Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

(TIỂU LUẬN) lễ hội kỳ yên ĐÌNH TIÊN THỦY (xã TIÊN THỦY, HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH bến TRE)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.61 KB, 25 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
____________________________

ISO 9001:2008

TRẦN HỒNG HUẤN

LỄ HỘI KỲ N ĐÌNH TIÊN THỦY
(XÃ TIÊN THỦY, HUYỆN CHÂU
THÀNH, TỈNH BẾN TRE)
Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 60310640

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HẬU

TRÀ VINH, NĂM 2015


-1MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bến Tre có một hệ thống di tích lịch sử văn hóa rất
đa dạng và phong phú. Hiện nay, Bến Tre có 16 di tích cấp
quốc gia, 25 di tích cấp tỉnh đa dạng về loại hình như: lịch
sử cách mạng, kiến trúc nghệ thuật, lưu niệm danh nhân
trong đó có nhiều cơng trình, cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo
tiêu biểu như: chùa Tun Linh, đình Bình Hịa,...
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu lễ hội Kỳ yên ở
Bến Tre chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là về vấn đề
văn hóa tinh thần, văn hóa phi vật thể. Hơn nữa, việc nghiên


cứu sâu trường hợp này sẽ làm cho nhận thức của các tầng
lớp trong xã hội được nâng lên góp phần bảo tồn và phát
triển lễ hội cổ truyền nói riêng và di sản văn hóa của dân tộc
nói chung. Do đó tơi chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình là
“Lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy (xã Tiên Thủy, huyện Châu
Thành, tỉnh Bến Tre)” nhằm mục đích nghiên cứu về vai trò
và ý nghĩa của Lễ hội Kỳ yên trong đời sống tinh thần của
người Nam bộ nói chung và Bến Tre nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Các cơng trình nghiên cứu trước năm 1975 Trước
năm 1975, có: cơng trình Việt Nam phong tục
của Phan Kế Bính, Nxb Văn học, 2008; Toan Ánh với bộ
Nếp cũ, Nxb Trẻ, 2005;…
2.2. Các cơng trình nghiên cứu sau năm 1975
Sau năm 1975, các cơng trình nghiên cứu về lễ hội cổ
truyền và văn hóa dân gian với một số tác phẩm tiêu biểu
như: Nguyễn Duy Hinh với Tín ngưỡng Thành hoàng Việt


-2Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1996; Tín ngưỡng dân gian
Việt Nam do Lê Như Hoa chủ biên, Nxb Văn hóa thơng
tin, 2001; Nguyễn Hữu Hiếu có Tìm hiểu văn hóa tâm linh
Nam bộ, Nxb Trẻ, 2004; Ngơ Đức Thịnh với Tín ngưỡng
và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Trẻ, 2012; Văn
hóa dân gian người Việt ở Nam bộ của Thanh Phương, Hồ
Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, Nxb Thời Đại,
2012; Đình Nam Bộ - tín ngưỡng và nghi lễ, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh, 1993 do Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc
Tường, Hồ Tường biên soạn; Đình Nam Bộ, xưa và nay
Nxb Đồng Nai, 1999 của Huỳnh Ngọc Trảng, Trương

Ngọc Tường; Sơn Nam có Đình miếu và lễ hội dân gian
miền Nam, Nxb Trẻ, 2014; Tìm hiểu một số hiện tượng
văn hóa dân gian Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội, 1997 của
tác giả Nguyễn Chí Bền;…
3. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: lễ hội Kỳ yên.
Chủ thể nghiên cứu: Những người tham gia lễ hội.
Khách thể nghiên cứu: những nhà quản lý và các
chính sách bảo tồn.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
3.2.1 Về khơng gian: đình Tiên Thủy (xã Tiên
Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).
3.2.2 Về thời gian: lễ Kỳ yên: chủ yếu trong các
ngày 10,11,12 tháng 11 âm lịch.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu


-3Phương pháp điền dã dân tộc học
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp Văn hóa học
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
5. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về vai trị, ý nghĩa của lễ hội Kỳ yên trong
đời sống tinh thần của người dân xã Tiên Thủy nói riêng
và huyện Châu Thành nói chung, đặc biệt là lễ Du thần.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu
tham khảo, đề tài gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về đối tượng
nghiên cứu
Chương 2: Diễn trình lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy
Chương 3: Lễ hội Kỳ yên với đời sống nhân dân
Tiên Thủy
7. Đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy
nhằm nhận diện đặc trưng văn hóa của tín ngưỡng và lễ
hội Kỳ n ở Bến Tre, nêu lên ý nghĩa, vai trò của lễ hội
trong đời sống tinh thần của nhân dân, cộng đồng trong
vùng và những người tham gia lễ hội.


