Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

LUAN văn lịch sử thế giói, tìm hiểu nền văn hóa phong kiến nhật bản (từ thế kỷ VII đến cuối thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.78 KB, 137 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia ở Châu Á, hai nước khơng
chỉ gần nhau về mặt địa lý mà cịn có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và
tính dân tộc. Xuất phát từ tình cảm thân thiết đó, từ lâu hai dân tộc đã hình
thành sự giao lưu trên nhiều lĩnh vực.
Mặc dù, mối quan hệ giữa hai dân tộc trong lịch sử cũng có những
lúc thăng trầm, nhưng tình cảm hữu nghị giữa hai nước vẫn mãi mãi trường
tồn cùng với thời gian.
Trong những năm gần đây, chính sách mở cửa và xu hướng xích lại
gần nhau của các quốc gia dân tộc trong khu vực và trên thế giới đang đặt
ra nhu cầu giao lưu và hòa nhập trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và đời
sống xã hội. Cùng với xu hướng đó, quan hệ giữa hai nước Nhật Bản và
Việt Nam đang ngày càng được tăng cường mở rộng, trao đổi với nhau về
nhiều phương diện. Trong đó, sự giao lưu văn hóa giữa hai nước được coi
là vấn đề quan trọng, nhằm để tìm ra tiếng nói chung và để tìm thấy nét đẹp
trong những nét riêng biệt về văn hóa của nhau. Mục tiêu đó đã được Hội
nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII nêu rõ: "Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu, vừa là
tấm gương phản chiếu để điều tiết sự phát triển kinh tế xã hội".
Ngoài những giá trị chuẩn mực xã hội, văn hóa cịn là một thực thể
tinh thần luôn ở trạng thái giao lưu, học hỏi. Đặc biệt là trong thời đại bùng
nổ thơng tin như hiện nay, đó là điều kiện cần thiết để nắm bắt những cái
tiến bộ, loại trừ những cái xấu xa, lỗi thời, để tự mình vươn lên chứ khơng
tự đánh mất mình, hịa nhập mà khơng hịa tan và hiểu người để hiểu mình.
Do vậy, chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của
xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ lành mạnh, không quan tâm giải



2

quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và cơng bằng xã
hội thì khơng thể có sự phát triển kinh tế xã hội bền vững. Điều đó, Tổng
Bí thư Đỗ Mười đúc kết một câu rằng: Q trình tiến hóa của một Quốc gia
ln ln phải gắn với cội nguồn, phát triển trên nền bản sắc văn hóa dân
tộc đi đơi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại... Nếu phát triển
tách khỏi cội nguồn, xa rời những giá trị văn hóa truyền thống, nhất định sẽ
lâm vào nguy cơ đánh mất bản thân, chẳng những khơng thể đóng góp cho
nền văn hóa chung của nhân loại mà cịn trở thành bản sao mờ nhạt của dân
tộc khác.
Chính bởi vậy, nhận thức đúng về văn hóa là một điều kiện khơng
thể thiếu trong việc trang bị hành trang tiến vào tương lai. Để bước sang thế
kỷ XXI này, làm cho mối quan hệ sâu sắc hơn theo tinh thần "Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hịa bình độc lập và phát triển" cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và
Nhật Bản nói riêng cần phải phát huy hơn nữa thì việc tăng cường sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các dân tộc và nhân dân Việt Nam - Nhật Bản là điều cần
thiết.
Bằng những ý nghĩa thực tiễn như trên, chúng tôi chọn đề tài
"Tìm hiểu nền văn hóa phong kiến Nhật Bản (Từ thế kỷ VII đến cuối thế
kỷ XIX)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã
hội của các quốc gia dân tộc thì việc tìm hiểu, giao lưu văn hóa giữa các
Quốc gia với nhau trở thành một vấn đề quan trọng. Cũng như nhiều quốc
gia khác, đặc biệt là sự thành công về kinh tế của Nhật Bản sau những thập
kỷ chiến tranh thế giới thứ hai đã thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên
thế giới và khu vực.


ở Việt Nam, việc nghiên cứu Nhật Bản đã được quan


3

tâm từ lâu và đã có những cơng trình được xuất bản, những bài đăng trên
tạp chí.
Cùng với q trình đổi mới, sự quan tâm của các nhà lãnh đạo và
nhân dân Việt Nam ngày càng tăng. Đặc biệt là hiện nay, mối quan hệ Nhật
Bản - Việt Nam ngày càng được tăng cường thì nhu cầu tìm hiểu về Nhật
Bản càng trở nên cần thiết.
Vì thế, khi nghiên cứu về Nhật Bản đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể, một số các tác giả đã có những cơng trình nghiên cứu trên nhiều
lĩnh vực. Trong đó nghiên cứu về văn hóa như chữ viết, văn học, nghệ
thuật, tơn giáo, tín ngưỡng... cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến. Tiêu
biểu như: Năm 1989 tác giả Hữu Ngọc trong cuốn "Hoa Anh Đào và điện
tử" đã có nhiều gợi ý về những thành tựu đã đạt được của nền văn hóa đó
qua các giai đoạn lịch sử. Năm 1990 San Som tác giả của hai tập "Lược sử
văn hóa Nhật Bản" đã miêu tả sơ lược về nguồn gốc và những đặc điểm của
tín ngưỡng dân tộc ở chương III, quá trình tiếp thu, phát triển về tư tưởng
Nho giáo và Phật giáo ở chương VI. Chương XII bàn về sự hình thành và
Nhật Bản hóa hệ thống tư tưởng này. Ngồi ra, tác giả cịn lý giải về quá
trình ra đời và sự hình thành của chữ viết, văn học, nghệ thuật Nhật Bản ở
chương VI và chương XII. Sự phát triển phổ biến của nền văn hóa Nhật
Bản mang màu sắc dân tộc được tác giả bàn tới ở chương XVI và XVIII.
Năm 1991 tác giả Vĩnh Sính trong cuốn "Nhật Bản cận đại" đã đưa ra
những khẳng định khái quát về những thành tựu văn hóa trong từng giai
đoạn lịch sử của chế độ phong kiến Nhật Bản. Năm 1995, các tác giả
Rechard Bowring và Peter Nikki trong cuốn "Bách khoa toàn thư Nhật
Bản" đã đưa ra những đặc điểm, mục đích khái quát về văn học, nghệ thuật,

tôn giáo kiến trúc, hội họa điêu khắc v.v...
Năm 1997, các tác giả Lương Duy Thứ, Phan Nhật Chiêu, Phan
Thu Hiền trong "Đại cương văn hóa phương Đơng" đã viết:


4

Văn hóa Nhật Bản chịu ảnh hưởng cả hai nền văn hóa Ấn Trung và sau này của phương Tây mà vẫn kiến tạo được một bản
sắc độc đáo, Nhật Bản là một biểu mẫu của thân hóa, dung hợp
và phát triển các ngọn nguồn văn minh khác nhau [35, tr. 223].
Trong các cơng trình ấy, đều nói về các tiêu đề văn học, nghệ thuật,
tôn giáo, kiến trúc hội họa, điêu khắc... đã được các tác giả đề cập đến.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả: Nguyễn Thị Việt
Thanh đã đóng góp nhiều ý kiến trong việc nghiên cứu về hệ thống chữ
Kana của Nhật Bản. Trần Hải Yến trong "Một số nét đặc trưng của văn học
Nhật Bản" đã viết:
Văn học Nhật Bản có những nét đặc trưng liên quan tới
văn học Trung Quốc và văn học phương Tây, những đặc trưng này
gắn liền với 5 nhân tố chính đó là: Vai trị của văn học trong văn
hóa Nhật Bản với tư cách một tổng thể, mơ hình phát triển của lịch
sử văn học, ngơn ngữ Nhật Bản và hệ thống chữ viết của nó, cơ
sở xã hội của văn học và những yếu tố tơn giáo và triết học [34].
Trong "Tìm hiểu Đạo Phật ở Nhật Bản", Nguyễn Thị Thúy Anh đã
chia quá trình hình thành và phát triển của Đạo Phật Nhật Bản ra 3 thời kỳ
"Truyền bá, Nhật Bản hóa, Tồn tại" [4].
Các cơng trình nghiên cứu trên là những tư liệu quý có ý nghĩa
quan trọng trong việc gợi ý, hướng dẫn chúng tôi thực hiện đề tài.
Như vậy, vấn đề mà đề tài đặt ra còn mới mẻ. Theo suy nghĩ của
chúng tơi, nghiên cứu để góp thêm một ý kiến nhằm đáp ứng phần nào đó
về nhu cầu tìm hiểu nền văn hóa phong kiến Nhật Bản là điều cần thiết và

bổ ích.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


5

Mục đích của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu về nền văn hóa thời
phong kiến Nhật Bản, nhằm nâng cao hơn nữa về sự hiểu biết nền văn hóa,
và những nét truyền thống nổi bật của đất nước Nhật Bản.
Để thực hiện được mục đích đó, chúng tơi đã nghiên cứu về các vấn
đề văn hóa như chữ viết, văn học, nghệ thuật, tơn giáo, tín ngưỡng... thơng
qua các giai đoạn lịch sử, thiết chế chính trị thời phong kiến Nhật Bản. Qua
việc nghiên cứu cho thấy, quá trình hình thành và phát triển Nhật Bản nói
chung, là một dân tộc gặp nhiều khó khăn. Do sự tác động của điều kiện địa
lý cũng như chịu sự ảnh hưởng nền văn hóa bên ngồi. Nhưng nhân dân
Nhật Bản đã tự vượt qua mọi khó khăn, từng bước vươn lên trở thành một
biểu tượng của một quốc gia phát triển nhất ở phương Đơng thời hiện đại.
Q trình ảnh hưởng, tiếp thu và xây dựng đó là cơ sở cho đề tài chúng tôi
cần nghiên cứu.
Chúng tôi hy vọng rằng, đề tài thành cơng sẽ đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc nghiên cứu, trao đổi với nhau trong mối quan hệ giữa hai
nền văn hóa Nhật Bản và Việt Nam. Theo mục tiêu thúc đẩy sự phát triển
nền kinh tế, văn hóa mà Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đề ra.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài chúng tơi đã sử dụng kết hợp các
phương pháp sau:
- Nghiên cứu lịch sử là phương pháp quan trọng. Sử dụng phương
pháp này dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu sự thật, cụ thể. Bao gồm
các tài liệu có liên quan về văn hóa thời phong kiến Nhật Bản như: Văn

học, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, tôn giáo và tín ngưỡng...
- Khi nghiên cứu đề tài, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp thống
kê, phương pháp này dùng để thống kê, phân loại các tư liệu đã thu thập


6

được, giúp người nghiên cứu nhìn nhận, phân tích, đánh giá tính khả thi của
vấn đề mà đề tài đặt ra.
- Quan sát là phương pháp không thể thiếu khi nghiên cứu đề tài
này. Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát để nhìn nhận khái qt một
cách tồn diện về văn hóa Nhật Bản, để đi sâu vào nghiên cứu từng giai
đoạn nhỏ trong thời kỳ lịch sử phong kiến Nhật Bản.
- Ngoài các phương pháp trên, đề tài cịn kết hợp sử dụng phương
pháp lơgic và phương pháp lịch sử. Hai phương pháp này có tác dụng bổ
sung hỗ trợ lẫn nhau giúp người nghiên cứu nhìn nhận vấn đề một cách
lôgic, khoa học trong việc xử lý tài liệu, so sánh, đối chiếu theo hệ thống
thông tin đã thu thập được. Dựa trên cơ sở đó để giải thích, đánh giá và tìm
ra những kết luận đúng mang tính khách quan.
5. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, vấn đề quan tâm trước tiên là sự hình thành,
tiếp thu và phát triển của nền văn hóa phong kiến Nhật Bản. Chúng tôi đã
nghiên cứu về tất cả các mặt của nền văn hóa Nhật Bản như văn học, nghệ
thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, tôn giáo... theo các giai đoạn phát triển
lịch sử.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 5 chương.



7

Chương 1
NHẬT BẢN - ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI

1.1. ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN

Nhật Bản - "Xứ sở hoa Anh Đào" là một quần đảo ở phía Đơng Bắc
lục địa châu Á, nằm giữa biển Nhật Bản và Thái Bình Dương. Quần đảo
này được hình thành bởi những vụ nổ núi lửa cách đây nhiều triệu năm. Nó
bao gồm gần 4000 đảo lớn nhỏ uốn theo hình cánh cung rải từ Đông Bắc
xuống Tây Nam, với chiều dài khoảng 3.900km, từ vĩ độ bắc 45 033 đến
20025. Nhật Bản có tổng diện tích là 377.815km 2. Tuy là một quần đảo
nhưng nó chỉ có 4 đảo lớn, theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido
(Bắc Hải đảo); Honshu (Bản đảo hay Bản Châu); Shikoku (Tứ quốc);
Kyushu (Cửu Châu).
Xét về mặt địa lý, Nhật Bản nằm ở một vị trí biệt lập cách xa đại
lục, khoảng cách từ Nhật Bản đến Trung Quốc là 800km, vùng gần miền
Nam bán đảo Triều Tiên là đảo Kyushu cách tới 180km. Có thể nói rằng,
Nhật Bản đủ xa châu Á để thoát khỏi các đột biến của lục địa nhưng lại đủ
gần để có thể hưởng những thành quả của nền văn minh đó. Từ xa xưa, quần
đảo Nhật Bản giữ mối quan hệ với lục địa châu Á qua ba con đường: Phía
Bắc từ miền Đơng Xibia đến Hokkaido qua Sakhalin; Phía Đơng từ bán
đảo Triều Tiên đến Honshu và đường phía Nam từ đất Trung Hoa đến đảo
Kyushu qua Đài Loan và quần đảo Ryukyu. Từ ba con đường này, Nhật
Bản có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa từ lâu với thế giới. Tuy nhiên,
tính chất "đảo" ấy đã tạo nên ở Nhật Bản một hoàn cảnh địa lý đặc biệt.
Nếu như nữ thần Amatêraxu đã ưu ái phú cho Nhật Bản những người con
gái đẹp và khí hậu ơn hịa, thì người lại dồn cho Nhật Bản nhiều thử thách
thiên nhiên mà trong đó thường trực tai họa khủng khiếp như: Bão tố, sóng

