phương pháp, về tư duy trong dạy và học để thích nghi với thế giới đang rất
nhiều biến động. Dạy và học môn Ngữ văn cũng nằm trong xu thế đổi mới ấy. Các
nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, những người yêu văn chương luôn đặt ra câu hỏi
phải làm thế nào để đưa môn Ngữ văn trở về với vị trí xứng đáng của nó?
Giáo sư Phan Trọng Luận ln trăn trở: "Vấn đề thứ nhất là chương trình
một mơn học thay đổi như thế nào chứ khơng phải là có nên thay đổi hay khơng?".
Như mọi người đều biết, chương trình dạy học văn đã thay đổi từ ba phân môn
được xây dựng tách rời, độc lập đến chương trình Ngữ văn mới được xây dựng
theo nguyên tắc tích hợp. Tích hợp ở đây được hiểu là sự gắn kết, phối hợp các
lĩnh vực tri thức gần nhau của các phân môn Đọc-văn, Tiếng Việt, Làm văn nhằm
hình thành và rèn luyện tốt các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe cho học sinh.
Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 thực hiện ở cả 3 cấp học được xây dựng
theo hình thức cuốn chiếu và năm học tới 2022-2023 sẽ thực hiện cho học sinh lớp
10 THPT.
Theo tinh thần của chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo trục ĐọcViết- Nói và Nghe nhằm hình thành cho các em năng lực ngơn ngữ ở tất cả các
hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và xử lí
thơng tin từ nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp HS sử dụng tiếng Việt
chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác nhau trong
nhiều ngữ cảnh đa dạng.
Số tiết dạy đọc hiểu văn bản ở cả chương trình hiện hành và chương trình
GDPT 2018 thực hiện ở năm học tới chiếm tỉ lệ lớn vì thế khi dạy đọc- hiểu văn
bản cho học sinh ở trường THPT giáo viên phải vận dụng một cách tổng hợp các
tri thức và kĩ năng khơng chỉ của Ngữ Văn mà cịn huy động các kiến thức và kĩ
năng của các môn học khác nhằm đáp ứng yêu cầu về sự tăng lên của khối lượng
tri thức ngày càng cao của cuộc sống hiện đại.
Trọng tâm vẫn là thông qua những văn bản văn học đặc sắc, giúp HS phát
triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt, giúp
HS biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có


hứng thú viết, thảo luận về các văn bản cùng thể loại nhờ đó các em có cơ hội
khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời
sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn.
Giúp HS phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện,
biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận;
giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập,
năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng.
1


Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp
tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học
được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc
nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể
tự đọc sách để khơng ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc
sống và công việc.
Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng
Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn
hóa. Giúp HS có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với đời
sống xã hội.
Bồi dưỡng cho HS có thái độ tích cực và tình u đối với tiếng Việt và văn
học, qua đó biết trân trọng, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam, có
thói quen và niềm vui đọc sách, có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại, có khả năng hội nhập quốc tế, trở thành những công dân tồn cầu, nhưng ln
có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra chương trình Ngữ văn ở bậc trung học phổ thơng, mơn Ngữ văn cịn có
thêm mục tiêu trang bị kiến thức và kĩ năng theo định hướng nghề nghiệp của HS.
Chẳng hạn, những HS có xu hướng học đại học những ngành nghề có liên quan
trực tiếp đến Ngữ văn thì được học sâu hơn dưới hình thức các chuyên đề tự chọn.
Chương trình Ngữ văn 2018 được xây dựng theo trục Đọc Viết-nói Và Nghe

nhưng Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học then chốt của môn Ngữ văn.
Thứ nhất, giáo viên cần xác định rõ vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn
từ cấu trúc chương trình:
- Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học quan trọng bậc nhất, khi chương trình
đã xác định rõ hai trục chính của dạy học Ngữ văn là đọc văn và làm văn.
- Thời gian dành cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn thời gian dạy
học tồn mơn học.
- Phần cung cấp dữ liệu phục vụ trực tiếp cho dạy học đọc hiểu văn bản
chiếm phần lớn số trang của sách giáo khoa Ngữ văn cả trong chương trình hiện
hành và SGK chương trình giáo dục phổ thông 2018 .
Thứ hai, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần xác định thêm vị trí của dạy học
đọc hiểu văn bản nhìn từ mục tiêu của mơn Ngữ văn. Dạy học đọc hiểu văn bản đảm
bảo phần lớn mục tiêu bồi dưỡng “tri thức ngữ văn” cho học sinh (tri thức ngữ văn
là một thuật ngữ mang tính quy ước, dùng để chỉ các loại tri thức mà mơn Ngữ văn
có nhiệm vụ đưa đến/bồi dưỡng/ củng cố cho học sinh hoặc giúp học sinh tự kiến
tạo cho mình trong q trình học).
Thứ ba, vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ hoạt động kiểm tra, đánh giá.

2


- Nội dung kiến thức của dạy học đọc hiểu cũng là nội dung chính của kiểm
tra, đánh giá (khơng chỉ đối với học sinh mà còn đối với cả giáo viên).
- Phương pháp dạy học đọc hiểu là thước đo chính để đánh giá việc thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên Ngữ văn.
- Năng lực dạy học đọc hiểu là tham số quan trọng nhất để đánh giá năng lực
dạy học của giáo viên Ngữ văn (trong những kỳ thi giáo viên giỏi, giáo viên gần
như bắt buộc phải dạy một “bài” đọc hiểu văn bản, ngoài những “bài” khác, hoặc
làm văn, hoặc tiếng Việt).
Trong chương trình SGK Ngữ văn 2018 đã rất chú ý vấn đề dạy đọc. Đọc là

một trong bốn kĩ năng chính cần xác lập cho người học trong chương trình giáo
dục phổ thông mới.
Như vậy mục tiêu cốt lõi của hoạt động đọc là giúp học sinh nắm được cách
đọc, rèn được cách đọc, từ đó có năng lực đọc, chiếm lĩnh cách đọc, có được
những tri thức cần thiết về cách đọc để khi học sinh tiếp nhận với bất kì văn bản
nào cùng loại thì vẫn đọc hiểu được. Nhằm giúp học sinh ở cấp THPT được trang
bị thật kĩ lưỡng những kĩ năng quan trọng, cần thiết, các em cần được giáo dục để
trở thành những thanh niên mạnh dạn, tự tin, chủ động và sáng tạo trong giao tiếp
và cơng việc, có khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập trong nhiều tình
huống. Chúng ta còn nhớ cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng phát biểu quan điểm
chỉ đạo việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường phổ thông: "Ngày nay, sự hiểu
biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao
nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan
trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập,
phải tìm tịi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của
mình...". Như vậy dạy học văn là một q trình rèn luyện tồn diện cho nên giáo
viên phải không ngừng trăn trở đổi mới về phương pháp dạy học bộ mơn nói
chung, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nói riêng. Việc hình thành và củng cố
kiến thức thể loại vào dạy học đọc hiểu văn bản cũng đồng thời đáp ứng được yêu
cầu trên. Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn
2018, việc hình thành kiến thức ngơn ngữ và văn học cho học sinh (HS) phải được
tích hợp với các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Từ định hướng đó, sách giáo
khoa (SGK) Ngữ văn sẽ được thiết kế theo mơ hình tổ chức hoạt động thay cho mơ
hình cung cấp kiến thức. Làm thế nào để qua các hoạt động, HS có thể có được
một nền tảng kiến thức vững vàng, đó là một vấn đề hiện nay cần được đặc biệt
chú ý nghiên cứu.
Muốn thực hành đọc tốt văn bản (VB), người đọc phải có được những kiến
thức cơ bản về loại, thể loại. Nhưng hiện nay, trong khi Chương trình và SGK
khơng bố trí những tiết học riêng (mang tính lí thuyết) về loại, thể loại VB, giáo
viên (GV) cần phải làm gì để cuộc tiếp xúc của HS với VB được diễn ra thuận lợi?