-4CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng và lễ hội
1.1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng
1.1.1.2 Khái niệm lễ hội
1.1.2 Khái niệm Đình làng và lễ Kỳ yên
1.1.2.1 Khái niệm Đình làng
1.1.2.2 Khái niệm lễ Kỳ yên
1.2 Tổng quan về tỉnh Bến Tre và huyện Châu Thành
1.2.1 Tổng quan về tỉnh Bến Tre
1.2.2 Tổng quan về huyện Châu Thành và xã Tiên Thủy

1.2.2.1 Tổng quan về huyện Châu Thành
Vị trí địa lý
Diện tích

Dân số
Lịch sử
1.2.2.2 Tổng quan về xã Tiên Thủy
Vị trí địa lý
Diện tích
Dân cư
Tín ngưỡng tơn giáo
1.2.3. Tổng quan hệ thống đình làng ở Bến Tre
1.3 Tổng quan về đình Tiên Thủy
1.3.1 Nguồn gốc xây dựng đình Tiên Thủy
1.3.2 Đặc điểm đình Tiên Thủy


-51.3.3 Kiến trúc đình Tiên Thủy
1.3.4 Các vị thần được phụng thờ ở đình Tiên Thủy
Đình Tiên Thủy thờ phụng 4 vị thần, đã được phong
sắc, bao gồm: Thành Hoàng bổn cảnh, Cao Các Quảng Độ
tôn thần, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải, Thiên Y A Na Diễn
Ngọc Phi. Đình cịn phụng thờ các vị thần khơng có sắc
phong: Thần nông, Thần Hổ, Ngũ Hành nương nương,
Thổ Thần, Bà Chúa Xứ và Quan Thánh Đế Qn. Ngồi
ra, đình cịn phụng thờ: Quốc tổ Hùng Vương, Tiền hiền
Hậu hiền, Tả ban Hữu ban, Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến
sỹ trận vong có hộ khẩu ở xã Tiên Thủy.
1.3.4.1 Thần Thành hồng bổn cảnh
1.3.4.2 Thần Cao Các Quảng độ tôn thần
1.3.4.3 Thần Đại Càn Quốc gia Nam hải
1.3.4.4. Thiên Y A Na Diễn Ngọc phi
1.3.4.5. Thần Nông ( 神 神 )
1.3.4.6. Sơn quân ( 神 神 )

1.3.4.7. Ngũ Hành nương nương ( 神 神 )
1.3.4.8. Thổ Thần (神 神 )
1.3.4.9. Bà Chúa (Chủ) Xứ ( 神 神 )
1.3.4.10. Quan Thánh Đế
Quân Tiểu kết chương 1
Ở chương này, chúng tôi giới thiệu tổng quan về tỉnh
Bến Tre, huyện Châu Thành và xã Tiên Thủy. Bên
cạnh đó cũng giới thiệu về các vị thần được phụng
thờ. Hệ thống thần linh được thờ phụng/phối thờ
cũng đa dạng, qui tụ mọi tín ngưỡng của các dân
tộc: Kinh, Hoa, Khmer cùng chung sống trên vùng
đất này. Từ đó đã làm nên một lễ hội Kỳ yên đặc
sắc mà năm nào cũng được tổ chức.


-6CHƯƠNG 2
DIỄN TRÌNH LỄ HỘI KỲ YÊN
ĐÌNH TIÊN THỦY
2.1 Quá trình chuẩn bị lễ hội
2.2 Lễ hội Kỳ yên
2.2.1 Một số câu chuyện linh thiêng liên quan đến
đình Tiên Thủy
2.2.2 Các nghi thức cúng trong phần Lễ
Lễ Kỳ yên kéo dài trong 03 ngày (10, 11, 12 tháng
11 âl) với các phần lễ chính: Lễ tế Thần nơng, Lễ cúng
Tiền vãng, Tế chiến sĩ, Lễ Du thần, Lễ Cầu an, Lễ Tỉnh
sanh, Lễ Xây chầu - Đại bội, Lễ Túc yết, Lễ Chánh tế, Lễ
Tống khách và phần hội với 03 tuồng hát.
2.2.2.1 Lễ tế Thần nông
Bắt đầu lúc 13 giờ ngày 10 tháng 11. Đây là một lễ

cúng mang đầy đủ nghi thức và lời xướng nhất của lễ hội.
Trong đó, lễ vật cúng Thần nơng có 8 mâm giống nhau
gồm: đầu heo, dụm heo, lịng heo, mâm xơi, mâm trầu cau.
Bàn Tả ban, Hữu ban thì lễ vật gồm một dĩa thịt heo có ba
xương sườn, một dĩa xôi, một dĩa rau, một tô cháo, một
dĩa nước mắm. Bàn Hạ tịch lễ vật gồm một dĩa thịt heo,
một dĩa xôi, một tô cháo, một dĩa rau, một dĩa nước mắm,
một chai rượu, một chai nước, một tô nước, một bộ dao –
thớt. Lễ vật ở bốn ngôi miếu giống nhau, gồm: một dĩa thịt
heo có hai xương sườn, một dĩa rau, một dĩa nước mắm,
một tô cháo, một dĩa xôi nhỏ. Nghi thức cúng Thần Nông
do ông Hương Nông làm Chủ tế.


-7Trong mỗi nghi thức cúng đều có một Ban Tế tự và
lễ sinh, có nghi thức cúng do ơng Chủ tế (Chánh tế) đảm
trách. Lễ sinh sẽ xướng các nghi thức tế lễ để Ban Tế tự
thực hiện theo. Theo vị Hương văn của đình (ơng Phan
Văn Bách, Mười Bách) và quan sát của tác giả và thì chỉ
có nghi thức cúng Thần Nông là thực hiện đầy đủ các nghi
thức cúng tế, các lễ sau đã được giản lược bớt nhưng vẫn
đảm bảo tính trang trọng, tơn nghiêm. Do các lễ sau được
thực hiện cũng giống như lễ này nên tác giả không lập lại
nữa mà chỉ nêu tổng quát về lễ vật dâng cúng, người thực
hiện (Chủ tế) và thời gian thực hiện mà không nêu chi tiết
cúng tế của từng lễ.
2.2.2.2 Lễ cúng Tiền vãng
Diễn ra từ 14 giờ ngày 10 tháng 11. Nghi thức này
nhằm tri ân các vị “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ”,
các vị tiền bối có cơng tạo lập ngơi đình đã quá vãng,...thể