thần thường xuyên ập đến, nhất là khi giao thơng cịn sơ khai, là một trở


8

ngại lớn đối với Nhật Bản trong việc quan hệ giao lưu với các nước xung
quanh và thế giới. Nhưng sự biệt lập của tính chất "đảo" lại tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, giúp cho người
Nhật chủ động cải tạo và xây dựng nền văn minh thống nhất và độc đáo của
mình.
Điều kiện tự nhiên Nhật Bản tuy đẹp nhưng quả thật khắc nghiệt
đối với con người. Những hòn đảo nghèo nàn này không được hưởng
những thiên thời và địa lợi. Ở Nhật Bản, đất đai canh tác ít chỉ chiếm 15%
diện tích, cịn lại là đồi núi. Nhật Bản khơng những khơng có con sơng lớn,
khơng có những cánh đồng phù sa màu mỡ như ở Ai Cập, Lưỡng Hà hay
Trung Quốc mà còn là đất nước phải chịu đựng nhiều nét khắc nghiệt và dữ
dội của một vùng đất đầy núi lửa, động đất, sóng thần, bão lụt và hạn hán.
Cho đến ngày nay, ở Nhật Bản còn hơn 30 ngọn núi lửa đang hoạt động
trong số 196 ngọn núi. Hàng năm có tới hàng nghìn lần rung chuyển địa
chất và thỉnh thoảng lại có những trận động đất lớn, có khi thiêu hủy cả
thành phố.
Người Nhật đã ý thức sớm được những khó khăn bất lợi trong điều
kiện địa lý và tự nhiên. Cho nên, từ thời cổ đại, Nhật Bản đã nhanh chóng
tiếp thu những tinh hoa tiến bộ từ bên ngoài vào, đặc biệt là ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa để tạo điều kiện cho bước phát triển của mình. Như
vậy, việc tìm hiểu vị trí địa lý và tự nhiên của Nhật cho chúng ta thấy, Nhật
Bản đã vươn lên thật là mạnh mẽ như thế nào để trở thành một trong những
dân tộc đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, kỹ thuật. Sự thành cơng đó đã
chứng tỏ là một thắng lợi của con người đối với thiên nhiên.
1.2. CON NGƯỜI NHẬT BẢN


Người Nhật Bản có nguồn gốc như thế nào? Hay người Nhật từ đâu
đến? Đây là một vấn đề cịn đang được tranh luận. Nhưng có một số điểm
gần như được nhiều nhà nghiên cứu và nhiều nhà khảo cổ học thống nhất


9

với nhau rằng, tổ tiên xa xưa của người Nhật là từ nhiều nơi đến. Đặc biệt
là nhóm di cư từ phía Bắc lục địa châu Á xuống và có một bộ phận từ các
miền duyên hải Nam Á lên. Những phát hiện trên quần đảo cho thấy, từ
thời đại đồ đá cũ khoảng 10 vạn năm trước đây có các nhóm cư dân săn
bắn và hái lượm, rải rác từ miền Đơng Xibia di cư sang phía Bắc Nhật Bản
qua đường Hokkaido và Sakhalin. Nền văn hóa thuộc thời đại này được
phát hiện nằm rải rác trên khắp nước Nhật như: Những chiếc cầu bằng đất,
những kiểu nhà ở và các câu chuyện truyền thuyết gợi lên nguồn gốc đại
dương, các đặc điểm văn hóa đa dạng có nhiều nét tương tự như ở phía
Nam Trung Quốc, các lăng mộ và việc chế tác đã gợi đến mối liên hệ với
việc di cư của người dân từ vùng Triều Tiên và vùng phía Bắc Trung Quốc.
Tất cả điều đó đã cho thấy: "Chủng tộc Nhật Bản là kết quả của sự pha trộn
các yếu tố của các miền khác nhau trên lục địa châu Á từ thời tiền sử" [26,
tr. 14]. Trong đó, nịi giống phương Bắc chiếm một phần khá mạnh, chủ
yếu là người Mơng Cổ, ngồi ra còn các yếu tố Trung Hoa và người Ainu.
Trải qua nhiều thời đại lịch sử, sự pha trộn ấy đã sản sinh ra một dân tộc
tương đối thuần nhất để phân biệt với các nước láng giềng như Trung
Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, cả trong ngôn ngữ, sinh hoạt, tôn giáo, cơ cấu
chính trị và xã hội... Những nét riêng đó đã sớm trở thành bản chất của
người Nhật Bản.
Trong lịch sử phát triển của mình, yếu tố Trung Hoa đóng một vai
trị quan trọng. Từ xa xưa, người Nhật đã có sự khát khao đối với các nền

văn minh khác, và trong lịch sử tiến hóa của mình, người Nhật hoan
nghênh các yếu tố văn hóa nước ngồi mà khơng gạt bỏ các tập tục truyền
thống đã có. Có thể nói, nhân dân Nhật Bản đã hấp thụ có chọn lọc nhiều
phát kiến văn hóa của các nền văn minh trên thế giới. Ngay từ thời tiền sử,
văn hóa Trung Hoa đã thấm đượm trong văn hóa Nhật Bản. Do sự kết hợp


10

giữa con người, điều kiện địa lý và thiên nhiên độc đáo, tạo nên tính cách
đặc trưng của con người Nhật Bản.
Trước tiên là tính hiếu kỳ, nhạy cảm với văn hóa nước ngồi. Điều
đó có thể nói, khơng có một dân tộc nào nhạy bén về văn hóa nước ngồi
như người Nhật, họ khơng ngừng phát triển, theo dõi những biến đổi của
thế giới bên ngoài. Khi họ biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ sẵn sàng
chấp nhận, học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lưu đó khơng để lỡ thời cơ.
Ví như: Khi thấy văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, người Nhật đã
nhanh chóng tiếp thu nền văn hóa ấy, nhưng họ rất ý thức về tài sản văn
hóa của họ, một nền văn hóa đã được trang trọng bồi dưỡng và tích lũy qua
các thời đại lịch sử vì thế người Nhật rất trân trọng nó.
Người Nhật cũng có óc thẩm mỹ, sự bền bỉ, kiên trì cũng là tính
cách của người Nhật. Họ ưa chuộng cái đẹp, điều đó được thể hiện trong
tính cách ăn mặc, kiến trúc và lối sống. Những đặc trưng trong tính cách
người Nhật là điều kiện thuận lợi cho sự tiếp thu những tinh hoa của nhân
loại, đồng thời nó giúp cho người Nhật Bản chủ động nắm bắt và cải tiến
nền văn hóa ấy mang màu sắc dân tộc mình.


11


Chương 2
VĂN HÓA NHẬT BẢN TỪ CẢI CÁCH TAIKA
ĐẾN TRƯỚC KHI THÀNH LẬP CHẾ ĐỘ MẠC PHỦ
(TỪ THẾ KỶ VII ĐẾN THẾ KỶ XII)

2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA NHẬT BẢN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ
CẢI CÁCH TAIKA ĐẾN TRƯỚC KHI THÀNH LẬP CHẾ ĐỘ MẠC PHỦ

Từ cuối thế kỷ VI, một bộ phận quý tộc Nhật Bản chịu ảnh hưởng
của nền văn hóa, đặc biệt là những học thuyết chính trị và pháp luật của
Trung Quốc, muốn cải cách nước Nhật theo mơ hình của nhà Đường.
Nhưng lúc đó, dịng họ Soga (Tô Ngã) đang nắm quyền lực lớn trong triều
đình, chiếm đoạt nhiều ruộng đất và nhiều bộ dân, đó là chướng ngại chủ
yếu trên con đường xây dựng và củng cố Nhà nước Trung ương tập quyền
ở Nhật Bản. Vì vậy chỉ có thủ tiêu thế lực Soga thì việc cải cách mới có thể
thực hiện được. Năm 645, trong khi tiếp kiến với sứ giả Triều Tiên, quan
nhiếp chính Soga Iruca (Tơ Ngã Nhập Lộc) đã bị ám hại. Những người đảo
chính sau đó bao vây và đốt cháy dinh phủ, giết hại những người thuộc
dòng họ Soga. Quyền lực thực sự trả về cho Thiên hoàng Kotoku (Hiếu
Đức), đặt niên hiệu là Taika (Đại Hòa).
Khi lên nắm chính quyền Thiên hồng Kotoku đã ban hành một loạt
cải cách, vào tháng giêng năm 646 (năm Taika thứ hai). Thiên hồng Kotoku
hạ chiếu cải cách và tiếp đó ban hành một số luật lệnh cụ thể dựa trên cơ sở
của chế độ chính trị và tơ thuế nhà Đường. Những cuộc cải cách này trong
lịch sử Nhật Bản gọi đó là cuộc cải cách Taika (Đại Hịa Cách Tân).
Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách Taika là thiết lập một hệ thống
chính trị từ trung ương đến địa phương theo mơ hình nhà Đường ở Trung
Quốc, đồng thời tuyên bố xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất của