Rõ ràng đây là một câu hỏi khó cần được tìm hiểu, giải đáp.
3


Kiến thức về thể loại VB vốn rất phong phú, nhưng trong nhà trường phổ
thơng, phạm vi kiến thức đó cần được xác định theo nguyên tắc nào và và việc xây
dựng quy trình tiếp nhận kiến thức đó phải đảm bảo điều kiện gì? Với một GV
Ngữ văn, điều này gây khơng ít băn khoăn.
Xuất phát từ những câu hỏi khoa học nêu trên đồng thời đáp ứng yêu cầu của
dạy học hiện đại và góp một chút nhỏ tăng thêm tình u đối với mơn Ngữ văn là
động lực giúp tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Hình thành và củng cố
tri thức thể loại trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 Trung học phổ
thơng theo chương trình 2018”. Trong khn khổ của sáng kiến kinh nghiệm
này, tôi xin định hướng một số biện pháp hình thành, củng cố kiến thức về thể loại
vào dạy học đọc- hiểu Văn bản Ngữ văn 10 THPT theo định hướng chương trình
mới 2018.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
2.1.Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm hướng đến việc góp phần nâng cao chất lượng của
hoạt động đọc văn bản trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo hướng phát
triển phẩm chất và năng lực của HS.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của sáng kiến kinh
nghiệm là vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS lớp 10 qua
hoạt động đọc VB theo Chương trình giáo dục phổ thơng môn Ngữ văn 2018.
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, SGK theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018
đang được biên soạn theo hình thức cuốn chiếu. Trong năm học tới 2021-2022,
SGK Ngữ văn 10 sẽ chính thức được dạy học trong nhà trường trung học phổ

thông (THPT). Chúng tôi may mắn có được điều kiện thuận lợi là nghiên cứu trước
chương trình SGK Ngữ Văn 10 trên bản mềm theo chương trình giáo dục phổ
thơng 2018. Để tạo thuận lợi cho việc khai thác tài liệu và triển khai hoạt động dạy
học trong năm học tới 2022-2023, sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi chỉ tập
trung bàn về vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS lớp 10.
- Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chung.
- Nghiên cứu dựa trên thực tiễn giảng dạy và quá trình giảng dạy tại trường
THPT Yên Thành 3 và các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành.
- Phạm vi nghiên cứu và triển khai thực hiện: Để thực hiện được đề tài này, tôi
dựa vào SGK Ngữ văn lớp 10 (Ban cơ bản) chương trình hiện hành và SGK Ngữ
văn 10 chương trình GDPT mới 2018.
4


- Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh lớp lớp 10 trường THPT Yên Thành 3 và
HS lớp 10 các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Khái quát tình hình nghiên cứu vấn đề hình thành và củng cố kiến thức về
thể loại cho HS qua hoạt hoạt động đọc VB.
– Thuyết minh về các khái niệm cơ sở của đề tài.
– Xây dựng hệ thống nguyên tắc và biện pháp hình thành, củng cố kiến thức
thể loại cho HS lớp 10 qua hoạt động đọc VB.
– Tiến hành thực nghiệm để xác nhận tính hiệu quả của những biện pháp dạy
học đã đề xuất.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, chúng tôi phối hợp sử dụng
nhiều phương pháp thuộc hai nhóm: nghiên cứu lý thuyết (tài liệu) và nghiên cứu
thực tiễn. Cụ thể, các phương pháp chính được sử dụng là:
- Phân tích và tổng hợp lý thuyết (tài liệu);
- Phương pháp quan sát;

- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương phápThực nghiệm.
5. Đóng góp của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm đã nêu được một hệ thống biện pháp mang tính khả thi
nhằm xác lập cho HS một nền tảng kiến thức cơ bản về thể loại, giúp cho việc tổ
chức hoạt động đọc văn bản đạt được kết quả tích cực, đảm bảo định hướng phát
triển năng lực và phẩm chất của người học.
6. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm
Phần I. Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
3. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm
Phần II. Nội dung nghiên cứu
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài .
1.1.Cơ sở lý luận của đề tài
1.2.Cơ sở thực tiễn của đề tài
5


Chương 2. Một số nguyên tắc và biện pháp hình thành, củng cố
kiến thức về thể loại cho học sinh lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản.
2.1. Nguyên tắc hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh lớp
10 qua hoạt động đọc văn bản.
2.2. Các biện pháp hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho học sinh
lớp 10 qua hoạt động đọc văn bản.
Chương 3. Thiết kế giáo án thực nghiệm.
Phần III. Kết luận và kiến nghị

6



Phần II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1.Thế nào là dạy học Đọc - hiểu văn bản?
Thuật ngữ đọc hiểu văn bản được dùng phổ biến từ khi bộ sách giáo khoa
Ngữ văn tích hợp ra đời (cuốn đầu tiên là Ngữ văn 6, xuất bản năm 2002 và Ngữ
văn 10, xuất bản năm 2006). Ở phạm vi hẹp hơn, thuật ngữ này đã được dùng
chính thức trong chương trình Ngữ văn tổng thể, biên soạn năm 2000. Thuật ngữ
đọc hiểu được dùng song song với thuật ngữ đọc văn, tuy nhiên vẫn có sự phân
biệt. Để gọi tên một loại giờ mà đối tượng khám phá - chiếm lĩnh của thầy và trò là
văn bản văn học, người ta có thể dùng thay thế lẫn nhau hai thuật ngữ đọc hiểu văn
bản và đọc văn. Nhưng thuật ngữ đọc văn khá quen dùng chưa cho thấy rõ tính
hướng đích của giờ học (hay hoạt động) khám phá văn bản văn học. Đọc ở đây
không bó hẹp trong đọc diễn cảm mà phải gắn liền với sự hiểu - hiểu theo nghĩa
toàn diện. Rõ ràng, trong hệ thống thuật ngữ của môn Ngữ văn, đọc hiểu không
đơn giản chỉ là nắm bắt một cách đại cương về văn bản.
Với tên gọi đọc hiểu, giờ giảng văn hay phân tích tác phẩm văn học hay dạy
học tác phẩm văn chương trước đây đã mang một tính chất khác. Thuật ngữ mới
trong trường hợp này cần được nhìn nhận ở chiều sâu quan niệm, gắn với nỗ lực
đổi mới một loại hình hoạt động có lịch sử lâu đời nhưng cách tổ chức, vận hành
nó đã tỏ ra lỗi thời khi mục tiêu dạy học văn nói riêng, dạy học nói chung đã đổi
khác. Trong Chương trình Ngữ văn THPT do GS. Trần Đình Sử làm trưởng tiểu
ban biên soạn, 2002, khái niệm – thuật ngữ đọc hiểu được thuyết minh như sau:
“Đó là một q trình bao gồm việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trị, tác dụng của các hình thức,
biện pháp nghệ thuật ngơn từ, các thơng điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người
viết và cả các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc - hiểu là hoạt động
duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ

đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức
câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm.
Lý giải những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong
ngữ cảnh của nó. Trong q trình học đọc, HS sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến
thức, đọc để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. HS sẽ học cách
trích câu hay, trích chi tiết, trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung văn
bản đã học”.
Khi mới xuất hiện, trong thuật ngữ đọc hiểu có dấu nối giữa đọc và hiểu
(đọc - hiểu). Dấu nối đó có thể được xem như một tín hiệu gây chú ý, buộc người
tiếp nhận/sử dụng phải có tư duy mới về thuật ngữ. Nhưng giờ đây khi thuật ngữ
đã được dùng phổ biến và đã được hiểu một cách toàn diện, việc đặt dấu nối này
khơng cịn cần thiết nữa.
7


1.1.2 “Đọc” trong dạy học đọc - hiểu
Đọc là một năng lực thiết yếu của người học sinh, là một kỹ năng sống cần
được rèn luyện không ngừng. Theo Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA
(The Programme for International Student Assessment) của Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế thế giới OECD (Organization for Economic Cooperation and
Development), trình độ đọc hiểu là một trong ba lĩnh vực chủ yếu để xác định năng
lực học sinh ở giai đoạn cuối của giáo dục bắt buộc (hai lĩnh vực khác là toán học
và khoa học). Đọc hiểu chứa đựng những đòi hỏi nhiều mặt. OECD đưa ra định
nghĩa như sau về trình độ đọc hiểu (reading literacy): “Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử
dụng và phản hồi lại trước một văn bản viết, nhằm đạt được mục đích, phát triển tri
thức và tiềm năng cũng như việc tham gia hoạt động của một ai đó trong xã hội1”.
Trong định nghĩa này, biết đọc bao hàm sự biết giải mã (decoding) và sự thấu hiểu
(comprehension) tư liệu, mà sự thấu hiểu thì gồm có hiểu (understanding), sử dụng
(using) và phản hồi (reflecting) về những thông tin với nhiều mục.
Theo quan niệm của GS Đỗ Ngọc Thống, “Đọc - hiểu không chỉ là một yêu

cầu của suốt thời kỳ học tập trong nhà trường phổ thơng, mà nó cịn trở thành một
nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, mở rộng những kiến thức, kỹ năng, chiến
lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở
những tình huống khác nhau, trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như
trong cả cộng đồng rộng lớn” (Theo Đỗ Ngọc Thống, Chương trình Ngữ văn trong
nhà trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 357)
1.1.3 “Hiểu” trong dạy học đọc hiểu văn bản
* “Hiểu” trong quan niệm thông thường:
Hiểu là sự nhận biết một tri thức. Hiểu nghĩa là nắm được các tri thức về
đối tượng và biết cách vận dụng chúng để chiếm lĩnh đối tượng, chiếm lĩnh
thực tại khách quan.
Hiểu văn bản có nhiều mức: hiểu nghĩa đen của từ, câu, sự kiện được kể;
hiểu nghĩa hàm ẩn của các yếu tố cấu thành văn bản; nắm bắt được chủ đề, thơng
điệp của tác phẩm; có xúc cảm và hành động tương ứng với những gì được gợi lên
từ văn bản.
* Quan niệm về “hiểu” trong dạy học đọc hiểu văn bản hiện nay
Hiểu không đối lập với cảm mà ngược lại, trong hiểu có cảm – một thứ cảm
có chiều sâu, có căn cứ nhưng khơng hề loại bỏ trực giác. Nói cách khác, nhấn
mạnh vấn đề hiểu cũng chính là một hình thức thể hiện sự địi hỏi rất cao đối với
cảm, cụ thể ở đây là cảm thụ nghệ thuật. Về điều này, các nhà nghiên cứu từ lâu đã
nói tới. Trong Giảng văn Chinh phụ ngâm, Đặng Thai Mai có viết: “... cảm tình
nếu được cả một lực lượng của sự hiểu, của ngộ tính (entendment) làm hậu thuẫn,
bao giờ cũng sẽ khỏe khoắn hơn, dồi dào hơn (...). Cảm thấy hay, chưa đủ. Có hiểu