hiện truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: uống nước
nhớ nguồn. Lễ vật cúng Tiền vãng gồm 5 mâm giống
nhau; một dĩa xôi, một dĩa đồ xào, một tô canh, một dĩa
thịt kho, một tô cháo.
Để thực hiện nghi thức này, Chủ tế là các ông Hiền
(Thượng Hiền, Trung Hiền và Thuật Hiền).
2.2.2.3 Lễ Tế chiến sĩ
Đến 15 giờ cùng ngày là đến phần Lễ Tế chiến sỹ. Lễ
này nhằm nhắc nhở các thế hệ hôm nay và mai sau về công
lao của những chiến sĩ đã hiên ngang ngã xuống để bảo vệ
từng tất đất của quê hương. Lễ vật gồm: một đầu heo luộc
chín, một mâm xôi, một dĩa rau, một tô cháo và sáu


-8mâm lễ vật giống nhau, bao gồm: một dĩa xôi, một dĩa đồ
xào, một tô canh, một dĩa thịt kho, một tô cháo, một dĩa
nước mắm, một dĩa rau, 18 chén cơm, một chai rượu. Lễ
này do người đứng đầu chính quyền địa phương (Chủ tịch
xã) làm Chủ tế.
2.2.4.4 Lễ Du thần
Đây là nghi thức rước sắc thần du ngoạn trong xóm
làng để nhân dân được dâng cúng các lễ vật và cầu mong sự
phù hộ, che chở của thần. Lễ này do một ơng Phó bái đình
phụ trách chung. Bắt đầu lễ Du thần thì đội múa lân mở
đường, sau đó là học trị lễ, đội qn khiêng kiệu sắc thần,
ban nhạc lễ và một số chức việc trong đình, cuối cùng là
nhân dân và du khách. Đồn du thần đi theo lộ trình nhất
định: xuống sơng Tiên Thủy ở trước đình rồi đến mõm cồn
Khánh Hội, quay về lên đất liền và du thần 3 vòng chợ Tiên
Thủy, sau đó lên xe đến UBND xã Tiên Thủy. Trong UBND

xã Tiên Thủy đã lập sẵn một bàn hương án ở trước sân, đoàn
du thần sẽ thắp hương ở bàn hương án này, đi quanh 3 vịng
sau đó đi qua đền thờ liệt sĩ của xã, đối diện với UBND xã,
chỉ cách một con đường. Sau khi thực hiện các nghi thức cần
thiết, đoàn lên xe trở về chợ Tiên Thủy rồi xuống ghe tiếp
tục theo sông Tiên Thủy đến xã Tiên Long (cũng trong cồn
Khánh Hội) rồi quay về đình. Lễ Du thần kéo dài khoảng 3
giờ, kết hợp nhiều loại phương tiện như: ghe, xuồng máy, xe
và có nhiều người tham gia. Nơi đoàn du thần đi qua nếu
đường sơng thì hai bên bờ nhân dân đốt đuốc lá dừa, bày bàn
hương án; đường bộ thì chỉ bày bàn hương án với những


-9phẩm vật mang tính đặc sản của địa phương để tiếp giá
nghinh thần mà người dân nghĩ là tốt nhất, trang trọng nhất.
2.2.2.5 Lễ Cầu an
Nghi thức lễ Cầu an do các chùa Phật trong xã Tiên
Thủy đảm trách, bao gồm các chùa: chùa Phật Nhựt, chùa
Tiên Đài, chùa Bửu Tạng, chùa Từ Ân. Các ngôi chùa này
cùng họp lại thực hiện nghi thức tụng kinh cầu an. Đây
vốn là một nghi thức của đạo Phật đã tồn tại nhiều năm và
đã dần dần xâm nhập vào đình miếu biểu hiện sự hịa hợp
của các tín ngưỡng tơn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Tham dự lễ này có đại diện các ngôi chùa nêu trên
cùng Phật tử trong xã, đông đảo nhân dân quanh vùng và
du khách tham gia lễ hội. Thực hiện nghi thức này có lễ
vật là hoa, quả.
2.2.2.6 Lễ Túc yết
Lễ Túc yết diễn ra vào lúc 0 giờ ngày 11 tháng 11
âl. Túc yết là túc trực để xin ra mắt, nghinh tiếp thần. Chịu

trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ơng Chánh bái. Lễ vật
là một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một
đĩa muối, gạo. Ngồi ra cịn có những lễ vật khác do nhân
dân mang đến dâng cúng. Lễ này cũng có một bài văn tế
và sau khi kết thúc ông Chánh tế đốt bản văn này và một ít
giấy tiền vàng bạc. Thực hiện nghi thức này cũng có ba
tuần rượu và một tuần trà.
2.2.2.7 Lễ Tỉnh sanh
Lễ Tỉnh sanh (hay còn gọi lễ Thỉnh sinh) có lễ vật
là một con heo sống trước bàn Hương án Nội. Con heo
này phải một màu nhất định (hoặc trắng hoặc đen). Người


