Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

SKKN Một số biện pháp nâng cao hứng thú môn Lịch sử trong dạy học trực tuyến ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 49 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CM :
DTLS:
ĐCS :
GV :
HS :
THPT:

Cách mạng
Di tích lịch sử
Đảng cộng sản
Giáo viên
Học sinh
Trung học phổ thơng


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển
của một quốc gia. Quan điểm của Đảng ta về mục tiêu giáo dục phổ thông 2018
là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đại dịch Covid-19 diễn ra trên toàn cầu đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong
đời sống xã hội, trong đó có hoạt động Giáo dục đào tạo. Theo thống kê của Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) cho thấy: 188
quốc gia trên thế giới đã thực hiện đóng cửa trường học các cấp từ ngày 4/5/2020,
ảnh hưởng đến 91,3% học sinh, sinh viên. Tổng số học sinh, sinh viên bị ảnh


hưởng là 1.576.021.818 người”. (Nguồn unicef.org)
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) ngày 16/9/2021 cho biết:
“Sau 18 tháng xảy ra đại dịch Covid-19. Trên toàn cầu, gần 27% quốc gia tiếp
tục đóng cửa hồn tồn hoặc một phần trường học” (Nguồn dangcongsan.vn). Tại
Việt Nam, để ứng phó với tình hình dịch bệnh, các trường từ tiểu học đến đại học
đã tiến hành tổ chức đào tạo trên các nền tảng trực tuyến. Việc giảng dạy trực
tuyến giai đoạn đầu gặp khơng ít khó khăn, do chưa có cách thức tổ chức phù
hợp, cả giáo viên và học sinh chưa thật sự quen với hình thức học tập này.
Theo khảo sát của Tổ chức Mạng lưới giáo dục châu Á - Thái Bình Dương
(APQN): “Từ tháng 3 đến tháng 5/2020, tỷ lệ học sinh khơng hài lịng khi tham
gia học tập theo hình thức trực tuyến chiếm tỷ lệ rất cao đến 68%, cũng với kết
quả khảo sát của tổ chức này vào tháng 7/2020, tỷ lệ không hài lòng giảm một
nửa, chiếm khoảng 34%” (Nguồn tổ chức APQN 2020). Số liệu trên cho thấy, đào
tạo trực tuyến có sự dịch chuyển theo chiều hướng tích cực, các tổ chức giáo dục
đã bắt đầu tập trung nguồn lực để có cải tiến cho chất lượng đào tạo tạo trực tuyến
đạt hiệu quả nhất định.
Theo xu thế đó, các trường nỗ lực cải thiện như nâng cấp hạ tầng kỹ thuật,
các hệ thống moodle của các trường được đầu tư tối đa, tập huấn cải tiến phương
pháp giảng dạy, các tài liệu thư viện điện tử được cập nhật liên tục, để có thể tác
động đến ý thức học tập, tạo điều kiện cho học sinh trong quá trình tiếp cận các
vấn đề, chủ động tìm tịi kiến thức, tăng sự hứng thú say mê khám phá tri thức
khoa học,... với mục tiêu đảm bảo chất lượng đào tạo trực tuyến.


Tuy vậy, sự nỗ lực để đảm bảo chất lượng đào tạo trực tuyến khơng chỉ
một phía từ nhà trường, mà cịn từ phía học sinh và phụ huynh. Học sinh cần có
sự hứng thú học tập, chủ động, tích cực tìm tịi tri thức dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. Chúng tơi tìm hiểu sự hứng thú học tập online của học sinh để biết hiện
trạng đào tạo trực tuyến của các trường hiện nay, đồng thời đưa ra một số giải
pháp giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập trực tuyến, nhất là đối với môn

Lịch sử - một mơn học mà theo như nhiều người nhìn nhận là “mơn phụ”.
Đó là lý do chúng tơi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hứng thú
môn Lịch sử trong dạy học trực tuyến ở trường THPT” làm sáng kiến kinh
nghiệm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng dạy học nói chung và dạy học
trực tuyến nói riêng, đề xuất biện pháp dạy học trực tuyến nhằm gây hứng thú
cho học sinh trong bộ môn Lịch sử.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học trực tuyến môn Lịch sử nhằm
gây hứng thú cho học sinh trung học phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về cơ sở lý luận của dạy học nói chung và dạy học trực tuyến nói
riêng.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng trong dạy học trực tuyến hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm gây hứng thú cho học sinh trong bộ môn Lịch
sử khi tiến hành dạy học trực tuyến.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Văn kiện của Đảng và Nhà nước về đào tạo
trực tuyến; các văn bản của Bộ giáo dục và đào tạo về ứng dụng công nghệ thông
tin và dạy học trực tuyến; tổng hợp các quan điểm về dạy và học trực tuyến…
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra khảo sát lấy ý kiến;
tìm hiểu nhận thức, nguyện vọng của giáo viên – học sinh – phụ huynh.
- Phương pháp sử dụng tốn thống kê trong nghiên cứu: Định lượng, định tính,
thống kê và phân tích xử lý các số liệu thu thập được, tổng hợp, rút kinh nghiệm.


PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực trạng dạy học trực tuyến ở trường THPT
1. Cơ sở lý luận