8


là hay, sự thưởng thức mới có nghĩa lý, tác dụng” ( Theo Đặng Thai Mai tác phẩm,
tập 1, nhà xuất bản văn học, 1978, tr 363-364).
Như vậy “Hiểu” không đơn giản là sự nắm bắt (tiếp thu, ghi nhớ) một nguồn

tri thức nào đó mang hình thức cố định, xác định được đưa đến từ bên ngoài. Từ
quan niệm này, cần thấy được:
- Giữa sự hiểu của thầy và sự hiểu của trị khơng có sự đồng nhất.
- Học sinh là người chủ động tìm biết và kiến tạo tri thức dưới sự gợi ý, chỉ
dẫn của thầy (thầy khơng thể làm cho hiểu nếu trị khơng có được sự tích cực trong
hoạt động học tập, nhận thức, khơng tự khơi dậy nhu cầu hiểu của mình).
- Hiểu là một quá trình, gắn liền với việc tái cấu trúc toàn bộ năng lực của
người học. Một giờ học thành cơng là giờ học đưa đến được sự kích thích cho hoạt
động hiểu của học sinh. Q trình đó có thể diễn ra trong suốt cuộc đời, không hề
ngừng lại khi giờ học kết thúc.
- Để đánh giá sự hiểu của học sinh, không thể vội vàng, cũng không thể chỉ
dựa vào điểm số của các thi bài hay kiểm tra, dù chúng có ý nghĩa quan trọng. Biểu
hiện của hiểu có thiên hình vạn trạng, khơng thể lấy một hình thức duy nhất làm
thước đo.
Ở Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại đây, đọc hiểu đã trở thành một
khái niệm xuất hiện khá phổ biến trong sách giáo khoa Ngữ văn và các cơng trình
nghiên cứu về phương pháp dạy học văn. Giờ giảng văn trong nhà trường giờ đã
thay thế bằng giờ đọc hiểu văn bản. Điều đáng nói ở đây là khơng chỉ thay đổi về
cách gọi tên mà còn cả bản chất của vấn đề.
1.2. Dạy học bám sát kiến thức thể loại
Bộ môn Ngữ văn là một mơn học cơng cụ mang tính nhân văn sâu sắc. Môn
Ngữ Văn ở trường THPT nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS: như năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực hợp tác giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề... Năng lực đặc
thù là năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực văn chương ( cảm thụ thẩm mĩ).
Thông qua những văn bản văn học đặc sắc, qua các hình tượng nghệ thuật, qua
ngơn ngữ nghệ thuật, cảm xúc, tư tưởng, quan điểm của nhà văn,… giúp HS phát
triển năng lực thẩm mĩ, cảm nhận được cái hay cái đẹp từ trong mỗi tác phẩm nghệ
thuật được nhà văn sáng tạo. Từ đó HS sẽ có hứng thú học tập, thảo luận trong
hoạt động học tập và có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu
hiểu về đời sống tâm hồn phong phú của người dân Việt Nam, có thái độ sống tích

cực với xã hội, với cộng đồng, có quan niệm sống và ứng dụng vào thực tiễn một
cách nhân văn. Mơn Ngữ văn giúp HS hình thành tình cảm và nhân cách biết
hướng tới Chân- Thiện- Mỹ.
Để phát triển phẩm chất, năng lực cho HS qua dạy học đọc hiểu văn bản
môn Ngữ văn phải bám sát đặc trưng thể loại không biến Ngữ Văn thành một giờ
dạy học Giáo dục công dân, giáo dục đạo đức đơn thuần. Vì vậy, dạy học đọc hiểu
9


văn bản trong chương trình Ngữ Văn 10 theo hướng phát triển phẩm chất, năng
lực HS cần phải bám sát đặc trưng thể loại của từng văn bản. Qua hình ảnh, ngơn
ngữ hình tượng, cảm xúc, cấu tứ… để liên hệ, đối chiếu giáo dục phát triển phẩm
chất, năng lực HS. Không biến dạy học trong môn Ngữ Văn thành một hoạt động
mang tính xã hội, cổ động, tuyên truyền một cách cứng nhắc, thô thiển. Phải qua
những tri thức về ngơn ngữ, hình ảnh, cảm xúc, cấu tứ,…của tác phẩm để lồng
ghép, tích hợp, thực hiện mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực HS. Khơng thể
gị ép, chính trị hóa, đạo đức hóa các hình ảnh, cấu tứ, nghệ thuật, ngơn ngữ,
khơng những bóp chết tác phẩm mà cịn khơng đạt được chất lượng, hiệu quả trong
việc phát triển phẩm chất, năng lực HS.
1.3 Dạy học đọc hiểu văn bản để hình thành và củng cố kiến thức về thể loại
Như đã nói, có rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, người viết
đặc biệt quan tâm đến nghiên cứu của một số tác giả sau: Tác giả Nguyễn Thanh
Hùng với bài viết: “Đọc hiểu văn chương” (tạp chí Giáo dục số 29, 7/2004) và bài:
“Những khái niệm then chốt của vấn đề đọc hiểu văn chương” (Tạp chí Giáo dục
số 100, 11/2004) đã chỉ rõ: “Đọc hiểu là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao
nhất của hoạt động đọc, đọc hiểu đồng thời cũng chỉ năng lực văn học của người
đọc” đồng thời ông cũng đã nêu ra một số nội dung cần hiểu sau khi đọc văn bản.
Tác giả Trần Đình Sử qua bài viết: “Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong
nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay” đã nhấn mạnh: “Đề xuất vấn đề đọc
hiểu văn bản như một khâu đổi mới trong dạy học Ngữ văn …. Là một yêu cầu bức

thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến
và góp phần khắc phục lối học cũ: thầy trị đọc chép rồi thi theo trí nhớ của học
sinh về các bài đã học thuộc góp phần khắc phục tệ nạn sao chép trong các kì thi”.
Nguyễn Trọng Hoàn đã đề cập trong bài “Dạy đọc hiểu văn bản ngôn ngữ ở trung
học cơ sở”: “Đọc hiểu văn bản không chỉ nhằm để tiếp nhận giá trị của riêng một
bài văn cụ thể mà còn tạo ra được nền tảng kiến thức để học sinh có thể vận dụng
và phát triển chúng trong phân môn tiếng Việt và Tập làm văn… Đọc hiểu văn bản
là hoạt động có tính chất đầu mối của một quy trình dạy học tích hợp Ngữ văn
hướng tới sự phát triển đồng bộ”.
Từ việc đọc và nghiên cứu các bài viết, giáo viên Ngữ văn có thể vận dụng
vào dạy học đọc hiểu văn bản ở trường phổ thơng. Ví dụ khi dạy đọc hiểu truyện
thường được các nhà nghiên cứu quan tâm dựa trên đặc trưng về thể loại, điển hình
là tác giả Nguyễn Thanh Bình trong tài liệu Dạy học đọc hiểu tác phẩm văn
chương theo đặc trưng thể loại trong nhà trường THPT đã nhấn mạnh: “Đọc hiểu
là một nội dung khoa học mới, có ý nghĩa và giá trị phương pháp được chính thức
đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn cấp trung học cơ sở và trung học
phổ thơng, giáo viên và các quản lí giáo dục cần nắm vững.” Trong cơng trình
nghiên cứu này, tác giả đã đề xuất việc dạy học đọc hiểu tác phẩm văn chương
theo đặc trưng thể loại để phát huy năng lực cho học sinh và theo từng thể loại học
sinh sẽ nắm rõ được các đặc trưng của từng thể loại tác phẩm văn học đó.
10


2. Cơ sở thực tiễn:
Để phục vụ cho sáng kiến kinh nghiệm này được tốt hơn, tôi đã tiến hành
khảo sát cụ thể về chương trình học theo sách giáo khoa: Thời lượng chương trình
dành cho bài học, câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài trong sách giáo khoa ngữ văn 10
chương trình hiện hành(2006) và Sách giáo khoa Ngữ văn 10 chương trình GDPT
2018 và hai đối tượng trung tâm của quá trình dạy học là giáo viên và học sinh.
2.1. Chương trình học theo sách giáo khoa.