-10chịu trách nhiệm cúng nghi thức này là ông Chánh bái.
Viên Chánh tế làm lễ xong, con heo được mang ra ngoài.
2.2.2.8 Lễ Xây chầu - Đại bội
Lễ Xây chầu
Theo truyền thống thì đình Tiên Thủy thực hiện
nghi thức xây chầu theo hình thức bán văn bán võ. Để
chọn người thực hiện lễ Xây chầu thì phải có các tiêu
chuẩn cơ bản như: rành về các nghi thức hành lễ, có đạo
đức, tuổi càng cao càng tốt, đơng con, nhiều cháu,...nhưng
quan trọng nhất phải hiểu biết các nghi thức hành lễ, đạo
đức và có sức khỏe tốt. Hình thức xây chầu văn có nội
dung rõ ràng, thời gian tiến hành ngắn gọn. Lễ này do ơng
Thượng Hiền của đình thực hiện.
Đại bội
Đại bội là những vũ điệu có nguồn gốc từ múa cung
đình với ý nghĩa giải thích các thuyết trong kinh Dịch thơng
qua hình thức nghệ thuật cụ thể là bằng các màn múa kèm theo

các lời cầu chúc mưa thuận gió hịa, dân khang vật thịnh,...

2.2.2.9 Lễ Chánh tế
Lễ Chánh tế (hoặc Đoàn Cả hay Đàn Cả, tùy theo đình)
tiếp tục phần Lễ vào lúc 0 giờ ngày 12 tháng 11 với nghi thức
cũng giống Lễ Túc yết chỉ khác một chút. Nếu lễ Túc yết có
mục đích nghênh thần thì ở lễ Đồn Cả lại nhằm tạ ơn thần.
Thực hiện nghi thức cúng này sẽ do hàng Tế trong hương chức
đình phụ trách (Chánh Tế, Phó Tế và Bồi Tế).

2.2.2.10 Lễ Tống khách
Lễ này bắt đầu lúc 5 giờ chiều của ngày cuối cùng.
Lễ vật gồm một đầu heo luộc, lòng heo, một phần bánh


-11ngọt, hương, hoa và dùi trống trong lễ Xây chầu đem đi tống
khách. Các lễ vật này được đặt trên chiếc bè thủy lục. Chiếc
bè có mái che được được kết bằng thân cây chuối dán bằng
giấy màu đỏ (hồng điều), xung quanh được trang trí bằng
nhiều loại hoa mà nhân dân dâng cúng. Người ta tin rằng,
chiếc bè trôi càng xa thì các dịch bệnh cũng như ơn hồng
dịch lệ cũng theo đó mà đi xa, khơng thể đeo bám dân làng.
2.2.3 Các hoạt động trong phần Hội
Phần Hội tuy khơng phong phú như phần Lễ nhưng
nhiều tuồng, tích, trò diễn ra náo nhiệt, làm tăng thêm sự
hứng khởi cho du khách tham gia lễ hội. Bên cạnh đó, hội
cũng là dịp để nhân dân vui chơi, giải trí sau những ngày
làm việc mệt nhọc. Phần Hội là ba xuất hát bội để phục vụ
nam phụ lão ấu gần xa.
Bất cứ ai đến cúng đình đều được đón tiếp như

nhau mà không phân biệt sang - hèn, nam - nữ, lớn - nhỏ,
quan – dân, xa – gần,... Mọi người đều bình đẳng trước
thần và được đối xử như nhau. Sau khi lễ thần, mọi người
được mời ra nhà khách phía sau dùng cơm thân mật. Các
món ăn do Ban hậu cần chuẩn bị như cháo, món xào, món
canh, món kho, xơi,...và đặc biệt ln có món heo quay và
món xơi. Heo quay là lễ vật mà nhân dân dâng cúng thần
được “kiến” lại cho đình.
2.3 Sau lễ hội
2.4 Lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy trong bối cảnh lễ Kỳ
yên đình ở Bến Tre
Đình Tiên Thủy mở hội Kỳ yên vào tháng 11 âm lịch
trùng với lễ Thượng điền cịn lễ Hạ điền thì vẫn là lễ bình


-12thường trong khi đó một số ngơi đình ở Bến Tre đều tổ
chức Kỳ yên nhằm lễ hạ điền tháng 3, tháng 4 âm lịch còn
lại đa phần tổ chức một năm hai lần: lễ Hạ điền vào trung
tuần tháng 3, tháng 4 và tháng 5 âl, lễ Thượng điền vào
trung tuần tháng 11 và tháng 12 âl.
Có thể so sánh lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy với
đình Phước Tuy. Đây là một đình khá đồ sộ của huyện Ba
Tri. Theo truyền thống thì hàng năm đình Phước Tuy tổ
chức lễ Kỳ yên vào hai lệ: Hạ điền (ngày 16, 17/4 âm
lịch), Thượng điền (ngày 16, 17/11 âm lịch). Lễ Hạ điền
có các nghi cúng: Thỉnh sắc, An vị, Túc yết, Tiền vãng,
Chánh cúng, Tống khách, Hườn sắc (Hoàn sắc). Lễ
Thượng điền có các lễ cúng: Thỉnh sắc, An vị, Thần nông,
Tiền vãng, Chánh cúng, Tống khách, Hườn sắc (Hoàn
sắc). Như thế, chúng ta thấy hai lễ kỳ yên chỉ thay đổi lễ

cúng Tiền vãng (Hạ điền) và Thần nơng (Thượng điền) mà
thơi, các lễ cúng cịn lại đều giống nhau, giờ cúng cũng
giống nhau chỉ khác ngày. Do đình Phước Tuy sắc phong
khơng được cất giữ ở đình mà đem đi nơi khác nên có
thêm các nghi cúng Thỉnh sắc, An vị và Hườn sắc (Hoàn
sắc).
Tiểu kết chương 2
Lễ hội diễn ra trong 3 ngày 10,11,12 tháng 11 âm
lịch cũng là lễ Thượng điền của đình. Lúc này là thời kỳ
nông nhàn, cây trái thu hoạch đã xong. Lễ Kỳ yên với các
lễ cúng chính như: Lễ tế Thần nông, Lễ cúng Tiền vãng,
Lễ Tế chiến sĩ, Lễ Du thần, Lễ Túc yết, Lễ Tỉnh sanh, Lễ
Xây chầu - Đại bội, Lễ Chánh tế, Lễ Tống khách,... Đến