Theo Curtain (2002), được trích dẫn tại Sinngh & Thurman, Nguyễn Hữu
Cương tạm dịch: “Học trực tuyến có thể được định nghĩa rộng là việc sử dụng
internet theo một cách nào đó để nâng cao sự tương tác giữa giáo viên và học
sinh. Giảng dạy trực tuyến bao gồm cả các hình thức tương tác khơng đồng bộ,
chẳng hạn như công cụ đánh giá và cung cấp tài liệu khóa học dựa trên web và
tương tác đồng bộ thơng qua email, nhóm tin tức và các cơng cụ hội thảo, chẳng
hạn như nhóm trị chuyện. Nó bao gồm cả dạy học dựa trên lớp học cũng như các
phương thức giáo dục từ xa. Các thuật ngữ khác đồng nghĩa với học trực tuyến là
"giáo dục dựa trên web" và "học trực tuyến”.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn (2011), “Hứng thú là thái độ đặc biệt của
cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả
năng mang lại khối cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Với quan điểm
này, để gây hứng thú cho 1 cá nhân, chúng ta phải tạo điều kiện kích thích họ,
khơi gợi để họ hăng say với 1 đối tượng, sự vật, sự việc nào đó”.
“Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của người học đối với đối tượng học
tập và gắn với quá trình hoạt động học tập của họ, tạo ra khối cảm và thơi thúc
người học chủ động chiếm lĩnh tri thức” (Nguyễn Hoài Nam, Cao Thị Quyên
(2014).
Như vậy, qua các lý luận trên cho thấy, một khi con người có hứng thú học
tập thì bất kể đó là hình thức nào, họ cũng sẽ chủ động, tích cực thể hiện được sự
sáng tạo nhất định của mình. Sự hứng thú đó giúp họ có động lực để xác định các
động cơ học tập đúng đắn, có mục tiêu rõ ràng để đạt được kết quả như mong đợi.
Như vậy, để tác động đến sự hứng thú của người học, cần nhiều yếu tố như:
phương pháp giảng dạy của giảng viên, thiết bị đầu cuối (phương tiện, đường
truyền), chỗ học tập phù hợp, các tài liệu học tập, cách thức làm việc nhóm,…
Bên cạnh đó, vai trị của người giáo viên rất quan trọng, họ phải biết cách kích
thích, khơi gợi khám phá, gây tò mò để học sinh thể hiện tối đa năng lực của
mình, giải quyết tốt các vấn đề đặt ra.
Trong thời đại ngày nay, khi mà chúng ta đang sống trong kỷ nguyên tin
học, với sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin và sự bùng nổ của

mạng Internet tồn cầu. Cơng nghệ thơng tin khơng chỉ dừng lại ở mục đích phục
vụ khoa học kỹ thuật mà nó đi sâu vào đời sống xã hội. Trong sự nghiệp giáo dục
và đào tạo của nước nhà, công nghệ thông tin cũng đem lại những đóng góp quan
trọng.


Dạy học trực tuyến (online), dạy học lai ghép (Hybrid), dạy học phối hợp
(blended) trực tuyến với trực tiếp (trực diện) là giải pháp được nhiều quốc gia và
các tổ chức giáo dục lựa chọn trong thời kỳ COVID-19. Trong đó, dạy học trực
tuyến là phương pháp giảng dạy khá hiệu quả mà giáo viên và học sinh, sinh viên
cần áp dụng một cách có định hướng để truyền tải kiến thức đến học sinh, sinh
viên một cách linh hoạt, giúp cho người học theo được mạch bài giảng đạt được
mục tiêu của bài học và môn học... Dạy học trực tuyến đã, đang và sẽ trở thành
xu hướng được tăng cường, củng cố và dần trở thành một xu thế tất yếu, nhiệm
vụ chính trong các nhiệm vụ triển khai năm học để thích ứng với tình hình mới.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào
cuộc quyết liệt, trách nhiệm, hiệu quả của cả hệ thống chính trị, ngành Giáo dục
và đào tạo ở nước ta đã có nhiều đổi mới, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, cải thiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; thay đổi, điều chỉnh các hoạt động
dạy học, tổ chức dạy học trực tuyến góp phần phát triển năng lực sử dụng cơng
nghệ thơng tin và truyền thông trong dạy - học, thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo
dục và đào tạo; mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho học sinh, tạo điều kiện
để trẻ em, học sinh, sinh viên được học ở mọi nơi, mọi lúc và bảo đảm cơng tác
phịng, chống dịch, thích ứng với tình hình của dịch COVID-19; đồng thời thực
hiện tốt phương châm “tạm dừng đến trường, khơng dừng học” đáp ứng mục tiêu
chương trình, kế hoạch công tác của năm học.
Đối với giáo dục trung học (gồm trung học cơ sở và trung học phổ
thông), đã triển khai tổ chức dạy học trực tuyến qua internet và trên truyền hình
phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của dịch COVID-19 và phù hợp với
điều kiện của từng trường, bảo đảm tổ chức dạy học qua mạng có chất lượng, bảo

đảm theo kế hoạch thời gian năm học của địa phương. Các nhà trường đã linh
hoạt sáng tạo trong việc sử dụng các phần mềm, ứng dụng hỗ trợ tích cực trong
các hoạt động giáo dục như: ứng dụng Microsoft Teams để tổ chức dạy học trực
tuyến, sử dụng Google form để giao bài tập cho học sinh; tổ chuyên môn các
trường xây dựng kế hoạch, nội dung ôn tập, ngân hàng đề đăng tải trên website
của trường để học sinh theo dõi nghiên cứu bài học, ôn tập. Đặc biệt, một số địa
phương khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa đã chỉ đạo các trường photo bài học
và chuyển về cho từng thôn đối với những học sinh khơng có điều kiện tiếp cận
học tập trực tuyến.
2. Thực trạng dạy học trực tuyến
Do tình hình dịch bệnh bùng phát tại nhiều địa phương nên một số tỉnh
thành đã lựa chọn cho học sinh học trực tuyến. Học trực tuyến sẽ đảm bảo cho
công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 đạt kết quả tốt cũng như bảo vệ được
sức khỏe cho thầy và trò. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trong việc linh
hoạt, giảm chi phí học tập, cơ hội cho thầy trị được hội nhập với cuộc cách mạng


cơng nghệ số,... thì cũng có những khó khăn và bất cập gặp phải trong quá trình
giảng dạy.
2.1. Thuận lợi của dạy học trực tuyến
* Giảm chi phí
Giáo dục trực tuyến có thể tốn ít chi phí hơn do nhiều lý do. Ví dụ, khơng
có chi phí cho việc đi lại. Các loại chi phí liên quan đến giao thơng, chẳng hạn
như nhiên liệu, bãi đậu xe, bảo dưỡng xe hơi và chi phí giao thơng cơng cộng
khơng ảnh hưởng đến dạy và học trực tuyến.
* Cơ hội kết nối mạng
Dạy học trực tuyến cũng cung cấp cho học sinh cơ hội kết nối với các bạn
trên khắp các quốc gia hoặc thậm chí các lục địa khác nhau. Điều này thường dẫn
đến các cơ hội khác về mặt hợp tác với các cá nhân khác trong việc thực hiện một
dự án. Đồng thời, nó làm cho họ nhạy cảm về văn hóa và có thể dễ dàng hịa nhập