2.1.1 Chương trình hiện hành 2006
Chương trình mơn Ngữ văn THPT, đã được xây dựng theo quan điểm tích
hợp dựa trên trục đồng tâm do Bộ GD&ĐT chỉ đạo: “Lấy quan điểm tích hợp làm
nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn
các phương pháp giảng dạy.” “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong tồn
bộ mơn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của
quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong
chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và
tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham
khảo.”
Thực tế cho thấy chương trình Ngữ văn có sự tích hợp khá linh hoạt giữa ba
phân môn Đọc văn-Tiếng Việt- Làm văn mà chúng ta vẫn quen gọi là tích hợp dọc
hay tích hợp nội mơn. Hơn nữa chương trình được xây dựng theo trục lịch sử và
thể loại, mỗi thể loại có 2-3 văn bản được đưa vào SGK. Trong SGK hiện hành, tri
thức thể loại được học tách riêng, trong quá trình đọc hiểu văn bản Gv có hướng
dẫn đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại khơng cịn tùy thuộc vào mức độ
chuẩn bị bài của người dạy, thường kiến thức về thể loại Gv rút ra ở cuối mỗi bài
học với những câu lệnh quen thuộc: Qua đọc hiểu văn bản ở trên, em hãy rút ra
cách đọc hiểu một văn bản truyện/ thơ/ kí/ kịch.....
Mục tiêu chương trình hiện hành 2006 coi trọng kiến thức cần cung cấp cho
học sinh, vì vậy, chương trình hiện hành xem văn bản là “đối tượng” để khai thác,
chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người truyền thụ-học sinh là người tiếp thu thụ
động những tri thức về ngôn ngữ và văn học đóng khung trong một văn bản cụ thể.
2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thơng 2018
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 xác định mục tiêu dạy học là hình
thành và phát triển cho học sinh phẩm chất và năng lực, vì thế chương trình SGK
Ngữ văn 2018 xem văn bản là “cơng cụ” để hình thành và phát triển năng lực cho
học sinh.
Để hình thành và củng cố kiến thức về thể loại cho HS qua các tiết dạy đọc
hiểu văn bản, GV trước tiên phải nắm vững, bám sát mục tiêu và yêu cầu cần đạt

trong dạy học bộ mơn. Điều này có vai trị quan trọng trong dạy học nói chung và
dạy học văn bản nói riêng. Mục tiêu là thành tố đầu tiên trong kế hoạch dạy học, có
11


vai trị định hướng việc hình thành phẩm chất, năng lực người học từ đó chọn nội
dung, phương pháp, hình thức dạy học cũng như phương pháp kiểm tra, đánh giá
phù hợp. Khi xác định được mục tiêu và yêu cầu cần đạt, người giáo viên sẽ
nghiên cứu, lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học cũng như tìm phương pháp hiệu
quả nhất, tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đó. Đồng thời, cũng căn cứ vào mục
tiêu và yêu cầu cần đạt đặt ra, người giáo viên sẽ đánh giá chính xác sự tiến bộ của
người học qua sự đối chiếu với mục tiêu. Vai trò của mục tiêu và yêu cầu cần đạt
còn đặc biệt quan trọng đối với người học. Học sinh cần và phải nắm rõ mục tiêu
để từ đó tự tổ chức quá trình học tập của bản thân theo một định hướng rõ ràng,
biết lựa chọn cách học, cách đọc văn bản sao cho phù hợp, hiệu quả, biết tự đánh
giá mức độ tiến bộ của bản thân, có thể vận dụng vào quá trình tự học, tự đánh giá
khi đọc hiểu một văn bản cùng thể loại ngồi chương trình SGK.
Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm khơi dậy
khả năng tìm kiếm, giải quyết vấn đề của người học, giúp người học không chỉ
chiếm lĩnh tri thức văn bản được học mà cịn có năng lực vận dụng những kiến
thức ấy để giải quyết các tình huống thực tiễn. Do đó, việc thay đổi mục tiêu dạy
học văn bản (từ mục tiêu dạy học tiếp cận nội dung sang mục tiêu tiếp cận năng
lực) sẽ dẫn đến việc thay đổi các thành tố khác của kế hoạch dạy học như: nội
dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá… Cụ thể: về nội dung, với mục tiêu hình
thành và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh,văn bản sẽ được khai thác theo
trục đọc-viết-nói-nghe; về phương pháp, để đảm bảo mục tiêu phát triển năng lực,
phương pháp dạy học sẽ phải phù hợp với từng kĩ năng (đọc - viết - nói - nghe)
cũng như từng kiểu văn bản cụ thể. Dù là sử dụng phương pháp truyền thống hay
hiện đại, các phương pháp đều nhằm một mục tiêu duy nhất: dạy cho học sinh cách
đọc-viết-nói-nghe về văn bản.Về kiểm tra đánh giá, kiểm tra đánh giá sẽ được tiến

hành trong quá trình học, với nhiều hình thức, tập trung vào bốn kĩ năng đọc - viết
- nói - nghe của học sinh.
2.2.Ma trận thể loại của văn bản đọc trong chương trình giáo dục phổ thơng
mơn Ngữ văn 2018.
* Đặc điểm chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn 2018
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn là một bộ phận của chương
trình tổng thể, tuân thủ các quy định của chương trình đồng thời có những đặc
điểm riêng, mang tính đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát
huy những ưu điểm của các chương trình Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình
hiện hành. Về quan điểm dạy học, chương trình dạy học tiếp cận nội dung cho rằng
học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội tri thức qua đó hình thành kĩ năng thì chương
trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực xác định: học là quá trình kiến
tạo, học sinh tự tìm tịi, khám phá, phát hiện, tự hình thành hiểu biết. Về mục tiêu
mơn học, chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 xác định mục tiêu
là phát triển năng lực giao tiếp với 04 kĩ năng đọc - viết - nói - nghe. Thơng qua
việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và
12


kĩ năng sáng tạo văn học của học sinh, đồng thời góp phần phát triển các năng lực
khác như năng lực thẩm mĩ, năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo mà chương trình tổng thể đã đề ra. Trong đó năng lực giao tiếp ngơn ngữ là
trục tích hợp để xây dựng xuyên suốt cả ba cấp học. Về nội dung dạy học, căn cứ
vào những phẩm chất, năng lực học sinh cần đạt, cũng như mức độ năng lực ở mỗi
lớp, mỗi cấp mà xác định nội dung cần 10 dạy. Do đó, chương trình chỉ lựa chọn
những kiến thức giúp cho việc phát triển năng lực hiệu quả để đưa vào giảng dạy
theo một hệ thống từ lớp 1 đến lớp 12.
Nếu như nội dung chương trình hiện hành được tổ chức theo trục lịch sử văn
học hay kiểu văn bản nhằm tạo thuận lợi cho học sinh lĩnh hội kiến thức thì nội
dung chương trình ngữ văn 2018 sẽ được tích hợp thơng qua các kĩ năng đọc - viết

- nói - nghe đồng thời phục vụ cho các kĩ năng này. Chính vì chú trọng năng lực
ứng dụng vào thực tiễn nên chương trình khơng đóng khung trong nội dung bắt
buộc của sách giáo khoa mà được xây dựng theo hướng mở, nghĩa là chỉ quy định
một số nội dung cốt lõi và một số tác phẩm bắt buộc (06 tác phẩm), còn lại đưa ra
một danh sách gợi ý để các tác giả sách giáo khoa và giáo viên tự chọn sao cho phù
hợp với điều kiện và đối tượng người học, phát huy được sự sáng tạo. Về phương
pháp dạy học, môn Ngữ văn sẽ chuyển từ việc giáo viên là người truyền thụ tri
thức, là trung tâm của quá trình dạy học, học sinh tiếp thu thụ động những tri thức
được quy định sang việc giáo viên trở thành người tổ chức, hướng dẫn học sinh
đọc tác phẩm để học sinh biết cách đọc và có thể tự đọc.
Hiệu quả của giờ dạy không chỉ ở những kiến thức cụ thể về văn bản học
sinh lĩnh hội được mà quan trọng hơn là sau khi học xong, học sinh nắm được
phương pháp tiếp cận tác phẩm để có thể tự đọc các tác phẩm tương tự.
Về hình thức dạy học, chương trình mới khuyến khích tổ chức hình thức học
tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo; đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học. Về phương
pháp kiểm tra đánh giá, thay vì đánh giá mức độ học sinh ghi nhớ và tái hiện được
những nội dung đã học (càng nhiều càng tốt) thì chương trình Ngữ văn mới sẽ
đánh giá mức độ năng lực Ngữ văn của học sinh (năng lực ngôn ngữ và năng lực
văn học).
* Đặc điểm phần văn bản trong chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ
văn 2018.
Như trên đã nói, mặc dù chương trình được xây dựng theo hướng mở, giao
quyền lựa chọn văn bản cho các tác giả sách giáo khoa và giáo viên, tuy nhiên các
văn bản được lựa chọn phải tuân thủ một số quy định nhất định: Thứ nhất, các văn
bản phải đạt các yêu cầu sau:
- Phục vụ trực tiếp cho việc phát triển các phẩm chất và năng lực, trước hết
là năng lực giao tiếp (đọc - viết - nói - nghe) cho học sinh.
- Phù hợp với học sinh ở từng cấp học, lớp học.
13