12

các quý tộc thị tộc. Trừ ruộng đất của các đền chùa, còn lại tất cả ruộng đất
trong nước đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Chế độ bộ dân (những
người dân bán tự do) cũng bị xóa bỏ và bộ dân được giải phóng, được tự do
bình đẳng như những người dân tự do khác. Nhưng tất cả mọi người đều
trở thành thần dân chịu sự quản lý của Thiên hoàng.
Sau cải cách Taika, xã hội Nhật Bản có sự chuyển biến lớn lao, với
cuộc cải cách này, chế độ bộ dân bị xóa bỏ, sức lao động của bộ dân được
giải phóng và được coi như dân tự do. Thực chất là xác lập quan hệ sản
xuất phong kiến, tức là Nhà nước có quyền sở hữu tối cao về ruộng đất.
Chính sách "ban điền" của Nhà nước đã đem lại ruộng đất cho nông dân, kể
cả bộ dân được giải phóng cũng được chia ruộng đất, họ có kinh tế và gia
đình nên họ hứng thú sản xuất hơn. Tuy nhiên, họ phải chịu nộp mức thuế
cố định theo chế độ bóc lột Tơ-Dung-Điệu của Nhà nước. Những nguyên
tắc chính của chế độ này đã được cụ thể hóa trong bộ luật Taiho Retsurgo.
Các gia đình, những người nông dân được chia ruộng đất nhưng họ khơng
có quyền rời khỏi phần ruộng đất được chia của mình và họ phải trả tơ thuế
cho Nhà nước và các nghĩa vụ lao động bắt buộc khác.
Như vậy, chế độ "ban điền" sau cải cách Taika đã xác nhận quan hệ
sản xuất phong kiến ở Nhật Bản. Mặc dù những biện pháp trên giải phóng
được chế độ bộ dân và đem lại ruộng đất cho nông dân, nhưng đồng thời nó
cũng trói chặt nơng dân vào ruộng đất để Nhà nước và bọn chủ ruộng thống
trị, nô dịch họ.
Bên cạnh việc chia ruộng đất cho nông dân, Nhà nước còn phân
phong đất đai cho tầng lớp quý tộc tùy theo tước vị, chức sắc và công lao
của họ. Những phần đất đặc quyền này được quy định theo ba loại là: tước
vị và chức sắc chỉ được ban tặng tạm thời một hoặc hai, ba đời. Cịn cơng
lao là tối đa, phần lớn đất đai này là của con cháu giới q tộc có quyền thế
trong bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương, nên đã dần dần



13

biến ruộng đất được ban cấp thành ruộng đất tư hữu. Ở những vùng đất đặc
quyền có nơng dân sinh sống thì những người nơng dân đã trở thành
"phong hộ" cho giai cấp quý tộc, họ phải nộp phần lớn thu nhập sản phẩm
của mình cho giai cấp quý tộc. Ngồi ra, chúng cịn cướp đoạt ruộng đất
của nơng dân để mở rộng thêm phần đất của mình.
Do vậy, quy mơ và hình thức sở hữu đất đai ngày càng lớn và đa
dạng, đó là tiền đề làm cho cuộc cải cách Taika trong thực tế đã bị thất bại.
Thêm vào đó, sự yếu kém của chính quyền từ trung ương đến địa phương,
quyền lực bị chia cắt nhỏ trong việc quản lý đất đai, thu thuế cũng là những
bối cảnh dẫn đến hệ quả trên. Chế độ ban điền đã bị bãi bỏ từ năm 850. Lợi
dụng chính sách khai khẩn đất hoang của triều đình, lại được sự che chở
của giới quý tộc ở kinh đô, nên tầng lớp địa chủ ở địa phương đã chiếm
đoạt nhiều ruộng đất. Các thế lực mạnh lên nhanh chóng, họ muốn có
quyền sở hữu vĩnh viễn đối với đất đai của họ. Cùng với thời gian, các phần
đất được chia bị biến thành trang viên (Shoen) phong kiến. Các Tự Viện
(đền chùa) cũng được Thiên hoàng và quý tộc ban tặng nhiều ruộng đất và
cũng trở thành các trang viên, được miễn thuế hoàn toàn. Các chủ trang
viên đã trở thành các chúa đất độc lập, họ không chịu sự kiểm sốt của triều
đình.
Những người nơng dân trở thành sở hữu riêng của các chủ lãnh địa
phong kiến. Sự bóc lột tàn bạo, tô thuế cao cùng với việc chiếm đoạt ruộng
đất của nông dân đã gây ra những cuộc phản kháng rõ rệt, những người
nông dân chạy trốn khỏi lãnh địa. Một số người chạy trốn đã tổ chức thành
các đội chuyên đi ăn cướp, từ đó xuất phát các cuộc khởi nghĩa chống
phong kiến được hình thành.
Từ sau cuộc đảo chính năm 645, chính quyền trở về tay Thiên

hồng. Đến năm 710, kinh đô thường trực đầu tiên của Nhật Bản được xây
dựng hoàn thành theo lệnh của nữ hồng Genmei, đó là kinh đơ Nara (Nại


14

Lương). Trong suốt 70 năm, từ năm 710 đến năm 794, Nara trở thành trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Nhật Bản. Tuy nhiên, có những cuộc đấu
tranh giữa tầng lớp quý tộc cũ, muốn khôi phục lại quyền lợi và địa vị trước
kia với tầng lớp quan lại diễn ra thường xuyên. Đại diện cho tầng lớp quý
tộc cũ là họ Otomo và tầng lớp quan lại mới là họ Fujiwara. Vì dịng họ này
có cơng trong việc tiêu diệt họ Soga trong cuộc cải cách Taika, nên được
Thiên hoàng ưu đãi, như được giữ chức vụ cao trong triều đình, phong cấp
nhiều bổng lộc... làm cho dòng họ Fujiwara ngày càng mạnh lên. Cuối cùng
họ Fujiwara đã đánh bại hoàn toàn tầng lớp quý tộc cũ và lên nắm chính
quyền, chấm dứt thời Nara.
Sau khi đánh bại những tàn dư quý tộc cũ, dòng họ Fujiwara ngày
càng độc đoán về quyền lực, họ lấn át cả Thiên hồng, buộc Thiên hồng
phải rời đơ từ Nara đến Heian-Kyo (Bình An kinh), từ đó được gọi là thời
kỳ Heian.
Trong thời kỳ Heian, dòng họ Fujiwara càng trở nên lớn mạnh,
chiếm lĩnh mọi quyền lực thực tế của Thiên hồng, và khơng ngừng củng
cố địa vị thống trị của mình. Từ giữa thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XI, họ
Fujiwara kế tiếp nhau chiếm đoạt quyền hành của nhà vua. Trên thực tế
chính quyền trung ương ngày càng trở nên suy yếu về mọi mặt.
Sự chấp chiếm quyền lực của dịng họ Fujiwara đã gây ra tình trạng
thù địch lẫn nhau giữa các phe phái phong kiến, những cuộc xung đột xảy
ra thường xuyên. Ở kinh đô, các thế lực phong kiến thù địch với dòng họ
Fujiwara ngày càng gay gắt. Từ thế kỷ XI, các Thiên hoàng đã tìm mọi
cách thốt khỏi sự khống chế và ràng buộc của dịng họ Fujiwara nhằm để

khơi phục lại quyền lực của mình bằng cách dựa vào tầng lớp quý tộc quan
lại bị sa sút, tầng lớp sư sãi Phật giáo có thế lực, đồng thời bãi bỏ chế độ
nhiếp chính, khơng tuyển hồng hậu thuộc họ Fujiwara, thiết lập chế độ