với các môi trường khác khi họ tiếp xúc với các nền văn hóa khác.
* Tài liệu
Tất cả thơng tin bạn cần sẽ được lưu trữ an toàn trong cơ sở dữ liệu trực
tuyến. Điều này bao gồm những thứ như tài liệu thảo luận trực tiếp, tài liệu đào
tạo và email. Điều này có nghĩa là nếu có bất cứ điều gì cần được làm rõ, học sinh
sẽ có thể truy cập những tài liệu này nhanh chóng, tiết kiệm thời gian quý báu.
Điều này đặc biệt hữu ích cho những cá nhân cần thực hiện nghiên cứu cho một
dự án và gửi những phát hiện của họ cho hội đồng.
* Tiếp cận với chuyên môn
Các lớp học trực tuyến cho phép chia sẻ kiến thức chuyên môn giúp nhiều
người hơn được tiếp cận với nền giáo dục không sẵn có ở một số vị trí địa lý nhất
định. Đào tạo trực tuyến nhanh chóng trở thành một phương pháp ngày càng phổ
biến và ngày càng có nhiều đầu tư để cải thiện hơn nữa cho hình thức đào tạo này.
Bản chất đào tạo dựa trên máy tính có nghĩa là công nghệ mới đang được xuất
hiện mọi lúc để hỗ trợ cho việc học. Các ứng dụng khác nhau đang giúp củng cố
việc học hơn nữa trong khi các diễn đàn có thể được sử dụng để tăng lượng tương
tác giữa những người học với nhau.
* Toàn bộ quá trình học trở nên thú vị hơn
Cơng nghệ đào tạo trực tuyến khác với những gì mà hầu hết các học sinh
đã được sử dụng cho đến ngày nay. Khi tham gia học trực tuyến, bạn có thể giao
tiếp với mọi người ngay cả trong buổi học và trong các diễn đàn sau đó, bạn có
thể chia sẻ tiến trình của mình lên phương tiện truyền thơng xã hội, v.v. Một số
học sinh thích thú với hình thức học này, một số khác chỉ đơn giản thấy được sự
thay đổi mới như vậy.


Nhiều giáo viên biết rằng quá trình giáo dục càng đa dạng, học sinh sẽ càng
cảm thấy hứng thú. Ngay cả khi đào tạo trực tuyến là một hình thức bổ sung cho
giáo dục truyền thống, đây vẫn có thể xem là một thay đổi tích cực.
2.2. Khó khăn của dạy học trực tuyến

* Cả giáo viên và học sinh gặp khó khăn về kỹ thuật
Học trực tuyến có thể trông giống như một công cụ học tập luôn sẵn sàng
với bất kỳ ai. Nhưng trên thực tế thì khơng như vậy. Ví dụ, khơng phải tất cả mọi
người đều có kết nối internet ổn định và máy tính đủ mạnh để hỗ trợ phát trực
tuyến. Một số người có thể có tất cả các cơng nghệ cần thiết nhưng phải đấu tranh
với việc sử dụng như thế nào. Chẳng hạn, những người học lớn tuổi khó có thể
thành thạo tất cả các thao tác sử dụng công nghệ mới. Tuy nhiên, vấn đề này có
thể được giải quyết bằng cách cung cấp cho họ một vài hướng dẫn sử dụng.
* Học sinh không được luyện tập
Khoa học đã chỉ ra rằng cách tốt nhất để học một thứ gì đó là thực hành nó
(khái niệm học tập nổi tiếng). Chỉ bằng cách thực hành những điều chúng ta làm
và trải nghiệm (học tập qua trải nghiệm), chúng ta mới có thể hiểu và nhớ lại nội
dung và kỹ năng chúng ta học được. Tuy nhiên, nhiều khóa học trực tuyến bỏ qua
phần này và chỉ tập trung vào nội dung lý thuyết và các bài học bên ngoài. Kết
quả là học sinh khơng thể thực hành và q trình học tập khơng phát huy hết khả
năng của nó.
* Học sinh thiếu sự tương tác khi học trực tuyến
Hầu hết các chương trình dạy học trực tuyến hiện nay, giáo viên chủ yếu
thực hiện bài giảng một chiều, học sinh tiếp nhận qua các phương tiện, tương tác
hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giảng dạy.
* Học sinh mất đi kỹ năng giao tiếp và hứng thú trong học tập
Phương pháp học trực tuyến hiện nay đang có xu hướng làm cho học sinh
trở nên khép kín với xã hội. Các chuyên gia cảnh báo, thời gian học sinh sử dụng
các thiết bị học trực tuyến quá lâu khiến trẻ dễ mất tập trung, tránh né những câu
hỏi của giáo viên, thiếu kỹ năng năng làm việc nhóm hoặc thảo luận về bài học.
Về lâu dài sẽ dẫn đến thói quen cơ lập với xã hội, mất đi kỹ năng cần thiết trong
giao tiếp.
* Khó khăn trong việc kiểm soát số lượng và chất lượng giảng dạy
Lớp học trực tuyến với số lượng học sinh lên đến 40 học sinh trong 1 lớp
khiến giáo viên gặp khơng ít trở ngại trong việc quản lý các em. Giáo viên rất khó