- Có giá trị tiêu biểu về phương diện nội dung, nghệ thuật.
- Phản ánh được thành tựu về tư tưởng, văn học, văn hóa dân tộc và nhân
loại.
- Tăng dần về mức độ khó của văn bản qua các cấp học. Thứ hai, các loại
hình văn bản bao gồm: Văn bản văn học; văn bản nghị luận; văn bản thơng tin.
Mỗi loại hình văn bản lại định hướng những thể loại cụ thể, có thể thấy rõ điều đó
qua bảng thống kê sau:
Thống kê các thể loại văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học phổ
thơng Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12.
* Thể loại văn bản văn học :
- Thần thoại
- Truyện thơ dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết
- Thơ trữ tình
- Sử thi
- Truyện ngắn
-Tiểu thuyết hiện đại
- Thơ, truyện thơ Nơm
- Bi kịch
- Truyện truyền kì, truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại
- Thơ trữ tình hiện đại
- Kịch bản chèo hoặc tuồng
- Truyện kí, tuỳ bút hoặc tản văn
- Hài kịch
* Thể loại văn bản nghị luận ở cả 3 khối 10,11,12;
- Nghị luận văn học
- Nghị luận xã hội
* Thể loại văn bản thông tin
- Báo cáo nghiên cứu; văn bản thuyết minh có sử dụng các yếu tố như biểu

cảm, nghị luận, miêu tả, tự sự.
- Nội quy, văn bản hướng dẫn
- Thuyết minh có sử dụng các yếu tố như biểu cảm, nghị luận, miêu tả, tự
sự.
- Báo cáo nghiên cứu
14


- Thuyết minh có sử dụng các yếu tố như biểu cảm, nghị luận, miêu tả, tự sự.
- Báo cáo nghiên cứu, thư trao đổi công việc.
Các mạch kiến thức văn học, Lí luận văn học: một số vấn đề về lí luận văn
học thiết thực, có liên quan nhiều đến đọc hiểu văn bản văn học và thể loại văn
học: bao gồm thơ, truyện, kí, kịch…
Các yếu tố của văn bản văn học: câu chuyện, cốt truyện, nhân vật, khơng
gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần, nhịp...
Ở cấp trung học phổ thông, mạch kiến thức văn học là: những hiểu biết về
một số thể loại, tiểu loại ít thơng dụng, địi hỏi kĩ năng đọc cao hơn (thần thoại, sử
thi, chèo hoặc tuồng, truyện và thơ hiện đại; tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại); một
số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc
và viết văn bản văn học (câu chuyện, người kể chuyện toàn tri, người kể chuyện
hạn tri, người kể chuyện và sự dịch chuyển, phối hợp điểm nhìn, cách kể, tứ thơ,
đặc trưng của hình tượng văn học.
Về ngữ liệu văn bản, căn cứ vào tiêu chí lựa chọn văn bản và yêu cầu lựa
chọn văn bản, chương trình xây dựng danh mục văn bản gợi ý lựa chọn ở các lớp
mục.
Về năng lực, các văn bản sẽ được khai thác thông qua tổ chức 4 hoạt động
đọc - viết - nói - nghe nhằm hình thành và phát triển năng lực ngơn ngữ và năng
lực văn học cho học sinh, ở mỗi kĩ năng, chương trình đưa ra những yêu cầu cụ
thể:
Về đọc hiểu: các văn bản sẽ được đọc hiểu ở 04 phương diện:

+ Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua chi tiết, đề tài, chủ đề, tư tưởng,
thông điệp...
+ Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể loại, các
thành tố của mỗi kiểu văn bản và thể loại (câu chuyện, cốt truyện, truyện kể, nhân
vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần thơ, nhịp thơ, lí lẽ,
bằng chứng...), ngôn ngữ biểu đạt…
+ Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử,
văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu văn
bản đa phương thức…
+ Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc. Về
kĩ năng viết: trên cơ sở đọc hiểu văn bản, học sinh sẽ được học về quy trình tạo lập
văn bản và yêu cầu thực hành viết theo đặc điểm của kiểu văn bản vừa học. Về kĩ
năng nói - nghe: học sinh sẽ chuyển thể văn bản viết thành văn bản nói, từ đó thực
hành nói; nghe và nói - nghe tương tác.
Trong dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu không chỉ là kết quả
mà giáo viên mong muốn người học đạt được sau bài giảng mà đó cịn là cái đích
15


người học phải đạt được; hơn thế, mục tiêu bài giảng cịn là tun bố về những gì
mà người học phải hiểu rõ, phải nắm vững và phải làm được sau bài dạy của người
thầy; mục tiêu bài giảng còn nói về việc người học sẽ học như thế nào hoặc có khả
năng làm được gì sau khi kết thúc một bài học.
Về nhân tố con người . Dạy học theo định hướng phát triển năng lực không
chỉ là một xu hướng giáo dục quốc tế mà đã triển khai ở giáo dục nước ta (chương
trình 2018). Tuy nhiên, để chương trình triển khai một cách rộng rãi, để các nhà
quản lí, giáo viên, học sinh nắm vững chương trình cần phải có một q trình tập
huấn kĩ lưỡng. Đến thời điểm này, việc tập huấn vẫn đang được tiến hành nhưng
tiến độ chậm. Nhiều giáo viên vẫn nhận thức cảm tính, mơ hồ về dạy học theo định
hướng phát triển năng lực, cộng với thói quen, lối tư duy dạy- học tiếp cận nội

dung ở cả giáo viên và học sinh khiến cho việc thực nghiệm đề tài gặp khơng ít
khó khăn. Chúng tơi xác định những khó khăn này là khơng thể tránh khỏi khi
chương trình mới đưa vào thực tiễn “vạn sự khởi đầu nan”. Nhưng điều đó khơng
phủ nhận những tín hiệu vui mà chúng tơi thu nhận được trong và sau những giờ
học thể nghiệm. Đa số học sinh đã biết cách “đọc” một văn bản nghị luận theo
từng cấp độ: từ đọc kĩ thuật đến đọc hiểu; từ đọc hiểu nội dung, đọc hiểu hình thức,
đọc liên hệ, so sánh, đối chiếu để từ đó có thể tự mình “đọc” những tác phẩm
tương tự (đọc mở rộng). Học sinh biết cách “viết” một đoạn văn, bài văn nghị luận
(nghị luận xã hội hoặc nghị luận văn học) đúng quy trình, thể hiện rõ quan điểm
của bản thân, biết dùng luận điểm, luận cứ, lập luận chặt chẽ, thuyết phục. Khi tiến
hành hoạt động nói- nghe, nhiều em khá tự tin thể hiện bản thân khi thuyết trình,
biết sử dụng phương tiện giao tiếp ngơn ngữ và phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử chỉ,
điệu bộ… để làm cho bài thuyết trình của mình thêm thuyết phục. Đồng thời, biết
lắng nghe, nắm bắt nội dung, quan điểm của người khác cũng như biết tương tác
với bạn bè, giáo viên về một vấn đề còn chưa thống nhất. Giờ học cũng vì thế mà
sơi nổi, hấp dẫn, hứng thú hơn, không nặng về đọc- chép, mức độ năng lực được
phát triển toàn diện trên cả bốn kĩ năng đọc - viết - nói - nghe. Việc kiểm tra đánh
giá được đo bằng các rubric sau mỗi hoạt động cũng làm cho học sinh hào hứng
hơn, các em “thấy” được năng lực bản thân một cách cụ thể trong cả tiến trình học,
từ đó biết điều chỉnh cũng như cố gắng để phát triển năng lực bản thân
2.3. Khảo sát hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của
Sách giáo khoa.
* Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa Ngữ
văn 10 chương trình hiện hành 2006.
- Sách giáo khoa Ngữ Văn cơ bản theo thống kê của chúng tôi phần lớn là
đưa ra câu hỏi mang định hướng tích hợp kiến thức vào bài học. Có thể thấy, cả ở
sách giáo khoa cơ bản và nâng cao đã định hướng tới việc vận dụng kiến thức
trong quá trình tiếp cận tác phẩm và thực sự trở thành một vấn đề được ý thức là
cốt yếu khi đọc hiểu văn bản. Thế nhưng trong thực tế dạy học giáo viên vẫn chưa
chú trọng một cách thỏa đáng.