-13với lễ dù với phẩm vật gì nhưng trên tất cả là sự cầu mong
cho mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu, cây cối, vật
nuôi đều sinh sôi nảy nở. Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo
nhân dân trong và ngoài tỉnh qui tụ về với lễ vật trên tay
như: heo quay, hoa, quả, nhang đèn,...Hơn nữa, phần Hội
với 3 xuất hát bội cũng góp phần bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa của cha ơng.
Các lễ, nghi thức cúng đều theo cổ lệ từ xưa mà
ông cha ta đã truyền lại mà không thể thay đổi đặc biệt
nhất là lễ Du thần mà theo chúng tôi, ở Bến Tre chỉ có
đình Tiên Thủy là có lễ này.


-14CHƯƠNG 3
LỄ HỘI KỲ YÊN

VỚI ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN TIÊN THỦY
3.1 Vai trò và Ý nghĩa của lễ hội Kỳ yên với đời sống
nhân dân Tiên Thủy
3.1.1 Vai trò
3.1.1.1 Tâm linh và cố kết cộng đồng
Lễ hội Kỳ yên có vai trò rất quan trọng trong đời
sống tinh thần của nhân dân Tiên Thủy nói riêng và nhân
dân quanh vùng nói chung. Họ tham gia việc chung của
đình rất nhiệt tình mà khơng hề câu nệ, tính tốn thiệt hơn.
Chẳng những thế, những người con của quê hương Tiên
Thủy thành đạt ở nơi xa thường đóng góp vào ngày lễ.
Đây là vai trò quan trọng nhất của lễ hội Kỳ yên.
Tin tưởng tuyệt đối vào sự linh thiêng của thần linh mà
con người có một chỗ dựa về tâm linh, tinh thần, góp phần
bình ổn tâm lý để sống an lành. Hơn nữa, lễ hội Kỳ yên
cũng kéo mọi người lại gần nhau hơn, cùng chung tay góp
sức lo cho việc chung của xóm làng, của cộng đồng tạo
nên một sự cố kết cộng đồng chặt chẽ.
3.1.1.2 Trao truyền văn hóa
Lễ hội là dịp để biểu dương sức mạnh của một cộng
đồng. Người đến với lễ hội vừa để cầu xin, trả ơn thần linh
cũng là dịp để thưởng thức các chương trình vui chơi, giải
trí. Thế nên, văn hóa cổ truyền được dịp phô bày cho các
tầng lớp nhân dân tham gia lễ hội để người lớn có thể hướng
dẫn, dạy dỗ lớp trẻ về văn hóa Việt Nam và lớp trẻ có thể
lĩnh hội được những điều tốt đẹp đó. Trên cơ sở đó những


-15điều tốt đẹp của văn hóa cổ truyền Việt Nam sẽ được lưu
truyền qua nhiều thế hệ.

3.1.1.3 Giáo dục
Lớp trước truyền cho lớp sau, người lớn truyền cho
trẻ nhỏ các giá trị tốt đẹp của lễ hội Kỳ yên để lớp người
đi sau nối tiếp lớp người đi trước bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa của dân tộc.
Các hương án, bao lam, hoành phi, sắc phong, câu
đối,...ngoài mang trong mình các giá trị lịch sử văn hóa vơ
giá và mang tính giáo dục cao về chữ Hán, điêu khắc,...thì nó
cịn ẩn chứa trong đó nhiều câu chuyện liên quan đến cuộc
khai phá, xây dựng và phát triển vùng đất mới của ông cha ta
qua nhiều thế hệ với biết bao mồ hôi, nước mắt và cả máu
xương từ mảnh đất hoang vu rừng thiêng nước độc thành
vùng đất trù phú với cây lành trái ngọt như hôm nay.
3.1.1.4 Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
dân tộc
Đình Tiên Thủy được hình thành cách nay khoảng
200 năm (khoảng đầu thế kỷ XIX). Nhiều giá trị văn hóa
đã được tích hợp vào ngơi đình từ văn hóa vật thể đến văn
hóa phi vật thể. Ngơi đình tồn tại, đứng vững hàng trăm
năm nay bất chấp thời gian, chiến tranh loạn lạc,...chứng
tỏ được sự quan tâm, chăm sóc rất chu đáo từ cộng đồng
cư dân ở đây từ lớp trẻ đến các bậc cao niên.
3.1.2 Ý nghĩa của lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy
3.1.2.1 Sự tưởng nhớ, tạ ơn các thần linh mà nhân
dân phụng thờ
Thực hành các nghi thức cúng, dâng các lễ vật cho thần
là để tưởng nhớ, tạ ơn các vị thần linh đã phù hộ, giúp đỡ nhân