15

nghị chính. Theo chế độ này, Thiên hồng nhường ngơi cho con và trở
thành Thượng hoàng rồi lên Pháp hoàng.
Vào năm 1086, khi Thiên hồng Shirakawa nhường ngơi cho con và
ơng trở thành Thượng hồng. Cùng năm đó, ơng thiết lập một cơ quan mới
gọi là Isne (Viện chính). Thực chất của Viện chính là một tổ chức theo dõi
việc chính trị của triều đình để giúp đỡ Thiên hồng, và là cơ sở của Hoàng
gia để chống lại họ Fujiwara. Đến đầu thế kỷ XII, Viện chính của Thiên
hồng dựa vào hai họ Taira và Minamoto để đấu tranh với họ Fujiwara, cũng
làm cho thế lực này ngày càng giảm sút. Trong khi đó họ Taira lại nhanh
chóng phát triển thế lực của mình, nắm lấy mọi quyền hành. Điều đó, làm
cho mâu thuẫn giữa Viện chính và họ Minamoto diễn ra gay gắt. Vào năm
1181, cuộc nội chiến giữa họ Taika và Minamoto nổ ra nhằm tranh giành bá
quyền với nhau. Năm 1185, họ Minamoto đánh bại hoàn tồn họ Taika
trong trận Dannoura, từ đó quyền hành chuyển sang tay dịng họ
Minamoto.
2.2. VĂN HĨA NHẬT BẢN TỪ CẢI CÁCH TAIKA ĐẾN TRƯỚC KHI
THÀNH LẬP CHẾ ĐỘ MẠC PHỦ

2.2.1. Tôn giáo
2.2.1.1. Thần đạo
Từ xa xưa, người Nhật luôn luôn gắn bó đời sống của mình với lễ
bái, thờ phụng thiên nhiên, các chư thần, tổ tiên... Nói chung việc lễ bái,
thờ phụng ấy không bị ảnh hưởng bất cứ một dịng tơn giáo nào. Cho nên,

lúc đầu nó chưa có tên gọi. Đến thế kỷ VI, khi Phật giáo du nhập vào Nhật
Bản. Để phân biệt với Đạo Phật, các nhà tư tưởng học Nhật Bản mới đặt
tên cho tơn giáo đó là Thần đạo.


16

Thần đạo là tôn giáo sơ khai bản địa của người Nhật, do người Nhật
sáng tạo ra từ thời nguyên thủy và tồn tại cho đến ngày nay. Nó hình thành
từ niềm tin, từ lịng thành kính của mỗi người dân Nhật Bản đối với tổ tiên,
thiên nhiên và thánh thần. Họ tin rằng, tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên đều do thánh thần sinh ra, kể cả tổ tiên của họ cũng là con cháu
của thánh thần. Từ đó, họ coi là một thế giới thần quyền, có quyền quyết
định đến số phận của con người trong một xã hội nông nghiệp. Thế giới ấy
được phản ánh qua các thần núi, thần mưa, gió, thần sơng, thần suối, thần
mặt trăng, mặt trời... và cần phải thờ phụng nó.
Đối với người Nhật, thế giới thánh thần là biểu hiện tình cảm cao
quý của nhân dân Nhật Bản. Tình cảm đó giống như một phần nào của tín
ngưỡng đa thần giáo ở Hy Lạp, La mã cổ đại, nó chưa phải là tơn giáo theo
đúng giáo lý có nguồn gốc lịch sử, nó cũng khơng phải là sản phẩm của
một cuộc cách mạng về ý thức. Không giống như Đạo Hồi, Đạo Phật và
Đạo Kitơ, nó khơng có người sáng lập, khơng có các vị thánh thần có tên
tuổi cụ thể, và những kẻ tử vì đạo, khơng có kinh thánh và thầy tu, nó là
một "tập tục không được một tổ chức hay một đạo giáo nào hướng dẫn mà
chỉ là dân gian tập tục" [38, tr. 4].
Do vậy, có thể coi đây là một hình thái tín ngưỡng tự nhiên xuất
phát từ nhận thức con người cho rằng, tất cả mọi sự vật đều có linh hồn và
đều có tình cảm. Những biểu hiện của tự nhiên lớn hay nhỏ đều do sự hiện
diện của thánh thần hay linh hồn "Kami". Kami sẽ căn cứ vào sự đối xử của
con người mà đáp lại một cách thuận lợi hay khơng thuận lợi. Vì thế, tất cả

mọi sự vật và linh hồn đều được thờ cúng để nó phù hộ cho con người.
Đối với người Nhật, "Kami" (Thánh thần) để chỉ "người trên" hoặc
"cấp trên" và ai được phong là Kami có nghĩa là người đó có một số phẩm
chất và quyền lực cao hơn người thường, là tổ tiên vĩ đại, là những anh
hùng vĩ đại. Tuy nhiên, từ ngữ "Kami" không chỉ dùng cho người mà còn


17

dùng cho cả thiên nhiên như: Cây cối, tảng đá, khu rừng... và các vật dụng,
như một số công cụ, thanh gươm... Từ những ý nghĩa trên, ta thấy sự tôn
thờ thần thánh của người Nhật cũng giống như tất cả các dân tộc trong giai
đoạn sơ khai. Nhưng, sự tôn thờ thánh thần đối với người Nhật là những
thế lực vơ hình, khơng có hình ảnh cụ thể như các tơn giáo khác. Chẳng
hạn Phật giáo có Thích Ca Mâu Ni, Kitơ giáo, có Giêsu. Đối với "Kami",
nó mang lại cho con người no ấm, che chở cho con người khỏi thiên tai,
dịch bệnh, khiến cho người Nhật tin yêu hơn là sợ sệt.
Trong việc tôn thờ "Kami" (Thánh thần) của người Nhật thì việc tơn
thờ thần Mặt trời là đặc trưng tiêu biểu nhất. Theo truyền thuyết, có hai vị
thần Izanagi và nữ thần Izanami, vừa là anh em, vừa là vợ chồng đã sinh ra
mọi thứ trong vũ trụ. Trong đó có những hịn đảo sẽ là lãnh thổ của Nhật
Bản. Nhưng đến khi sinh ra vị thần lửa thì nữ thần Izanami bị thiêu chết.
Nam thần Izanagi đi theo bà xuống dưới âm phủ, vì quá muộn nên xác bà
đã bắt đầu thối rữa, Izanagi hoảng sợ bỏ chạy để khỏi nhìn thấy cảnh chết
rục của vợ, về đến trần gian chàng vội vã tẩy uế thân thể bằng cách nhảy
xuống biển tắm. Tất cả quần áo của chàng cởi ra đều là thánh thần "Kami"
của Thần đạo. Trong số những vị thần đó thì Amateraxu được tôn là đại
thần đã phái xuống trần gian 800 vị thần để phị tá Thiên hồng. Về sau
Amateraxu nhường ngơi trị vì các đảo Nhật Bản cho con cháu của mình và
đó chính là Thiên hồng. Dịng dõi hồng tộc đó vẫn trị vì ở Nhật Bản cho