16


* Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu văn bản và luyện tập của Sách giáo khoa Ngữ
văn 10 chương trình GDPT 2018.
Cả 3 bộ sách SGK Ngữ văn 10 mới đều ó các câu hỏi xây dụng theo định
hướng phát triển phẩm hất, năng lực HS, chú trọng vào đặc trưng thể laoij của văn
bản.
2.4. Kết quả khảo sát và những tồn tại trong dạy và học:
*Về phía giáo viên- Thực trạng nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng
của vấn đề hình thành, củng cố kiến thức thể loại cho HS qua hoạt động đọc.
1. Lâu nay, việc dạy học đọc hiểu các văn bản trong chương trình Ngữ văn
10 thì hầu như chưa được tồn thể giáo viên chú trọng, thiếu sự chuẩn bị chu đáo.
Việc dạy đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc
chuyển giao những hiểu biết của GV cho HS về một văn bản nào đó. Với vai trò
chuyển giao này, GV là người chủ yếu có nhiệm vụ cung cấp, truyền thụ kiến thức
cho HS. Trong quan niệm dạy học chuyển giao, truyền thụ kiến thức, việc dạy học
đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông hiện nay vẫn đang sử dụng phương pháp
truyền thụ một chiều, “Độc tơn vị trí của người thầy”. Phương pháp dạy học này đề
cao vai trò của người thầy và chưa chú trọng đến đối tượng chính của hoạt động
dạy học là học sinh. Điều này sẽ khiến HS mất dần dần đi sự chủ động trong việc
tiếp thu, lĩnh hội kiến thức. Chương trình giáo dục hiện hành (chương trình 2006)
được xây dựng theo trục lịch sử và thể loại đã bộc lộ nhiều hạn chế, khơng cịn phù
hợp vì thế nhất thiết phải thay đổi đặc biệt là trong bối cảnh GD mới hiện nay. Đặc
biệt chương trình Ngữ văn 10 hiện hành chủ yếu là các văn bản thuộc giai đoạn
văn học Trung đại. Thậm chí có giáo viên khi đến lớp cịn dạy sơ sài, dạy cho xong
bài học, đặc biệt là việc dạy học một số văn bản mà văn bản đó là đại diện duy
nhất/ tiêu biểu cho thể loại văn học Trung đại được đưa vào chương trình sách giáo
khoa như thể loại Hịch, Cáo, Chiếu, Phú....Giáo viên thường xem nhẹ nên học sinh
không thấy được sức nặng của bài học.

2. Ở nhiều giáo viên từ khâu soạn bài đến việc vận dụng phương pháp dạy
học, đặc biệt là những văn bản "khó" chưa được đầu tư nhiều vì giáo án phần lớn
đã copy sẵn trên mạng mà những kiến thức về bài học lại cần phải suy nghĩ kết hợp
với việc tìm tịi phương pháp truyền tải cho học sinh dễ hiểu. Một thực tế là ngồi
trường chun, lớp chọn ln được đầu tư học kĩ phần văn học Trung đại nhằm
phục vụ cho các kì thi học sinh giỏi tỉnh, thi học sinh giỏi quốc gia thì ở các trường
THPT và các lớp thường thì cơng việc dạy văn học Trung đại chưa được giáo viên
ý thức sâu sắc về ý nghĩa, chưa nhận thức được tầm quan trọng, vị trí của nó trong
chương trình. Đa phần giáo viên chỉ đầu tư thiết kế phần đọc – hiểu văn bản thơ
mà sơ sài trong chuẩn bị cho các tiết dạy thể loại ít văn bản trong chương trình.
Điều này khiến nhiều tiết học ở một số thể loại ít văn bản như Phú, Chiếu, Biểu, ...
trở nên khô khan, nặng nề, khơng có hiệu quả dẫn đến học sinh học xong thường
khơng hứng thú, khơng ấn tượng nên nhanh chóng quên kiến thức đã học.
17


3.Về phương pháp dạy học văn bản Bạch Đằng giang phú, người dạy chủ
yếu vận dụng phương pháp diễn giảng là chính để diễn giảng nhằm giúp học sinh
hiểu rõ ý nghĩa của những từ ngữ khó, những điển tích, điển cố, bố cục thể
loại...Thực tế đó dẫn đến học sinh khó lĩnh hội kiến thức bài học hoặc học sinh
ngồi đón nhận nhưng khơng có sự quan tâm, u thích, thiếu hứng thú nên kết quả
học tập khơng cao. Qua dự giờ- thăm lớp một số đồng nghiệp cùng bộ mơn tơi
nhận thấy một số giáo viên đã có sự đổi mới về phương pháp dạy học như bám vào
đặc trưng thể loại Phú, cho học sinh thảo luận nhóm,... nhưng vẫn cịn nặng về
cung cấp kiến thức mà ít chú ý đến bồi dưỡng năng lực cho học sinh và không chú
trọng đến việc ứng dụng những kiến thức liên môn vừa vận dụng phương pháp mới
vào dạy học vừa kích thích được sự tìm tịi, hào hứng cho việc chuẩn bị cũng như
tiếp nhận văn bản trong giờ học được tốt hơn.
4. Thực tế cho thấy, đa phần giáo viên còn coi nặng việc truyền thụ kiến
thức được hướng dẫn tìm hiểu trong sách giáo khoa. Ít vận dụng kiến thức liên

mơn, chủ đề tích hợp giáo dục trong quá trình dạy học bởi phải trang bị thêm nhiều
mặt về kiến thức liên quan đến môn học mà mình đang dạy. Mặt khác cịn phải
chuẩn bị về phương pháp, phương tiện, đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề tích
hợp nên nhiều khi vấn đề tích hợp kiến thức chỉ là hình thức khơng thực sự tâm
huyết. Chính điều đó dẫn đến tiết dạy kém hấp dẫn, không phát huy được năng lực
của học sinh. Quá trình dạy học dễ sa vào lối dạy đọc chép, truyền thụ kiến thức
một chiều.
*Về phía học sinh- Thực trạng đọc văn bản của Hs liên quan đến vấn đề tích
lũy kiến thức về thể loại văn bản
1. Khi tiếp cận các văn bản văn học ở sách Ngữ văn 10 trong chương trình
hiện hành, chủ yếu là văn học dân gian và văn học Trung đại. Đặc biệt là các văn
bản văn học Trung đại với những thể loại cổ xưa vốn khơ khan, khó hiểu nên nhiều
khi q trình tiếp nhận văn bản của HS cịn mơ hồ. Một trong những khó khăn lớn
nhất đó là do thời đại khác nhau nên việc nắm bắt và hiểu được tư tưởng, tình cảm
của tác giả thời Trung đại so với học sinh hiện nay là không dễ.
2. Đứng trước yêu cầu của thực tế dạy học hiện đại lấy học sinh làm trung
tâm, học sinh được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì phẩm
chất và năng lực cá nhân mới được hình thành và phát triển tồn diện. Tính năng
động, sáng tạo là những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống hiện đại cần phải
được hình thành ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Thế nhưng trên thực tế quá
trình tiếp nhận, tích lũy kiến thức về thể loại của học sinh đối với những văn bản
trong chương trình Ngữ văn 10 chưa đáp ứng yêu cầu của thời đại.
3. Tiếp nhận, hình thành và củng cố kiến thức về thể loại là cả một quá trình
ở các cấp học nhưng với học sinh THPT hiện nay đang quen với lối mòn cũ, học
những kiến thức mà thầy cô truyền thụ sẵn, ít tích cực tích lũy đề hình thành kiến
thức nền về thể loại để có thể chủ động, tích cực đọc hiểu những văn bản cùng thể
loại ngồi chương trình. Việc vận dụng kiến thức thể loại vào quá trình học tập,
18



kiểm tra, đánh giá, thi cử đã được triển khai trong những năm học vừa qua nhưng
đối với học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Một số giáo viên vận dụng chưa linh hoạt
nên học sinh còn ghi nhớ kiến thức thể loại một cách máy móc, việc nắm được đặc
trưng, mối quan hệ, giao thoa giữa các thể loại văn bản chưa thực sự thấu đáo.
Để quá trình dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 theo trong chương trình
GDPT 2018 được hiệu quả hơn, trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này, tơi
đã kết hợp hình thành và củng cố kiến thức thể loại cho học sinh qua các giờ đọc
hiểu văn bản. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào dạy học bộ mơn Ngữ văn
nhằm xóa bớt đi sự nhàm chán, khơi dậy tình yêu văn học của học sinh hiện nay.
Qua tìm hiểu thực tế đọc- hiểu văn bản Ngữ văn 10 từ góc độ hình thành và củng
cố kiến thức thể loại, tơi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể,
tôi đã phát câu hỏi cho 39 học sinh ở lớp 10A1 trường THPT Yên Thành 3. Từ
việc xử lý phiếu điều tra, chúng tơi có kết quả như sau:
Nội dung câu hỏi là:
Câu 1.Theo em việc cung cấp kiến thức về thể loại trước khi đọc hiểu văn bản ở bộ
mơn Ngữ văn 10 có cần thiết hay không?
+ 35/39 học sinh (chiếm ) trả lời: Có.
+ 4/39 học sinh (chiếm %) trả lời: Khơng.
Câu 2.Theo em, việc tìm hiểu đặc điểm thể loại/ hình thành kiến thức thể loại/
trong quá trình đọc hiểu văn bản ở bộ mơn Ngữ văn 10 có cần thiết hay khơng?
+ 20/39 học sinh (chiếm 51,2%) trả lời: Có.
+ 19/39 học sinh (chiếm 48,8%) trả lời: Khơng.
Câu 3. Em có thích được giáo viên củng cố tri thức về phương pháp đọc hiểu văn
bản ở cuối mỗi bài đọc hiểu văn bản không?
+ 33/39 học sinh (chiếm 84,6%) trả lời: Có.
+ 6/39 học sinh (chiếm 15,4%) trả lời: Khơng.
Câu 4. Theo em, sau khi đọc văn bản có cần thiết vận dụng kiến thức thể loại đã
học để vận dụng đọc hiểu văn bản cùng thể loại khác ở trong cũng như ngồi SGK
khơng?
+ 34/39 học sinh (chiếm 87,1%) trả lời: Có.