kiểm sốt được sĩ số lớp học cũng như khó theo dõi sát sao từng học viên trong


giờ học. Việc phát biểu, nêu ý kiến của trẻ cũng bị ảnh hưởng khiến tình trạng
lớp học bị xáo trộn, mất kiểm soát.
* Phương pháp giảng dạy hàn lâm, trẻ khó tiếp thu
Giáo dục trực tuyến có xu hướng tập trung vào lý thuyết hơn là thực hành,
thầy cô không thể quan sát trực tiếp từng học sinh, trẻ nhanh chóng xao lãng và
mất tập trung vào bài giảng khi khơng được nhắc nhở. Bên cạnh đó, nếu giáo án
khơng đủ sự hấp dẫn, kích hoạt sự thích thú của trẻ sẽ xảy ra tình trạng dễ chán
nản và hình thành thói quen "học vẹt", đối phó với giáo viên.
* Phụ huynh khơng có đủ thời gian và kiến thức đồng hành cùng con qua lớp trực
tuyến
Ngồi việc địi hỏi sự tự giác và độc lập trong học tập của từng cá nhân học
viên, bậc cha mẹ cũng rất đau đáu trong việc kiểm soát trẻ sử dụng thiết bị điện
tử, đăng ký các khoá học phù hợp, theo dõi q trình học tập cũng như tạo khơng
gian thoải mái cho các em dễ dàng học hỏi. Một số phụ huynh cho biết họ cảm
thấy khá khó khăn trong việc hỗ trợ con em mình học trực tuyến vì phải cân bằng
cơng việc riêng, chăm sóc gia đình và theo sát trẻ học online.
* Dù học trực tiếp hay trực tuyến thì thái độ học tập đóng vai trị quan
trọng. Thái độ tốt sẽ biểu hiện bằng những hành vi tích cực, mang lại sự hứng thú
trong học tập và ngược lại. Chúng tôi đã làm một cuộc điều tra ngắn ở 3 trường:
THPT Nguyễn Duy Trinh – Nghi Lộc; THPT Huỳnh Thúc Kháng – Vinh; THPT
Cửa Lò về thái độ của học sinh khi tham gia học trực tuyến và cho kết quả như
sau:


Số liệu tại bảng trên cho thấy, học sinh có nhiều thái độ khác nhau trong
quá trình học tập: Các thái độ tích cực như sự chủ động, sơi nổi, tập trung cao độ
được học sinh lựa chọn chiếm tỷ lệ khá cao, từ 55% trở lên. Các thái độ tiêu cực

như sự nhàm chán, căng thẳng, chiếm tỷ lệ không nhỏ, từ 25 - 29%. Nếu thái độ
học tập tiêu cực sẽ triệt tiêu sự hứng thú và khả năng tiếp thu bài học sẽ không
đạt được hiệu quả.
Bên cạnh đó, chúng tơi đặt câu hỏi cho học sinh về sự hứng thú khi tham
gia học trực tuyến, kết quả như sau: 5,8% khơng hứng thú, 43,9% ít hứng thú,
45,7% hứng thú và 4,6% rất hứng thú. Số liệu này cho thấy, mức ít hứng thú
chiếm tỷ lệ khá cao, điều này ảnh hưởng ít nhiều đến nhận thức và thái độ khi
tham gia vào lớp học của học sinh.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ học sinh hứng thú học tập trực tuyến đạt mức trung
bình khoảng 50,3% và ít hứng thú hoặc không hứng thú 49,7%. Như vậy, số lượng
học sinh không hứng thú trong học tập chiếm ở mức cao.
2.3. Nguyên nhân thực trạng
Khi tiến hành tìm hiểu các nguyên nhân giảm sự hứng thú trong quá trình
học tập trực tuyến, kết quả thu về được thể hiện như sau:
Nguyên nhân HS không hứng thú
học trực tuyến
Nội dung khó hiểu
Phương pháp giảng dạy nhàm chán
Vai trị giáo viên
Sĩ số lớp
Thiết bị đường truyền
Kiểm tra đánh giá
Ý kiến khác
Tổng

Số lượng

Tỷ lệ (%)

111

95
38
36
235
42
84
328

33,8
29,0
11,6
11,0
71,6
12,8
25,6
100,0

Tỷ lệ cao nhất thuộc về thiết bị đường truyền, chiếm 71,6%. Như vậy, việc
học trực tuyến rất quan trọng ở thiết bị và kết nối đường truyền. Một học sinh cho
biết: Giáo viên dạy rất hay, nhưng đường truyền không ổn, khiến chúng em bị tụt
hứng khi tham gia học tập, làm giảm bớt sự hứng thú. Tuy vậy, học sinh cũng xác
định nguyên nhân trong thời gian này, cả nước cùng tham gia học tập trực tuyến,
nên việc bị ảnh hưởng về đường truyền do quá nhiều người cùng truy cập là tất
nhiên. Học sinh có thể xem lại bài giảng của giáo viên trong phần record, hoặc
bài giảng được tải trên trang học trực tuyến (moodle của trường).
Ở các nguyên nhân tiếp theo, nội dung giảng dạy chiếm tỷ lệ cao 33,8%,
phương pháp giảng dạy 29% và vai trò của người giáo viên chiếm 11,6%. Các số


liệu này cho thấy, giáo viên đóng vai trị quan trọng trong quá trình giảng dạy.

Một học sinh khác cho biết Bài tập phải thực hiện quá nhiều, nên việc học khá
căng thẳng, vậy nên giáo viên cần tạo một số trị chơi trên các cơng cụ để ơn lại
kiến thức đã học, có khuyến khích cộng điểm cho học sinh, tuần nào cũng làm
bài tập học sinh khơng thích cách học nhàm chán như vậy.
Với yêu cầu này, mỗi giáo viên phải tự trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm để thiết kế bài giảng cho phù hợp, đồng thời cần thay đổi cách thức
truyền đạt để thu hút học sinh hơn, gây hứng thú cho học sinh.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HỨNG THÚ MÔN LỊCH SỬ
TRONG DẠY HỌC TRỰC TUYẾN Ở TRƯỜNG THPT
1. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để dạy học trực tuyến.
1.1. Lựa chọn phần mềm học trực tuyến.
Phần mềm học trực tuyến là nền tảng cung cấp tài liệu học tập cho người
học. Người dùng có thể sử dụng phần mềm để học trực tuyến và sử dụng nhiều
công cụ khác như quản lý lớp học, xây dựng kho tài liệu, đăng ký khóa học, tham
gia khóa học online, nhận các bài kiểm tra…
Một số nền tảng học trực tuyến phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới có thể
kể đến như Coursera, VNPT E-learning, Khanacademy, Duolingo.com,
hocmai.vn…
Ở Nghệ An, ngay từ khi Sở giáo dục và Đào tạo triển khai kế hoạch dạy –
học trực tuyến đã cho lập các lớp học, tiến hành tập huấn cho đội ngũ giáo viên
và các lớp trưởng. Do đó, đến giờ vào học, GV chỉ cần bấm vào lớp mà mình có
tiết rồi tiến hành dạy bình thường như trực tiếp.