tới ngày nay. Có lẽ, chính vì tơn sùng thần Mặt trời nên người Nhật thường
gọi đất nước mình là "Đất nước Mặt trời mọc". Cùng với thời gian, những
tín ngưỡng này ngày càng ăn sâu vào đời sống tinh thần của người Nhật.
Dần dần phát triển lên gọi là Thần đạo.
Như vậy, Thần đạo là kết quả của sự pha trộn từ những tín ngưỡng
từ thời tiền sử, hay nói cách khác là có nguồn gốc bái vật giáo. Đối tượng
chính trong các nghi lễ của Thần đạo là những vị thần được gọi là Kami.


18

Kami có thể có nhiều loại khác nhau và được phân biệt bằng những tên
riêng, nhưng lại có đặc điểm chung. Kami khơng có hình dạng cố định và
chỉ biểu lộ hình thức khi được mời gọi trú ngụ trong những vật cụ thể như
cái bình, gậy, tảng đá.... Những người có khả năng về tâm linh sẽ đóng vai
trị cầu nối giữa Kami với thế giới loài người. Kami sống ở thế giới riêng
và hàng năm được mời đến với thế giới lồi người vào các mùa thơng qua
các nghi lễ để mong được ban phước lành.
Đặc điểm chủ yếu của nghi lễ Thần đạo là chú ý đến sự trong sạch,
vi phạm điều này có nghĩa là xúc phạm đến Kami, như vậy sẽ là có tội. Do
đó, muốn tránh được tội thì phải kiêng giữ sạch sẽ khi đến gần Kami. Trước
khi hành lễ, phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ, vì người bẩn là điều tối kỵ.
Tuyệt đối không được hành lễ khi phải mang trong người những thứ bẩn
như đang hành kinh hay trong thời kỳ sinh đẻ. Trong những truyện thần
thoại có nói đến "những lều đẻ" hay "lều cưới" phải làm cách xa nhà nhằm
tránh cho nhà khỏi bị bẩn. Ngoài ra, bệnh tật, người chết ốm đau... cũng là
nguồn gây bẩn. Vì thế, ngay từ thời cổ đại đã có một danh sách những tội
cần được rửa trong các kỳ lễ.
Đó là việc cơ bản, trước khi tiến hành nghi lễ đều được thực hiện
ba cách sau: "Trừ tà" - do thầy cúng thực hiện nhằm tẩy trừ sự ô uế do tội

lỗi gây ra, bằng cách người làm lễ phải nộp tiền phạt về tội lỗi của mình.
"Tẩy uế" (Misogi), là nghi lễ nhằm tẩy trừ sự ô nhiễm do đụng chạm với
những thứ bẩn thỉu từ cái chết và bệnh tật. Thông thường là tắm rửa hoặc
vẩy nước muối, nghi thức này còn tồn tại cho đến ngày nay. "Trai giới", là
phương pháp chủ yếu liên quan đến các thầy cúng, họ phải tuân thủ những
điều cấm kỵ, không được đụng chạm đến bệnh tật, cái chết, tang ma, chỉ
được mặc quần áo đã được tẩy uế cẩn thận, "phải cách ly với bên ngoài và
ăn kiêng gồm những sản vật từ cây, nước lã" [5, tr. 4].


19

Nói chung, nghi lễ của Thần đạo với mục đích chủ yếu là mong
muốn mùa màng bội thu. Nghi lễ này, được biểu hiện qua rất nhiều lễ hội,
những lễ hội quan trọng nhất đều có liên quan ít nhiều đến nghề nông như:
Lễ hội hoa quả đầu mùa (Niiname), Hội thần nếm (Kanname) được tổ chức
tại cung điện của Thiên hoàng và các đền miếu, Hội cùng nếm (Ainame) là
Thiên hoàng cùng với các thần nếm cơm gạo mới và rượu mới nấu.
Trong các nghi lễ đó, có lễ lớn nhất là hội cùng nếm hoa quả đầu
mùa, lễ hội này thường được tiến hành sau lễ lên ngôi chính thức của Thiên
hồng. Lễ hội được tiến hành ở cung điện của Thiên hồng trong tịa nhà
bằng gỗ được dựng lên một cách đặc biệt, sau khi kết thúc lễ hội ngơi nhà
đó đã bị phá hủy ngay. "Những nghi lễ đó đã giữ lại được từ thời cổ với
một kỹ thuật nguyên thủy về sản xuất và cất giữ lương thực và đậm nét
quan tâm đến việc bảo vệ cho sự phong phú mùa màng" [5, tr. 4]. Bên cạnh
những nghi lễ cầu tạ ơn về mùa màng, cịn có những nghi lễ chống lại hoặc
xua đuổi dịch bệnh, rủi ro, ơ uế...
Tóm lại: Thần đạo là thứ tơn giáo sơ khai bản địa của người Nhật,
nó được hình thành từ thời tiền sử trên quần đảo Nhật Bản. Thần đạo không
phải là quốc giáo của Nhật Bản, vì nó khơng cấu thành nổi một triết lý, khơng

kinh kệ, giáo điều của màu sắc cá tính Thần đạo. Trên thực tế, thần đạo cũng
không phải là thứ tôn giáo riêng của người Nhật Bản. Vì cũng giống như
người Trung Quốc, Việt Nam đều thờ cúng trời đất, vua chúa, tổ tiên, thần
thánh của mình. Nhưng tư tưởng tơn giáo trong đạo đức của người Nhật
được đồng hóa với tín ngưỡng ngay từ tiền khởi của nền tơn giáo sơ khai..
2.2.1.2. Phật giáo
Từ sau công nguyên, Đạo Phật đã vượt ra khỏi biên giới và phạm vi
của triết lý truyền thống Ấn Độ, mở rộng ra nhiều nước trong khu vực
Trung Á và Đông Á. Đặc biệt, Trung Quốc là nơi Phật giáo được truyền bá


20

rất thành cơng, và sau q trình du nhập nó đã được nhào nặn ở Trung
Quốc mang những nét khác biệt cơ bản so với Phật giáo ở Ấn Độ. Từ
Trung Quốc, Đạo Phật đã du nhập vào Triều Tiên, và từ đó được truyền bá
sang Nhật Bản vào thế kỷ VI.
Theo sử sách, vào năm 552, vua Triều Tiên Bách Tế (Packeche) cử
hai học giả Achiki và Wani, sang cầu viện triều đình Yamato giúp đỡ về
mặt quân sự và hy vọng Nhật Bản sẽ trợ giúp mình chống lại kẻ thù. Cho
nên, đã gửi cho Thiên hoàng Yamato một tượng phật bằng vàng và nhiều
tặng phẩm khác. Trong đó, có một số bộ kinh phật và kèm theo một bức thư
hết lòng tán dương Phật giáo rằng: "Phật giáo tuy khó giải thích và khó
hiểu, đây là một thứ học thuyết hay nhất và có thể giúp thực hiện mọi
nguyện vọng" [26, tr. 75]. Điều này đã tác động lớn đến tầng lớp quý tộc
Nhật Bản, đặt vấn đề có nên tiếp nhận tơn giáo mới hay khơng? Do đó, đã
thường xuyên xảy ra những cuộc xung đột giữa hai phe phái, đại diện cho
phái chống đối là họ Nakatomi và Mononobe, còn phái ủng hộ Phật giáo là
họ Soga, cuộc đấu tranh giữa hai phái diễn ra trong suốt gần nửa thế kỷ.
Cuối cùng, phái Soga giành thắng lợi. Đến cuối thế kỷ VI, Phật giáo đã trở