+ 5/39 học sinh (chiếm 12,9 %) trả lời: Không.
Như vậy, đa số học sinh hiểu sự cần thiết của việc cung cấp, hình thành, tích
lũy và củng cố kiến thức thể loại khi đọc hiểu văn bản trong các tiết đọc hiểu văn
bản trong SGK Ngữ văn 10. Tuy nhiên, do dung lượng tiết học hạn chế nên các em
chưa được cung cấp kiến thức và kĩ năng cần thiết để chủ động tìm hiểu vấn đề.
Giáo viên phải dặn dị để học sinh tìm hiểu trước kiến thức về thể loại trược khi
vào bài học.
19


* Về kiểm tra, đánh giá.
Việc dạy học và kiểm tra đánh giá là hai q trình có quan hệ mật thiết với
nhau, thế nhưng hầu hết là ở các bài viết (kiểm tra) trong chương trình Ngữ văn 10
hiện hành và các đề thi học kì ít khi kiểm tra, đánh giá về kiến thức thể loại, đặc
trưng của thể loại. Những câu hỏi ở phần Đọc hiểu trong các đề thi trước đây
thường chỉ hỏi đơn giản về Thể Thơ, hỏi về hình ảnh, từ ngữ đặc sắc trong văn
bản/đoạn trích. Trong những năm gần đây Bộ đã yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá
theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực HS nên ở các bài kiểm tra, các
đề thi đã có những chuyển mình ít văn bản như đã nói ở trên mà thường tập trung
vào các văn bản thơ và truyện Trung đại vốn nhiều văn bản hơn và được xem là
"dễ học" hơn. Thi tốt nghiệp, đại học từ trước tới nay chú chú trọng phần văn học
Việt Nam hiện đại vì thế nên kiến thức về văn học Trung đại ở học sinh THPT cuối
cấp gần như đã lãng quên. Chỉ ở những kỳ thi học sinh giỏi cấp Tỉnh và học sinh
giỏi quốc gia thì văn học Trung đại mới được đề cập đến và những văn bản "khó"
mới được nâng lên thành những chuyên đề có đầu tư về chiều sâu, nhưng cũng chỉ
là ở những lớp chọn hay một số học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi mà thơi.
Vậy nên, các văn bản ít kiểm tra, đánh giá thì ít chú trọng, khơng thi thì khơng học
kỹ. Phần lớn học sinh mang tư tưởng thực dụng, chưa hiểu được tầm quan trọng
của những văn bản văn học đó mang lại.
I.2.4. Nguyên nhân của vấn đề:

- Từ thực trạng trên, cộng với kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, tôi nhận thấy
trong dạy và học hạn chế sau:
- Một số giáo viên hiểu chưa thật rõ kiến thức về thể loại và vận dụng vào
bài học, chưa giúp học sinh hiểu rõ vị trí địa lý và ý nghĩa của thể loại trong dòng
chảy của lịch sử dân tộc và lịch sử văn học, vận dụng những kiến thức thể loại đó
vào việc tìm hiểu văn bản cùng thể loại trong SGK hay ngồi chương trình cũng
như định hướng phát triển năng lực cho học sinh.
- Một số giáo viên có vận dụng kiến thức thể loại vào dạy học đọc hiểu văn
bản nhưng việc vận dụng còn dừng lại ở mức độ sơ lược, đơn giản hóa các đơn vị
kiến thức. Giáo viên chỉ dành cho việc hình thành và củng cố tri thức thể loại chủ
yếu ở một vài hoạt động trong bài học như phần dầu bài học khi tìm hiểu Tiểu dẫn,
định hướng tiếp cận văn bản, tìm hiểu tình huống truyện, …cịn mục đích của việc
hình thành và củng cố tri thức thể loại nhằm bồi dưỡng và phát huy năng lực của
học sinh chưa được coi trọng.
- Do chương trình hiện hành (2006) biên soạn sách giáo khoa còn nặng về
cung cấp kiến thức.
- Do phương pháp dạy học chưa phù hợp nên giáo viên chưa tạo được sự
hấp dẫn đối với học sinh trong quá trình dạy học đọc hiểu văn bản.
Thực tế trên khiến giờ dạy học đọc hiểu văn bản đạt kết quả chưa cao, học
sinh chưa thật hiểu những tri thức về thể loại mà giáo viên cung cấp. Khi đọc lại,
20


nhiều học sinh vẫn cảm thấy văn bản này khó tiếp cận, khó hiểu vì thế việc áp
dụng cho đọc hiểu văn bản khác cùng thể loại gặp khó khăn/ hạn chế.
Chương 2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH, CỦNG
CỐ KIẾN THỨC VỀ THỂ LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA HOẠT
ĐỘNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Nguyên tắc hình thành, củng cố kiến thức về thể loại cho HS lớp 10 qua
hoạt động đọc văn bản

1.2. Hoạt động đọc văn bản phải bám sát yêu cầu cần đạt của bài học
Mục tiêu là điều mà người giáo viên phải xác định đầu tiên khi xây dựng kế
hoạch dạy học. Một mục tiêu đúng đắn, khoa học, phù hợp sẽ là kim chỉ nam dẫn
lối cho các hoạt động tiếp theo của kế hoạch dạy học được đúng hướng. Vấn đề là
ở chỗ, căn cứ vào đâu để xác định mục tiêu bài học cho phù hợp và khoa học?
Khơng có căn cứ, mục tiêu sẽ cảm tính, chủ quan, duy ý chí.
Chương trình Ngữ văn hiện hành (Chương trình 2006) xác định mục tiêu dạy
học là “cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính
hệ thống về ngơn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn học
Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” chính vì vậy để
đảm bảo sự nhất qn, khoa học khi xác định mục tiêu dạy học, chương trình đã
đưa ra “Chuẩn kiến thức - kĩ năng” dạy học. Chuẩn kiến thức - kĩ năng là yêu cầu
cơ bản, tối thiểu về kiến thức - kĩ năng của môn học, cấp học, bài học mà học sinh
cần phải và có thể đạt được sau khi học. Chuẩn kiến thức - kĩ năng là căn cứ để xác
định mục tiêu của mỗi giờ học, mục tiêu của quá trình dạy học đảm bảo chất lượng
giáo dục. Chuẩn kiến thức - kĩ năng được cụ thể hóa, tường minh ở các mức độ
trên hai phương diện: kiến thức và kĩ năng.
*Yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu của học sinh
Phẩm
chất

Cấp tiểu học

Cấp trung học cơ sở

Cấp trung học phổ
thông

Yêu nước

- Yêu thiên nhiên và
có những việc làm
thiết thực bảo vệ
thiên nhiên.

- Tích cực, chủ động vận
- Tích cực, chủ động
tham gia các hoạt động động người khác tham
bảo vệ thiên nhiên.
gia các hoạt động bảo vệ
thiên nhiên.
- Có ý thức tìm hiểu

- Yêu quê hương,
truyền thống của gia
- Tự giác thực hiện và
u Tổ quốc, tơn
đình, dịng họ, q
vận động người khác
trọng các biểu trưng hương; tích cực học tập, thực hiện các quy định
21


rèn luyện để phát huy
- Kính trọng, biết ơn truyền thống của gia
đình, dịng họ, q
người lao động,
hương.
người có cơng với
quê hương, đất nước; - Có ý thức bảo vệ các

di sản văn hố, tích cực
tham gia các hoạt
tham gia các hoạt động
động đền ơn, đáp
nghĩa đối với những bảo vệ, phát huy giá trị
của di sản văn hố.
người có cơng với
q hương, đất nước.
của đất nước.

của pháp luật, góp phần
bảo vệ và xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
- Chủ động, tích cực
tham gia và vận động
người khác tham gia các
hoạt động bảo vệ, phát
huy giá trị các di sản văn
hoá.
- Đấu tranh với các âm
mưu, hành động xâm
phạm lãnh thổ, biên giới
quốc gia, các vùng biển
thuộc chủ quyền và
quyền chủ quyền của
quốc gia bằng thái độ và
việc làm phù hợp với lứa
tuổi, với quy định của
pháp luật.

- Sẵn sàng thực hiện
nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc.