Phần mềm học online mang lại nhiều lợi ích cho người dùng như: Rút ngắn
khoảng cách về khơng gian, có thể dạy và học mọi lúc, tiết kiệm chi phí, tiết kiệm
thời gian và công sức, tối ưu nội dung đào tạo, có tính linh hoạt cao, giúp cho bài
học sinh động hơn…
1.2. Khảo sát thiết bị dạy và học

Quá trình dạy học trực tuyến khác hồn tồn với dạy học trực tiếp, đòi hỏi
người dạy và người học cần phải có các thiết bị cơng nghệ.
Đối với giáo viên: Người giáo viên dạy trực tuyến trước hết phải có kiến
thức cơ bản về phần mềm dạy học, cách cài đặt và sử dụng các phần mềm như
ZOOM, TEAM, MEAT… Giáo viên phải soạn bài giảng hoàn toàn bằng điện tử.
Đối với học sinh: Học sinh cần phải có máy tính, điện thoại, ipad có kết
nối mạng Internet.
Chính vì thế, trước khi học theo thời khóa biểu, nhà trường đã yêu cầu các
giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu, khảo sát thiết bị học tập của các em: ai học máy
tính, ai học điện thoại, ai trùng giờ học với anh chị em trong nhà khơng có thiết
bị để học… từ đó có biện pháp kịp thời và phù hợp.
1.3. Đề ra nội quy dạy và học trực tuyến
Để tiết học đạt được kết quả tốt thì một trong những yếu tố quan trọng
không thể thiếu là nội quy lớp học.


Trước hết, nhà trường – cấp quản lý cao nhất phải đề ra nội quy chung cho
tất cả các lớp.


Sau đó, các giáo viên chủ nhiệm căn cứ vào tình hình của lớp mình và đề
ra nội quy riêng cho lớp.



NỘI QUY DẠY HỌC TRỰC TUYẾN
Lớp học trực tuyến được Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng triển khai
trong thời gian học sinh phải nghỉ học ở trường để phòng, chống dịch Covid-19.
Việc dạy học trực tuyến là một giải pháp thay thế khi không thể triển khai dạy
học tại trường và đây cũng là xu hướng trong thời đại của cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0.
Tuy nhiên, khi tham gia lớp học trực tuyến thì giáo viên và học sinh cần
phải tuân thủ các nội quy để đảm bảo an toàn về hình ảnh, cũng như để lớp học
đạt hiệu quả cao nhất. Nhà trường đề nghị giáo viên và học sinh thực hiện một số
quy định dưới đây khi tham gia lớp học trực tuyến.
Đối với giáo viên:
1. Chuẩn bị bài giảng, học liệu, tài liệu đầy đủ cho bài giảng theo đúng quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và kế hoạch giáo dục của nhà trường.
2. Trang phục lịch sự, nghiêm túc.
3. Kiểm tra thiết bị, đường truyền Internet, đăng nhập vào hệ thống VNPT ELearning bằng tài khoản vnEdu trước giờ dạy 10 phút để đảm bảo kết nối.
4. Điều khiển giờ dạy đảm bảo mục tiêu, nội dung và thời lượng giảng dạy cho
bài giảng.
5. Quản lý tốt nề nếp giờ dạy; kiểm tra, đánh giá thái độ, kết quả học tập của học
sinh công bằng, khách quan.
Đối với học sinh
1. Chuẩn bị bài trước buổi học theo yêu cầu của giáo viên.
2. Trang phục lịch sự, nghiêm túc; ngồi học ngay ngắn và tập trung như khi học
trên lớp.
3. Kiểm tra thiết bị, đường truyền Internet, đăng nhập vào hệ thống VNPT ELearning bằng tài khoản vnEdu trước buổi học 15 phút để đảm bảo kết nối. Dùng
đúng tên thật của mình trong quá trình học trực tuyến.
4. Tham gia đầy đủ các giờ học theo lịch, có ý thức xây dựng bài. Nghỉ học hoặc
vào muộn phải xin phép GV chủ nhiệm và GV bộ môn.
5. Học sinh bật/tắt camera và micro theo yêu cầu của giáo viên.
6. Không CHAT, chia sẻ, viết, vẽ lên màn hình khi giáo viên đang giảng bài.
7. Khơng bật các thiết bị, chương trình khác trên máy tính, không làm việc riêng
trong khi tham gia lớp học.


8. Không cung cấp địa chỉ ID, mật khẩu, đường link của lớp học cho người ngồi.
HIỆU TRƯỞNG

* Những cơng việc cha mẹ cần đồng hành để giúp con học trực tuyến hiệu quả:
- Sắp xếp góc học tập cố định, yên tĩnh tại gia đình.
- Hỗ trợ in phiếu, tài liệu học tập cho con (Nếu cần).
- Chuẩn bị cho con các thiết bị học trực tuyến ổn định (Máy tính/ điện thoại (nên
có Camera), Loa, Micro, mạng Internet cáp quang tốc độ cao).
- Hướng dẫn các con sử dụng thiết bị công nghệ hỗ trợ học tập nếu con chưa thành
thạo.
- Hỗ trợ giáo viên giám sát, nhắc nhở các con tham gia học tập, làm bài tập nghiêm
túc.
- Phụ huynh cần thông báo với giáo viên chủ nhiệm/giáo viện bộ môn khi con
không thể tham gia tiết học và nêu rõ lý do.
- Phản hồi lại với giáo viên ngay sau buổi học nếu thấy con gặp khó khăn khi học
tập.
2. Tiến trình dạy học trực tuyến
2.1 Trước khi kết nối trực tiếp
GV giao nhiệm vụ cho học sinh thông qua các phần mềm LMS hoặc gửi
đường link cho học sinh thông qua công cụ mạng xã hội (Zalo, Facebook…) để
HS có thể thực hiện trước.
2.2. Kết nối trực tiếp
GV và HS kết nối qua nền tảng truyền tải hình ảnh thời gian thực
(Microsoft Teams, Zoom, Google Meet, ...) để bắt đầu thực hiện tiến trình dạy
học.
Về cơ bản, việc tổ chức thực hiện giai đoạn này có thể tiến hành như đã
gợi ý ở trên. Tuy nhiên, tuỳ vào nội dung bài học và thời lượng, GV có thể linh
hoạt điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, sau khi báo cáo, thảo luận
về kết quả thực hiện nhiệm vụ đã giao, GV có thể dành một khoảng thời gian
(không quá dài) của đầu buổi học để giảng bài, nhấn mạnh nội dung cốt lõi, hướng
dẫn HS xem video và sử dụng SGK, ... để thực hiện nhiệm vụ tiếp theo.
Sau khi được hướng dẫn và nhận nhiệm vụ, HS tự chủ thực hiện với tư liệu
đã được cung cấp. GV “quan sát”, hỗ trợ:

- Nhận cuộc gọi qua Zalo của HS để trợ giúp (đối với HS chủ động).