thành tơn giáo chính thức của Nhật Bản, khi đó mới chấm dứt được những
mâu thuẫn giữa thần đạo và Phật giáo. Thật ra Phật giáo cũng có nhiều yếu
tố gần giống với thần đạo. Ở Nhật Bản, các thần (Kami) cũng trở thành
thần bảo vệ chùa chiền.
Sau khi giành được sự bảo trợ của triều đình thì Phật giáo dường
như đã mở rộng cửa đón nền văn minh đại lục sâu xa hơn trước. Một trong
những nhân vật lịch sử xuất hiện để hồn thành sứ mệnh văn hóa ấy, đó là
Thái tử Shotoku (574-622). Ơng là một người có học vấn un thâm, nhãn
quan chính trị sáng suốt, trở thành nhiếp chính cho nữ Thiên hồng Suiko
vào năm 593. Trong 30 năm hoạt động, Thái tử đã biến đổi nước Nhật trên
nhiều phương diện. Trong đó, Nho giáo và Phật giáo được khuyến khích,


21

nâng đỡ và ngày càng phát triển nhanh chóng. Ngay trong bộ luật 17 điều
của Thái tử Shotoku cũng nêu ra quy định, những người phục vụ Thiên
hồng phải tơn trọng và đi theo tín ngưỡng Phật giáo. Ngồi ra, Thái tử
cũng là người hiểu rất sâu sắc về phật học. Trong tác phẩm đầu tiên do Thái
tử Shotoku viết vào năm 599 là cuốn Sankyogisho (Tam kinh nghĩa sớ) để
giải thích những triết lý về Phật giáo. Thái tử còn cho xây dựng rất nhiều
chùa Phật ở khắp nơi. Trong đó, nổi tiếng nhất là chùa Horyuji (Pháp Long
Tự) ở Ikaruga Yamato. Đây là ngôi chùa được xây dựng bằng gỗ cổ nhất
thế giới còn tồn tại cho đến ngày nay. Tính đến cuối năm 624, ở Nhật Bản
đã có 46 ngơi chùa, 816 sư sãi và 569 tăng ni, đồng thời triều đình Nhật
Bản cịn mời nhiều thầy dạy từ Triều Tiên và Trung Quốc sang truyền bá
Đạo Phật.
Cùng với việc tiếp thu và tôn sùng Đạo Phật. Thái tử còn gửi nhiều
học sinh sang học tập, tiếp thu nền văn hóa của Trung Quốc. Phái đồn đầu
tiên lên đường vào năm 607, mang theo quốc thư của Thái tử Shotoku viết

rằng: "Được biết Phật giáo tại quý quốc đương hồi hưng thịnh, tệ quốc gửi
sứ sang triều bái và đưa theo mấy chục sa môn để học thêm giáo lý cao
thâm của Phật pháp" [35, tr. 243]. Trong thời Thái tử, ba phái đoàn đã thực
hiện sứ mệnh văn hóa ấy.
Từ cải cách Taika năm 645, Nhật Bản đã xây dựng Nhà nước theo
mơ hình của Trung Quốc, đồng thời trong cải cách Thái tử Kotoku đã tiến
hành ban bố nhiều sắc lệnh. Trong đó, Phật giáo được cơng nhận là quốc
giáo, khuyến khích mỗi quận, mỗi làng đều xây dựng chùa chiền, mỗi
ngành, mỗi nhà đều phải có người xuất gia và tăng ni trụ trì ở đền chùa...
Những nơi thiếu phương tiện còn được triều đình giúp đỡ. Vì thế nhiều đền
chùa nguy nga được dựng lên nhờ sự giúp đỡ của Nhà nước, những nghi lễ
sang trọng cũng được tổ chức dưới sự bảo trợ của triều đình hay quý tộc. Vì
vậy, đến cuối thế kỷ VII trong cả nước đã có trên 450 ngôi chùa.


22

Đến thế kỷ VIII, hệ thống chính quyền Nhà nước theo mơ hình nhà
Đường được hồn thành, mở đầu cho thời kỳ Nara. Trong thời kỳ này, do
triều đình muốn khuếch trương Phật giáo nhằm thống nhất uy quyền chính
trị mà trước kia bị phân tán bởi chế độ thị tộc, đồng thời cũng muốn xóa
nhịa tơn giáo thị thần ở địa phương để quy các giai tầng hào tộc vào chung
một hệ thống, chịu sự chi phối của nhà nước. Để làm được điều đó, đối với
triều đình, Phật giáo trở thành một thế lực quan trọng, là một quyền lực
thiêng liêng bảo vệ xứ sở. Một ngôi chùa vĩ đại kiến tạo ở Nara mang tên là
Todaiji (Đông Đại Tự) với tượng Đại Phật uy nghi, làm trung tâm của Phật
giáo, liên kết và điều khiển chùa chiền ở các địa phương. Ngồi ra, triều
đình cịn có những ưu tiên đặc biệt đối với các nhà sư, như: Phong tước cho
các nhà sư, cịn nhà chùa thì được ban cấp nhiều ruộng đất, miễn thuế. Điều
này đã thúc đẩy cho Phật giáo phát triển nhanh chóng. Nhưng dần dần các

chùa và giới tăng lữ do được ưu tiên đã tự do lộng quyền câu kết với các
quý tộc ở địa phương, giúp cho tầng lớp này không phải đóng thuế rồi chia
nhau lợi tức. Do đó, đã làm cho ngân sách của Nhà nước ngày càng giảm
sút, đời sống nhân dân đói khổ bên cạnh cuộc sống giàu sang của tầng lớp
quý tộc và sư sãi. Hơn nữa, do sự ưu đãi của triều đình về kinh tế nên các
sư sãi đã vượt ngoài giới hạn của lĩnh vực tơn giáo, can thiệp sang lĩnh vực
chính trị. Do được nữ Thiên hoàng Shotoku sủng ái, Dokyo trở thành đại
thần Thiền sư và được phong tước hiệu là Pháp Vương, nhưng vẫn chưa hài
lịng, âm mưu chiếm cả ngơi Thiên hồng. Hành động này đã làm đảo lộn
chính trị trong triều đình và cả hệ thống Hồng gia, dẫn đến cuộc đảo chính
năm 770 do nhà quý tộc Fujiwara lãnh đạo và đã đoạt được quyền từ tay
nhà sư tên là Dokyo.
Như vậy, ở thời Nara Đạo Phật đã trở thành quốc giáo, tăng lữ trở
thành một thế lực chính trị, trong số đó khơng thiếu những người mang đầy
tham vọng quyền lực như trường hợp Dokyo.