-16dân trong năm qua. Giúp cho mưa thuận gió hịa, mùa màng

bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở,...Đây cũng là dịp để “báo
công” với thần những việc làm được năm qua và ước mong
cho năm tới mọi điều tốt lành bằng hoặc hơn năm cũ.
3.1.2.2 Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của
người dân
Lễ hội, bên cạnh thỏa mãn nhu cầu tâm linh thì nhu
cầu về vui chơi giải trí cũng là một sự cần thiết. Người dân
và du khách có dịp gặp nhau cùng tận hưởng những giây
phút thư giãn với hát bội cùng các trò diễn khác mà ngày
thường khơng có dịp thưởng thức. Bên cạnh đó, khung cảnh
người người đi trẩy hội trong hai đêm 10 và 11 cũng tạo một
dấu dấn khó phai trong lịng du khách phương xa.
3.1.2.3 Tăng cường sự đồn kết giữa các thành
viên trong cộng đồng, xã hội
Nhiều người từ nhiều vùng quy tụ về đây cùng tham
gia/phục vụ lễ hội. Mọi người gặp nhau cùng vui vẻ trẩy hội
và thưởng thức khơng khí vui tươi, đầm ấm. Đây là dịp gặp
gỡ nhau sau một năm làm việc cật lực, bươn chải làm ăn.
Cũng dịp này các ngôi chùa trong vùng cùng làm lễ Cầu an,
các sư cô chưng dọn trang trí hoa quả trên bàn thờ, hương
án, các chiếc ghe, xuồng máy, xe lôi tham gia phục vụ lễ Du
thần mà không nhận thù lao, ...cũng là nét đặc trưng riêng
của đình Tiên Thủy góp phần làm cho các thành viên trong
cộng đồng, xã hội thêm gắn bó với nhau hơn.
3.1.2.4 Góp phần phát triển kinh tế, du lịch; góp
phần xây dựng nền văn hóa truyền thống Việt Nam
Hàng năm, cứ “đến hẹn lại lên” du khách lại tìm về lễ
hội Kỳ yên để vui chơi, giải trí. Lễ hội không chỉ là tấm gương



-17phản chiếu nền văn hóa dân tộc, mà cịn là môi trường bảo
tồn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân tộc ấy.
Người dân quanh vùng và các khu vực khác có bn
bán nhỏ hay kinh doanh về các hoạt động giải trí thì sẽ tìm
về. Các cá nhân này kinh doanh nhiều mặt hàng từ quần áo,
ăn uống, trò chơi thiếu nhi, chụp ảnh nghệ thuật,...Đường từ
ngã ba Tiên Thủy, cầu Khánh Hội đã có nhiều dịch vụ mở ra
để phục vụ du khách. Sáng ngày 10 tháng 11 là mọi người đã
chuẩn bị mặt bằng để dọn hàng, chưng dọn các thứ mà mình
có được, có thể là một tấm bạt hoặc lớn hơn thì cất lên một
gian hàng đơn giản với cột bằng tre, phía trên phủ bạt là
cũng tươm tất rồi. Đến với lễ hội du khách được phục vụ vô
cùng chu đáo. Từ đưa đị, gửi xe, ăn uống đến vui chơi, giải
trí đều được đáp ứng đầy đủ miễn sao là có tiền. Các sản vật
của địa phương như các loại trái cây, các vườn du lịch sinh
thái, các dịch vụ ăn theo lễ hội cũng được dịp bung ra phát
triển mạnh cho du khách chiêm ngưỡng và mua sắm. Đây là
việc thuận mua vừa bán của hai bên nên Ban Khánh tiết đình
cũng khơng can thiệp.
3.2 Sự biến đổi của lễ hội Kỳ yên trong đời sống hiện nay
3.2.1 Biến đổi về phẩm vật dâng cúng
3.2.2 Biến đổi về các nghi thức cúng
3.2.3 Biến đổi về lễ Du thần
3.2.4 Biến đổi về các trò chơi dân gian
3.3 Nguyên nhân của sự biến đổi
Trước hết, có lẽ do người dân và du khách cịn bận
chuyện “cơm, áo, gạo, tiền” nên khơng cịn nhiều thời gian
để đến tham dự lễ hội và các trò chơi dân gian nữa. Người ta



-18đến như bổn phận phải làm, dâng phẩm vật cúng thần xong
là tất tả về để lo việc khác thậm chí cịn khơng kịp ăn bữa
cơm thân mật với Ban Khánh tiết đình dù được đón tiếp, mời
chào rất chu đáo. Các vị Hương chức cũng có nhiều chuyện
lo toan nên các nghi thức dần dần có chiều hướng biến đổi
mà khơng theo cổ lệ. Phần tổ chức các trị chơi dân gian là
do chính quyền địa phương đứng ra làm nhưng hiện nay cịn
một số ít người chơi, ít người am hiểu và kinh phí tổ chức
cũng khơng có. Cho nên dần dần các trị chơi dân gian đã
khơng tổ chức được nhất là ba năm trở lại đây. Phẩm vật
dâng cúng của người dân địa phương thì có thể sắp xếp được
cịn du khách phương xa đến thì chỉ có tiền là phẩm vật dâng
cúng có ý nghĩa nhất. Hơn nữa, tiền có thể làm được nhiều
việc từ tu sửa đình, tổ chức các lễ cúng trong năm, mua
nhang đèn, lễ vật, làm công tác xã hội,..Mặt khác, trong thời
buổi công nghệ thông tin hiện đại như hiện nay thì nhu cầu
giải trí của giới trẻ nói riêng và du khách nói chung cũng đã
thay đổi nhiều. Xem phim ảnh, kết bạn trên mạng, nhu cầu
tìm hiểu cái mới, ... cộng với nhiều lo toan trong cuộc sống
thường ngày đã khiến cho nhu cầu của con người cũng dần
thay đổi theo thời gian.
Tuy lễ hội kỳ yên đình làng trải qua nhiều thập kỷ,
qua chiến tranh chống Pháp và Mỹ nhưng vẫn tồn tại và phát
triển. Bởi vì, nhân dân biết giữ gìn tốt các giá trị của cha ơng
để lại, Ban Khánh tiết đình cùng chính quyền địa phương
luôn luôn quan tâm tổ chức các nghi thức cúng theo đúng cổ
lệ, đang thực hiện việc sưu tầm và ghi chép lại các nghi thức
cúng tế theo đúng nghi thức. Hơn nữa, nhu cầu về tâm linh