- Gọi kiểm tra xác suất việc thực hiện hoạt động tự chủ của HS (thường là
những HS chưa thực sự tích cực, hoặc xoay vịng kiểm tra, …).
- Xem thông tin phản hồi kết quả học tập của HS qua bài trắc nghiệm nhanh
kiến thức (nếu có).
Qua đó, GV nắm được thông tin, tổng hợp lại những điểm mấu chốt cần
thảo luận và kết luận cho HS ở cuối giờ học.
Tiếp tục dùng nền tảng truyền tải hình ảnh thời gian thực (Microsoft
Teams, Zoom, Google Meet) để kết nối lại lớp học. Tổ chức hoạt động: Báo cáo
và thảo luận; đánh giá và chốt kiến thức; giao nhiệm vụ về nhà.
Thực hiện tiến trình dạy học qua mạng địi hỏi GV cần có sự trau đồi về kĩ
năng CNTT, nhất là ở giai đoạn đầu áp dụng. Kết quả học tập của HS phụ thuộc
rất nhiều vào cách thức tổ chức tiến trình dạy học. Mà tiến trình đó có mối quan
hệ với kĩ năng sử dụng CNTT của từng GV.
Có thể tóm tắt sự khác nhau giữa tiến trình dạy học trực tiếp và dạy học
trực tiếp như sau:


3. Xây dựng kế hoạch bài dạy
Kế hoạch bài dạy trực tuyến là bài giảng được thiết kế, thực hiện dựa trên
kế hoạch bài học và sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, được tổ chức dạy học qua
môi trường internet do GV là người chủ động xây dựng và tổ chức.
Khi dạy học trực tuyến, GV cầ n chuẩ n bị kế hoạch bài dạy (giáo án) theo
hướng dẫn nhưng lưu ý tăng thời lượng làm việc chủ động của HS, giảm thời
lượng kết nối trực tuyến. Do vậy, mỗi GV cầ n phải có định hướng xây dựng và
thực hiện kế hoạch bài dạy trực tuyến. Cụ thể:
- Xác định cụ thể những yêu cầ u cầ n đạt đối với mỗi bài học không thể
thực hiện được trên môi trường mạng

- Điều chỉnh mục tiêu bài học theo hướng tinh gọn tập trung vào các nội
dung cốt lõi gắ n với yêu cầ u cầ n đạt (YCCĐ) trong Chương trình giáo dục phổ
thơng (GDPT).
- Đánh giá để phân loại những nội dung mà HS có thể thực hiện được một
cách tự chủ (có thể chỉ một phầ n) để giao nhiệm vụ cho HS.
- Lựa chọn những nội dung có thể thay thế việc giảng trực tiếp bằng một
học liệu điện tử (hình ảnh/ âm thanh/ video).
- Lựa chọn phương án và phương tiện để kiểm tra, đánh giá thường xuyên;
kịp thời điều chỉnh quá trình dạy học, quá trình học tập và biện pháp phối hợp với
gia đình.
Trên cơ sở định hướng xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học trực tuyến,
GV cầ n đảm bảo những nguyên tắ c cơ bản dưới đây để việc xây dựng kế hoạch
bài dạy trực tuyến đảm bảo các yêu cầ u chung của nhà trường.
Chuyển giao

Thực hiện

Báo cáo và

Kết luận, nhận

nhiệm vụ

nhiệm vụ

thảo luận

định

- Liệt kê hành động cụ

- Trình bày cụ thể nội

thể mà HS phải thực hiện

dung nhiệm vụ. - Cách mà (đọc/ nghe/ nhìn/ làm).
GV giao nhiệm vụ cho HS
(đọc/ nghe/ nhìn/ làm) với - Quan sát, dự kiến những
thiết bị dạy học/ học liệu khó khăn mà HS có thể
gặp phải kèm theo biện
cụ thể.
pháp hỗ trợ; phát hiện.

- Trình bày cụ thể “ý đồ”
lựa chọn HS/ nhóm báo

- Phân tích kết quả thực

cáo

hiện nhiệm vụ; đối chiếu
với mục “Sản phẩm”;

- Xử lí kết quả thực hiện đánh giá các mức độ
nhiệm vụ của HS, đặt ra hoàn thành.
các thảo luận đòi hỏi HS
phải huy động các thao

- Chốt lại phần thảo

tác tư duy ở bậc cao hơn. luận; làm rõ vấn đề cần



giải quyết và nhiệm vụ
tiếp theo.

Nguyên tắ c thiết kế bài dạy trực tuyến cũng chính là những nguyên tắ c
thiết kế bài dạy trực tiếp chỉ khác nhau rất nhỏ về nội hàm trong nguyên tắ c về
bối cảnh, về học sinh: Đảm bảo tính thực tiễn, linh hoạt của giáo viên; đảm bảo
tính khả thi và vừa sức của học sinh.
Khác với dạy học trực tiếp - giáo viên và học sinh được tương tác thì dạy
học trực tuyến phải thơng qua máy tính, điện thoại thơng minh và phải có mạng
internet, tương tác rất hạn chế. Dạy học online sẽ là xu thế của toàn cầ u, của thế
giới phẳ ng; tuy nhiên đối với HS hiện nay là giải pháp tình thế do đại dịch covid
gây ra. Bởi vậy, nguyên tắ c xây dựng kế hoạch bài dạy trực tuyến là phải phù hợp
với thực tiễn: vùng khó khăn hay ít khó khăn, cầ n khảo sát học sinh lớp mình dạy
sẽ học trực tuyến bằng phương tiện gì: điện thoại thơng minh, máy tính bàn, máy
tính xách tay, máy tính bảng hay là khơng có các thiết bị trên phải đi học nhờ.
Gia đình có lắ p mạng gói internet không hay dùng 3G, 4G để học, ... Tất cả những
vấn đề đó, GV phải có số liệu thống kê cụ thể. Bên cạnh đó, GV cũng phải tuân
thủ nguyên tắ c vừa sức, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi của HS.
Những nguyên tắ c trên cũng giúp những người dạy học trực tuyến tránh
những sai lầ m trong dạy học; linh hoạt thay đổi phương pháp, cách thức dạy học,
kiểm tra đánh giá phù hợp. Ngoài ra, tuân thủ nguyên tắ c này sẽ làm cho những
giờ học online thoải mái, HS vui vẻ, thú vị. Từ đó, HS hứng thú và tiếp thu tốt
bài học, giờ học sẽ thành công như mong đợi. Những nguyên tắ c trên là những
lưu ý chung nhất cho việc thiết kế nội dung và hình thức dạy học trực tuyến sao
cho đạt hiệu quả. Việc đưa ra nguyên tắ c xét trên nhiều khía cạnh trong đó phải
căn cứ vào cơ sở lý luận của dạy học kết hợp đó là tính tự học của học sinh, quan
điểm lí thuyết chung và đặc trưng riêng của mơn học. Vì vậy, ngồi những u
cầ u để đảm bảo mục tiêu dạy học như trong dạy học truyền thống cịn có những