Nhân ái
- Yêu thương, quan
- Trân trọng danh dự,
tâm, chăm sóc người
sức khoẻ và cuộc sống
thân trong gia đình.
riêng tư của người khác.
- u q bạn bè,
- Khơng đồng tình với
thầy cơ; quan tâm,
cái ác, cái xấu; khơng
động viên, khích lệ
cổ x, khơng tham gia
Yêu quý bạn bè.
các hành vi bạo lực; sẵn
mọi
Tôn
trọng
người
người
sàng bênh vực người
lớn tuổi; giúp đỡ
yếu thế, thiệt thòi,...
người già, người ốm
- Tích cực, chủ động
yếu, người khuyết

tham gia các hoạt động
tật; nhường nhịn và
từ thiện và hoạt động
giúp đỡ em nhỏ.
phục vụ cộng đồng.
- Biết chia sẻ với

- Quan tâm đến mối
quan hệ hài hồ với
những người khác.
- Tơn trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của mọi
người; đấu tranh với
những hành vi xâm
phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá
nhân.
- Chủ động, tích cực vận
động người khác tham
gia các hoạt động từ
thiện và hoạt động phục
22


vụ cộng đồng.

những bạn có hồn
cảnh khó khăn, các
bạn ở vùng sâu, vùng
xa, người khuyết tật

và đồng bào bị ảnh
hưởng của thiên tai.
- Tôn trọng sự khác
biệt của bạn bè trong
lớp về cách ăn mặc,
tính nết và hồn cảnh
Tơn
trọng sự gia đình.
khác biệt - Khơng phân biệt
giữa mọi đối xử, chia rẽ các
người
bạn.
- Sẵn sàng tha thứ
cho những hành vi
có lỗi của bạn.

- Tôn trọng sự khác biệt
về nhận thức, phong
cách cá nhân của những
người khác.
- Tôn trọng sự đa dạng
về văn hoá của các dân
tộc trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam và các
dân tộc khác.
- Cảm thông và sẵn
sàng giúp đỡ mọi
người.

- Tôn trọng sự khác biệt

về lựa chọn nghề
nghiệp, hồn cảnh sống,
sự đa dạng văn hố cá
nhân.
- Có ý thức học hỏi các
nền văn hoá trên thế
giới.
- Cảm thơng, độ lượng
với những hành vi, thái
độ có lỗi của người
khác.

Chăm chỉ

- Có ý thức vận dụng
kiến thức, kĩ năng
học được ở nhà
trường vào đời sống
hằng ngày.

- Luôn cố gắng vươn
lên đạt kết quả tốt trong
- Có ý thức đánh giá
học tập.
điểm mạnh, điểm yếu
- Thích đọc sách, báo, của bản thân, thuận lợi,
tìm tư liệu trên mạng
khó khăn trong học tập
Internet để mở rộng
để xây dựng kế hoạch

hiểu biết.
học tập.
- Có ý thức vận dụng
- Tích cực tìm tịi và
kiến thức, kĩ năng học sáng tạo trong học tập;
được ở nhà trường,
có ý chí vượt qua khó
trong sách báo và từ các khăn để đạt kết quả tốt
nguồn tin cậy khác vào trong học tập.
học tập và đời sống
hằng ngày.

- Thường xun
tham gia các cơng
việc của gia đình vừa
sức với bản thân.

- Tham gia công việc
lao động, sản xuất trong
gia đình theo yêu cầu
thực tế, phù hợp với

- Đi học đầy đủ,
đúng giờ.
- Thường xuyên
hoàn thành nhiệm vụ
học tập.
- Ham học hỏi, thích
Ham học đọc sách để mở rộng
hiểu biết.


Chăm
làm

- Tích cực tham gia và
vận động mọi người
tham gia các công việc
phục vụ cộng đồng.
23


- Thường xuyên
tham gia các công
việc của trường lớp,
cộng đồng vừa sức
với bản thân.

khả năng và điều kiện
của bản thân.

- Có ý chí vượt qua khó
khăn để đạt kết quả tốt
trong lao động.

- Luôn cố gắng đạt kết
quả tốt trong lao động ở - Tích cực học tập, rèn
trường lớp, cộng đồng. luyện để chuẩn bị cho
- Có ý thức học tốt các nghề nghiệp tương lai.
môn học, các nội dung
hướng nghiệp; có hiểu

biết về một nghề phổ
thơng.

Trung thực
- Thật thà, ngay
thẳng trong học tập,
lao động và sinh hoạt
hằng ngày; mạnh
dạn nói lên ý kiến
của mình.

- Ln thống nhất giữa
lời nói với việc làm.
- Nghiêm túc nhìn nhận
những khuyết điểm của
bản thân và chịu trách
nhiệm về mọi lời nói,
hành vi của bản thân.

- Luôn giữ lời hứa;
mạnh dạn nhận lỗi,
sửa lỗi và bảo vệ cái - Tôn trọng lẽ phải; bảo
đúng, cái tốt.
vệ điều hay, lẽ phải
- Không tự tiện lấy trước mọi người; khách
đồ vật, tiền bạc của quan, công bằng trong
người thân, bạn bè, nhận thức, ứng xử.
thầy cô và những
- Không xâm phạm của
người khác.

công.
- Không đồng tình
- Đấu tranh với các
với các hành vi thiếu hành vi thiếu trung thực
trung thực trong học trong học tập và trong
tập và trong cuộc
cuộc sống.
sống.

- Nhận thức và hành
động theo lẽ phải.
- Sẵn sàng đấu tranh bảo
vệ lẽ phải, bảo vệ người
tốt, điều tốt.
-Tự giác tham gia và vận
động người khác tham
gia phát hiện, đấu tranh
với các hành vi thiếu
trung thực trong học tập
và trong cuộc sống, các
hành vi vi phạm chuẩn
mực đạo đức và quy
định của pháp luật.

Trách nhiệm
Có trách
nhiệm
với bản
thân


- Có ý thức giữ gìn
vệ sinh, rèn luyện
thân thể, chăm sóc
sức khoẻ.

- Có thói quen giữ gìn - Tích cực, tự giác và
vệ sinh, rèn luyện thân nghiêm túc rèn luyện, tu
thể, chăm sóc sức khoẻ. dưỡng đạo đức của bản
- Có ý thức bảo quản và thân.
24


- Có ý thức sinh hoạt sử dụng hợp lí đồ dùng
của bản thân.
nền nếp.
- Có ý thức tiết kiệm
thời gian; sử dụng thời
gian hợp lí; xây dựng
và thực hiện chế độ học
tập, sinh hoạt hợp lí.
- Khơng đổ lỗi cho
người khác; có ý thức
và tìm cách khắc phục
hậu quả do mình gây ra.
- Có ý thức bảo
quản, giữ gìn đồ
dùng cá nhân và gia
Có trách đình.
nhiệm
với gia - Khơng bỏ thừa đồ

ăn, thức uống; có ý
đình
thức tiết kiệm tiền
bạc, điện nước trong
gia đình.
- Tự giác thực hiện
nghiêm túc nội quy
của nhà trường và
các quy định, quy
ước của tập thể; giữ
vệ sinh chung; bảo
vệ của công.

- Quan tâm đến các
công việc của gia đình.
- Có ý thức tiết kiệm
trong chi tiêu của cá
nhân và gia đình.

- Quan tâm đến các
cơng việc của cộng
đồng; tích cực tham gia
các hoạt động tập thể,
hoạt động phục vụ cộng
đồng.

- Tơn trọng và thực hiện
Có trách
- Không gây mất trật nội quy nơi công cộng;
nhiệm

tự, cãi nhau, đánh
chấp hành tốt pháp luật
với nhà
nhau.
về giao thông; có ý thức
trường
khi tham gia các sinh
và xã hội - Nhắc nhở bạn bè
hoạt cộng đồng, lễ hội
chấp hành nội quy
trường lớp; nhắc nhở tại địa phương
người thân chấp
- Không đồng tình với
hành các quy định, những hành vi khơng
quy ước nơi cơng
phù hợp với nếp sống
cộng.
văn hố và quy định ở
- Có trách nhiệm với nơi cơng cộng.

- Có ý thức sử dụng tiền
hợp lí khi ăn uống, mua
sắm đồ dùng học tập,
sinh hoạt.
- Sẵn sàng chịu trách
nhiệm về những lời nói
và hành động của bản
thân.

- Có ý thức làm trịn bổn

phận với người thân và
gia đình.
- Quan tâm bàn bạc với
người thân, xây dựng và
thực hiện kế hoạch chi
tiêu hợp lí trong gia
đình.

- Tích cực tham gia và
vận động người khác
tham gia các hoạt động
cơng ích.
- Tích cực tham gia và
vận động người khác
tham gia các hoạt động
tuyên truyền pháp luật.
- Đánh giá được hành vi
chấp hành kỉ luật, pháp
luật của bản thân và
người khác; đấu tranh
phê bình các hành vi vô
kỉ luật, vi phạm pháp
luật.

25


×