-19của con người trong thời đại nào cũng có,... cho nên tác
giả cho rằng lễ hội kỳ yên đình Tiên Thủy sẽ mãi mãi sống
trong tâm thức của con người Việt Nam dù thành thị hay
nông thôn trong các tầng lớp nhân dân.
3.4 Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá
trị lễ hội Kỳ yên
3.4.1 Chú trọng công tác quản lý nhà nước về bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa thơng qua hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
3.4.2 Cần nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học trình Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét đưa lễ hội Kỳ
yên đình Tiên Thủy vào Danh mục di sản văn hóa phi
vật thể quốc gia.
3.4.3 Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động
của lễ hội, phát huy vai trị của cộng đồng trong tổ
chức lễ hội.
3.4.4 Cần quảng bá nhiều hơn về đình Tiên Thủy và
lễ hội Kỳ yên trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3.4.5 Thiết kế các tour du lịch gắn với xã Tiên Thủy,
đình Tiên Thủy và lễ hội Kỳ yên
3.4.6 Nhà nước cần có chủ trương đúng đắn, chính
sách đầu tư hợp lý cho bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa.
Tiểu kết chương 3
Chúng tơi, nêu lên vai trị và ý nghĩa của lễ hội Kỳ
n đình Tiên Thủy. Vai trị gồm: Tâm linh và cố kết cộng
đồng, Trao truyền văn hóa, Giáo dục, Bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc thì ý nghĩa của lễ hội cũng



-20khơng thể khơng nhắc tới. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc
được tích hợp vào trong nó. Đó là sự tưởng nhớ, tạ ơn các
thần linh mà nhân dân phụng thờ, Đáp ứng nhu cầu vui
chơi, giải trí của người dân, Tăng cường sự đoàn kết giữa
các thành viên trong cộng đồng, xã hội bên cạnh đó cịn
góp phần phát triển kinh tế, du lịch; góp phần xây dựng
nền văn hóa truyền thống Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng
đưa ra nhưng biến đổi cùng với nguyên nhân và các giải
pháp để bảo tồn và phát huy lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy
trong thời gian tới.


-21KẾT LUẬN
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt,
được tổ chức để thể hiện lịng tơn kính tột bậc với các bậc
tiền nhân, những người có công với nước với dân, các vị
“tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ”, hoặc với một lực
lượng siêu nhiên mà nhân dân cung kính tơn thờ. Lễ hội gắn
với lịch sử một dân tộc, một địa phương, hoặc gắn với vị
Thành hoàng bổn cảnh của một làng. Lễ hội truyền thống là
một hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống của
một cộng đồng biểu thị niềm tin vào đối tượng thiêng vào
một thời điểm mạnh của cộng đồng trong đó Lễ phản ánh
trật tự xã hội, Hội chủ yếu là vui chơi. Lễ hội ở đình làng là
dịp để mọi người dân thực thi tín ngưỡng của mình. Lễ hội
gắn liền với nhau, có lễ mới có hội. Lễ là cái linh thiêng, do
vương triều dội xuống, hội là cái trần tục mang nặng tính
giải trí giúp người tham gia lễ hội vui chơi, quên đi mọi lo
toan hàng ngày. Lễ hội có sự hịa hợp giữa thế giới tâm linh
và cuộc sống thường nhật của con người. Lễ hội nói chung

và lễ hội dân gian nói riêng là sản phẩm tinh thần đặc sắc,
đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của các tầng lớp nhân dân
trong vùng đồng thời cũng là một sản phẩm du lịch đặc trưng
của địa phương mà nếu khéo léo kết hợp với các khu du lịch
sinh thái miệt vườn, các di tích đã được xếp hạng trong
huyện Châu Thành, chúng ta sẽ có một sản phẩm đọc đáo,
thu hút nhiều hơn khách tham quan ngoài tỉnh đến tham gia
trong ngày lễ hội.


-22Tín ngưỡng đình làng khơng phải là mê tín cũng
khơng phải là một tôn giáo “mà chỉ bàng bạc một nội dung
Kính và Sợ với các nghi thức tế lễ nhằm mục đích Cầu An
(Kỳ yên) cho thế giới hiện tại, cho cuộc sống trước mắt của
cộng đồng. Đồng thời do tác động của lịch sử dân tộc, nó
khơng dừng lại ở đó, mà tiếp nhận phạm trù tri ân với người
có cơng với làng nước và nghi thức triều đình phong kiến”.
Lễ hội Kỳ yên đình Tiên Thủy là một lễ hội còn đầy
đủ nhất các nghi thức cúng trong hệ thống các ngơi đình thờ
Thành hồng bổn cảnh ở Bến Tre. Ngồi thờ Thành hồng
bổn cảnh, đình Tiên Thủy cũng phối thờ nhiều vị thần của tín
ngưỡng dân gian và của các dân tộc khác như: Sơn Quân,
Ngũ Hành nương nương, Bà Chúa xứ, Quan Thánh Đế
Quân,.. và đã được 7 sắc phong thời Tự Đức ngũ niên (1852)
cho các vị thần: Thành Hoàng bổn cảnh, Cao Các Quảng Độ
tôn thần, Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần, Thiên Y
A Na Diễn Ngọc Phi. Thế nên lễ hội ở nơi đây cũng đặc sắc
hơn so với các ngơi đình khác ở Bến Tre và người tham gia
lễ hội cũng rất đông đúc, thành phần đa dạng, đến từ nhiều
nơi ở Nam bộ, không chỉ là người dân Bến Tre mà lan tỏa ra