23

Thời Nara cịn hình thành nhiều tơng phái khác nhau của Đạo Phật,
các tông phái từ Ấn Độ vào Trung Quốc rồi truyền sang Nhật Bản và hầu
như về giáo lý của các tơng phái này khơng có sự chống đối gì với nhau, nó
chỉ là những biến thể của một chủ đề chung gọi là sáu tông phái Nara.
Tông phái đầu tiên là Tam Luận Tông (Sanron), do nhà sư Triều
Tiên tên là Eikwan truyền bá vào Nhật. Giáo lý của tông phái này dựa theo
bộ Trung luận của Nagarjuna (Long Thọ Bồ Tát) mang một triết lý hết sức
duy tâm và tuyệt đối, cho rằng: Mọi hiện tượng là không thực, không tồn
tại riêng biệt mà chỉ tồn tại trong đối với nhau mà thôi, một quan niệm rất
khó hiểu đối với người Nhật học nó. Tuy nhiên là tông phái đầu tiên, nên
vẫn tồn tại và đến cuối thời Nara đã bị sa sút. Sau Tam Luận Tông là Thành

Thực Tông (Jojitsu) du nhập từ Triều Tiên. Các giáo lý của Tông phái này
cũng giống như Tam Luận Tơng, vì thế Tơng phái này hầu như khơng phải
là riêng biệt mà lẫn vào Tam Luận Tông. Một Tơng phái nữa ở Nhật là
Pháp Tướng Tơng (Hosso) cịn gọi là Duy Thực Tông (Yuishiki). Tông phái
này dựa theo bộ luận Joyuishiki-ron (Thành duy thức luận) là một bộ tóm
tắt những lời bình luận về một bài phát biểu ngắn bằng thơ triết học duy
tâm của Vashubundhu (Thiên thần Bồ Tát) và những vấn đề khác, do nhà
sư Huyền Trang nổi tiếng người Trung Quốc sắp xếp năm 648. Toàn bộ tác
phẩm này đưa ra học thuyết cho rằng thực tại duy nhất chính là tâm thức
của con người.
Câu Xá Tông (Kusha) cũng không phải là một Tông phái riêng biệt,
các giáo lý của nó dựa trên một bộ luận có tính chất bách khoa của
Nannubandhu. Bộ luận này là một bản trình bày về tư tưởng siêu hình của
các trường phái phật học ban đầu. Tông phái này chép từ bộ luận đó gọi là
Kusha (Câu Xá Luận) nghĩa là kho tàng của phép siêu hình, cho rằng mọi
sự vật đều tồn tại và coi những yếu tố tâm lý, vật lý trong hoạt động sống
của mọi vật thể là vĩnh hằng.


24

Một trong những Tông phái khác biệt so với những tơng phái khác,
nó khơng phải là vì giáo lý siêu hình mà vì tính chất thiết yếu đặc biệt của
nó. Đó là Luật Tơng (Ritsu), đúng như tên gọi của nó. Tơng phái này khơng
quan tâm nhiều đến các vấn đề triết lý, mà chỉ chuyên chú vào giới luật, sao
cho đúng sự kế thừa các bậc tu hành. Thực ra nhánh của tông phái này phát
triển như một sự phản ứng lại với những cái tinh tế siêu hình của các tông
phái khác, và như một sự phản đối với lối sống bng thả của Tăng Lữ lúc
đó. Vì thế, họ rất coi trọng những cuộc lễ thụ giới, chủ trương rằng chỉ có
các nhà sư nào được thụ giới đúng đắn thì mới có thể thụ giới đúng cho

người khác được.
Cuối cùng là Hoa Nghiêm Tông (Kegon), dựa vào một số triết lý
của Kinh Hoa Nghiêm, được du nhập từ Trung Quốc vào Nhật Bản năm
736. Là một trường phái triết học, Hoa Nghiêm Tông không cạnh tranh như
các tơng phái khác. Nhưng ở Nhật, nó vượt các tông phái khác về sự phát
triển nghi lễ và một phần nào đó có những nét độc đáo về những lời bình
giải của nó. Nên làm cho Hồng gia thấy hấp dẫn và tiếp thu. Chủ trương
của tông phái này là thờ Đức Phật Lư Xá Na (Roshana), hiện thân trong
toàn vũ trụ mà các Đức Phật trong lịch sử chỉ là một hóa thân của ngài.
Trong kinh của tơng phái này có miêu tả tượng phật Lư Xá Na ở trên một
tịa sen có 1000 cánh. Mỗi cánh hoa là một vũ trụ, và trong mỗi vũ trụ lại
có vô vàn thế giới. Trên mỗi cánh hoa là một vị Thích Ca, hiện thân của Lư
Xá Na. Cịn trong thế giới của vơ vàn thế giới kia lại có một vị Phật nhỏ,
hiện thân của Thích Ca, Triều đình và Tăng lữ đã thấy sự giống nhau giữa
các tôn ti trật tự này với cái tôn ti của Nhà nước. Vì thế kinh Hoa Nghiêm
được triều đình trọng dụng và được coi là kinh có quyền uy.
Đến thế kỷ IX, để tránh ảnh hưởng của Phật giáo, Thiên hoàng
Kamu chủ trương dời đơ từ Nara đến Heian. Ở đó, Thiên hoàng đã đặt ra
các quy định chặt chẽ đối với Phật giáo, như quy định lại vị trí của tăng ni


25

trong xã hội chủ trương "Đạo dời dị biệt". Ngoài ra, còn quy định một loạt
các điều khoản khác nhằm hạn chế quyền lực của Phật giáo như: Quy định
việc phong tước, tăng quan, quy định hình phạt cho những người vi phạm...
Do có các biện pháp như vậy, nên hơn nửa thế kỷ đầu của thời Heian,
quyền lực của Thiên hồng được tồn vẹn, khơng bị giáo quyền xâm phạm.
Cũng trong giai đoạn này, bản thân nội bộ Phật giáo cũng có sự thay
đổi cho phù hợp với hồn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Bên cạnh sự suy thối

của các tơng phái Phật giáo thời Nara dẫn đến phong trào "Tân hưng Phật
giáo", tuy các tông phái cũ vẫn cịn tồn tại nhưng hầu như đều khuất chìm
trước làn sóng mới ở đầu thế kỷ IX, đó là do hai hòa thượng Saicho lập ra
phái Tendai (Thiên Thai) và Kukai lập ra phái Shingon (Chân Ngôn). Hai
vị tăng trưởng này, sau khi đắc đạo từ Trung Quốc trở về nước đúng vào
thời của thịnh của Pháp Tướng Tông và Nghiêm Hoa Tơng. Vì bị hai phái
này chèn ép, nên phải dựng chùa trên núi với chủ trương "Đời là dục vọng,
đạo là thanh" [19, tr. 40], xa lánh chốn phồn hoa đô hội và các nhà quyền
quý, rút vào rừng núi tĩnh tu, khi nào "nhập đạo" mới hạ sơn cứu nhân độ
thế, tiếp xúc với bình dân lam lũ. Chủ trương của hai Tông phái này rất phù
hợp với ý tưởng của triều đình. Nhà vua dời đô với lý do là để xa lánh Pháp
Tương Tông, "vì tăng giới này tại cựu đơ rất phức tạp trong quan niệm
giáo lý, nên Trẫm đã chứng kiến nhiều hành động phi pháp và phi đạo của
họ" [19, tr. 40]. Vì thế, trong những năm Thiên hồng Kamu cịn trị vì, chỉ
tăng giới Thiên Thai Tơng và Chân Ngơn Tơng được triều đình và nhân
dân q mến.
Nhìn chung, Phật giáo thời Heian trở thành một tơn giáo có vai trò
to lớn, ảnh hưởng đến đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội Nhật Bản. Vì
thời kỳ này, Phật giáo trở về với bản chất đích thực của nó là để cầu nguyện
hơn là truyền bá giáo lý.


×