tiêu chí đặt ra về mặt cơng nghệ làm sao phát huy được tính ưu việt về mặt công
nghệ chứ không phải gây ra tác dụng ngược lại.
Ví dụ: Xây dựng kế hoạch dạy học 1 bài cụ thể (PHỤ LỤC 1)
4. Đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học trực tuyến môn Lịch sử.
Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học
sinh là thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang chương trình
giáo dục tiếp cận năng lực của người học. Trước đây, trong dạy học, GV thường
quan tâm HS học được cái gì. Hiện nay, GV phải xác định HS vận dụng như thế
nào thông qua việc học. Thực chất của phương pháp dạy học theo định hướng


phát triển phẩm chất và năng lực người học là chuyển từ phương pháp dạy học
truyền thụ một chiều sang dạy HS cách học, cách vận dụng kiến thức, kỹ năng,
hình thành năng lực và phẩm chất để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của
HS trong học tập.
Phương pháp dạy học ở trường phổ thông vừa đảm bảo tính khoa học
nhưng lại mang tính nghệ thuật. Tính khoa học là GV phải đảm bảo nội dung,
chương trình, mục tiêu đào tạo. Tính nghệ thuật là GV phải căn cứ vào đối tượng,
tình hình cụ thể của mỗi lớp học, đưa ra cách thức, phương pháp dạy học cho phù
hợp để đạt được yêu cầu, chất lượng và hiệu quả. Trong dạy học hiện nay, nếu
GV không quan tâm chú trọng đổi mới phương pháp dạy học là tự đào thải mình.
Tuy nhiên, dù sử dụng bất cứ phương pháp dạy học nào cũng phải đảm bảo
nguyên tắc học sinh tự mình hồn thành nhiệm vụ nhận thức đặt dưới sự tổ chức
hướng dẫn của GV.
Ba năm trở lại đây, do dịch bệnh Covid diễn ra phức tạp nên ảnh hưởng rất
lớn tới việc Dạy và Học. Tuy nhiên, chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo là
“Ngừng đến trường nhưng không ngừng việc học”, cả Thầy và Trò đều ra sức cố
gắng để đảm bảo việc Dạy và Học không “đứt đoạn”. Chuyển từ dạy học trực
tiếp sang dạy học trực tuyến yêu cầu về phương pháp dạy học càng phải linh hoạt
hơn để thích nghi với tình hình mới.

Đối với dạy học trực tuyến, thỉnh thoảng GV có thể cho HS vẽ lên màn
hình, gạch chân hoặc nối các sự kiện…; thậm chí trong quá trình thảo luận nhóm,
GV có thể trao quyền Host và cho HS chia sẻ bài của mình và thuyết trình…
GV chú trọng tổ chức cho HS vận dụng kiến thức vào các tình huống và
thực tế cuộc sống; đồng thời tăng cường tính tương tác, cho học sinh được hoạt
động nhiều.
Một trong những nội dung quan trọng nhất khi dạy trực tuyến là phải làm
cho HS không chán nản. Để làm được điều đó, biện pháp hữu hiệu mà tơi sử dụng
là thiết kế hoặc sử dụng các phần mềm trị chơi.
Phần này tơi thấy rất hữu hiệu, khơng chỉ giúp các em hào hứng hơn hẳn
mà còn học kiến thức thơng qua trị chơi. Các em được thao tác, kéo thả, ấn chọn
ngay trên màn hình nên rất thích. Cụ thể tơi dùng những trị chơi trực tuyến sau:
* Quizizz: Đây là trị chơi trên web, học sinh khơng phải cài đặt gì chỉ cần
ấn vào link điền tên mình là chơi được. Có nhiều hình ảnh và dạng câu hỏi. Học
sinh thao tác trực tiếp lên màn hình. Đặc biệt, việc soạn 1 trò chơi trên quizizz rất
nhanh. Trong Quizizz có sẵn kho câu hỏi, bài tập tương tác mà giáo viên cả nước
đã làm. Thầy cô gõ tên nội dung mình muốn rồi nhấn tìm kiếm sẽ hiển ra nhiều
lựa chọn. Thầy cô thấy câu nào hợp với nội dung mình cần thì ấn nút “add” sẽ tự
động đưa câu đó vào bài thầy cơ thiết kế. Cứ nhặt như vậy chỉ vài phút là có một


trị chơi rất hay, nhiều hình ảnh và thú vị. Khi chơi lại có nhạc, có thứ tự bảng
điểm nên các con rất thích, rất thi đua. Khi thi xong, tôi chụp ảnh 3 bạn đứng nhất
để nêu tên, tặng sao và đưa ảnh lên nhóm zalo lớp ngay.
/>* Dùng menti.com để tạo những câu hỏi tương tác tìm từ ngữ. Tôi vào
web, tạo câu hỏi xong gửi link. HS ấn vào link và cấn từ mình tìm được. Màn
hình sẽ hiển thị tất cả các câu trả lời ngay tức thì của các con. Giáo viên và các
con cùng nhận xét.
/>* Dùng classskick để tạo bài tập tương tác. Tôi tạo 1 số bài tập như kéo
thả, nối tranh với tiếng, từ, nhúng link vào ô chát cho học sinh ấn vào là dẫn tới