các vùng lân cận và cả thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai,...nhất là từ khi Đình Tiên Thủy được xếp
hạng di tích quốc gia về kiến trúc nghệ thuật. Hơn nữa với lễ
Du thần, lễ hội này cũng là điều đặc biệt nhất trong các lễ
hội Kỳ yên ở đình làng Bến Tre.
Lễ Du thần là thần đi xem xét chốn dân gian xem
cuộc sống nhân dân nơi mình cai quản như thế nào để mà
“hộ quốc, tý dân” cho phù hợp. Tham gia lễ Du thần với


-23đám rước đông đúc bằng cả hai đường thủy, bộ cùng với
tiếng kèn, tiếng trống, tiếng hô vang của những người tham
gia cả trên thuyền và hai bên bờ, bên đường. Mọi người đốt
đuốc lá dừa và hai bên bờ nếu đường thủy hoặc hai bên
đường nếu đường bộ càng làm cho khơng khí thêm vui tươi,
náo nhiệt. Nhân dân đốt đuốc, bày bàn hương án với “cây
nhà, lá vườn” nghinh thần nơi đoàn du thần đi qua nhằm để
tạ ơn và cầu mong thần linh phù hộ, chở che giúp cho mưa
thuận, gió hịa, mùa màng tốt tươi, vạn vật được sinh sôi, nảy
nở, mọi nhà hạnh phúc. Lễ hội này đã giúp cho mọi người
đến gần với nhau hơn cùng quên đi những lo toan thường
nhật mà cùng đến bên nhau vui vẻ thăng hoa trong niềm vui
ngập tràn. Đây là dịp để thỏa mãn nhu cầu về tâm linh, tưởng
nhớ đến các bậc tiền nhân có cơng với tổ quốc, quê hương,
bên cạnh đó, cũng là dịp để thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải
trí, biểu dương lực lượng, củng cố và thắt chặt tình đồn kết
làng xóm, cộng đồng.
Các phẩm vật dâng cúng, các nghi thức cúng, các
trang trí trên nóc đình, mái đình cùng với trên nghi trượng, lỗ
bộ, bao lam, thành vọng, hoành phi, câu đối,...đã thể hiện nét

văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam đặc biệt
là trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để khai khẩn đất
đai, lập làng, xây chợ. Thể hiện sự đồn kết gắn bó giữa các
dân tộc anh em: Kinh, Hoa, Khmer trên vùng đất mới, nơi
rừng sâu, nước độc “dưới sông cá sấu, trên bờ cọp um” trở
thành vùng đất trù phú với cây lành trái ngọt như hôm nay.
Các thế hệ tiền nhân đã đổ không biết bao nhiêu công sức,
mồ hôi, nước mắt và cả máu xương xuống vùng đất này


-24mà nếu khơng có một chỗ dựa về tinh thần, chỗ dựa về
mặt tâm linh thì khơng thể nào sống sót mà vượt qua để
chúng ta có được cuộc sống sung túc hôm nay.
Mọi người đến tham gia với lễ hội kỳ yên đều được
tham gia giao lưu trong sự đồn kết gắn bó, cộng cảm, cộng
mệnh và được trao truyền những giá trị văn hóa tốt đẹp của
cha ơng để hướng tới chân, thiện, mỹ. Vì vậy, dù trải qua
nhiều thập kỷ, qua các thời kỳ lịch sử từ chiến tranh đến hịa
bình, xây dựng đất nước và giai đoạn hiện nay, lễ hội Kỳ yên
vẫn tồn tại và phát triển ngày càng mạnh. Nó được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người dân trong
vùng đến du khách phương xa mà mỗi dịp lễ hội đều nhớ mà
tìm về. Chẳng những thế nó cịn tích hợp một số tín ngưỡng
của Phật giáo vào và biến thành nghi thức chẳng hạn lễ Cầu
an. Bởi thế, tham gia lễ hội Kỳ n cịn có ngơi chùa phật
trong khu vực từ trước lễ hội (hiến cúng hoa và trang trí) và
trong lễ hội (thực hiện nghi thức cúng cầu an) với tất cả tấm
lịng thành kính. Điều này thể hiện qua số lượng người tham
gia, các phẩm vật dâng cúng, số tiền thu được sau lễ hội. Giá
trị của lễ hội Kỳ yên còn thể hiện ở chỗ: các phẩm vật dâng

cúng là lộc của thần để ban phát cho mọi người cần đến, số
tiền nhân dân cúng khơng chỉ lo tu bổ, sửa sang, cúng cho
đình mà còn lo cho cộng đồng, xã hội.
Với những giá trị tiêu biểu như trên, chúng tôi hy vọng
trong thời gian không xa, lễ hội kỳ yên đỉnh Tiên Thủy sẽ được
đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


×