câu hỏi, bài tập tương tác. Tơi có thể nhìn trực tiếp em nào đang làm câu nào, kết
quả thế nào.
/>* Dùng word wall là 1 trang web cũng có thể tạo trị chơi trực tuyến. Họ
đã tạo sẵn bối cảnh và nhân vật, mình chỉ cần thay nội dung. Tuy nhiên, nhược
điểm là không nhìn thấy học sinh khi chơi thế nào và chỉ thấy kết quả cuối cùng
khi các con thi xong.
* Dùng blocket, live word sheet Tương tự như quizizizz, classkick.
Để làm cho giờ học online trở nên thú vị và đạt hiệu quả như mong muốn, tôi đã
tận dụng những ứng dụng, phần mềm thiết kế những câu hỏi đố vui, trò chơi…
giúp học sinh vừa học tập, đồng thời tạo tâm lý hứng thú học bài hiểu bài. Đối
với những chủ đề bài học tương đối dễ và đơn giản, tôi sử dụng đánh giá tại chỗ
để kiểm tra sự hiểu bài của các em. Tổ chức trò chơi vừa để các em làm bài tập
và cũng là một hình thức để đánh giá năng lực thực chất mang tính chất nhẹ
nhàng, đúng mức độ tiếp thu bài của học sinh trong tiết học, giúp các em hứng
thú hơn khi làm bài. Bên cạnh đó, tơi có thể thêm phần tuyên dương những học
sinh hoàn thành bài sớm nhất và đúng nhất để khích lệ tinh thần, cho điểm cộng.
Những học sinh chưa được tuyên dương sẽ lấy đó làm mục tiêu để cố gắng hơn.
Việc sử dụng trò chơi có nhiều tác dụng như :
- Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ học, làm cho giờ học
bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ
nhàng, tạo hứng thú học tập.
- Kích thích sự tìm tịi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình.
- Thơng qua trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, kích
thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách xử


lý thơng minh trong những tình huống phức tạp, tăng cường khả năng vận dụng
trong cuộc sống.
Để thiết kế giờ học theo hướng phát triển năng lực của học sinh, tiến trình
giờ học được tổ chức theo các hoạt động: khởi động, hình thành kiến thức, luyện

tập, vận dụng và tìm tịi sáng tạo. Tùy theo từng tiết học giáo viên có thể tiến hành
tất cả các bước trên lớp hoặc chỉ tiến hành một số hoạt động nhất định như khởi
động, hình thành kiến thức, luyện tập.
4.1. Đối với hoạt động khởi động
Hoạt động khởi động nhằm hướng tới tạo hứng thú cho học sinh đối với
bài học mới, thiết lập mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và học sinh; đồng
thời thơng qua đó giáo viên có thể kiểm tra quá trình học sinh nắm bài cũ như thế
nào?
Có rất nhiều cách để giáo viên tổ chức hoạt động khởi động cho học sinh.
Việc lựa chọn cách thức nào phụ thuộc vào từng bài học và phụ thuộc vào sở
trường của mỗi giáo viên. Đối với các bài học chuyên đề, chủ điểm giáo viên nên
chú trọng tổ chức hoạt động khởi động tích cực để tạo hứng thú cho HS. GV trong
quá trình giảng dạy cũng nên sử dụng linh hoạt các hình thức vào bài tránh lặp đi,
lặp lại một kiểu vào bài gây sự nhàm chán cho học sinh. Làm thế nào để đối với
học sinh, mỗi tiết học Lịch sử là một quá trình khám phá những cái mới.
Tuy nhiên trong dạy học trực tuyến, để tiến hành khởi động cho học sinh
là một việc khá khó khăn, nhất là đối với các giáo viên không thành thạo về công
nghệ thông tin. Nhưng nếu khơng đổi mới thì khi dạy học trực tuyến HS càng
khơng có hứng thú học. Trong khi GV chia sẻ bài dạy, không thể bao quát được
cả lớp, HS sẽ lấy lí do Camera hỏng hoặc tắt camera rồi chơi game, đọc truyện,
xem phim…. Do đó, kích thích sự hứng thú trong giờ học trực tuyến lại càng cần
thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong
các thế kỷ XVI – XVIII; GV tổ chức cho HS khởi động bằng trò chơi nhanh “Ai
là triệu phú”.



Những slide và nhạc điệu quen thuộc của chương trình “Ai là triệu phú” đã
kích thích trí tị mị của các em. Dù đang làm việc riêng hay buồn ngủ các em

cũng sẽ “tỉnh táo” lại và chú ý xem tiếp theo cơ làm gì. Hơn thế nữa, GV sẽ cho
các HS trả lời nhanh và đúng những ngôi sao hoặc dấu cộng để đổi thành điểm.
Như thế HS vừa hứng thú lại vừa tích cực tham gia vào bài học ngay từ đầu.
Ví dụ 2: Dùng kỹ thuật KWLH dạy nội dung văn hóa Trung Quốc thời phong
kiến (Bài 5 – Trung Quốc thời phong kiến – Lịch sử 10).
- GV chuyển giao nhiệm vụ học tập: GV sử dụng kỹ thuật KWLH yêu cầu HS
hoạt động cá nhân, chuẩn bị bài, điền sẵn vào ô K và W ở nhà:
+ K: Em biết gì về văn hóa Trung Quốc?
+ W: Em có mong muốn tìm hiểu vấn đề gì khi học về văn hóa Trung Quốc?
- HS nghe GV hướng dẫn, về nhà triển khai vào cột K và W
+ HS nêu các cụm từ/ý tưởng liên quan đến nội dung (Ví dụ: HS nêu được Nho
giáo, kể tên được các bộ phim chuyển thể từ văn học của Trung Quốc, kể tên
được các cơng trình nổi tiếng như Vạn lý trường thành…)
+ HS trình bày nguyện vọng muốn biết về văn hóa Trung Quốc như: Vì sao thời
Đường lại cho người sang Ấn Độ lấy kinh? vì sao lại có tư tưởng trọng nam khinh
nữ? Các tháp canh trên vạn lý trường thành để làm gì? Người Trung Quốc ban
đầu họ làm giấy như thế nào?...


×