Tải bản đầy đủ (.doc) (319 trang)

TẬP bài GIẢNG LỊCH sử TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 319 trang )

BÀI NHẬP MÔN LSTHPT
.
I. TÍNH QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC
1. Triết học – tinh hoa tinh thần của thời đại
Thuật ngữ “triết học” mà chúng ta đang sử dụng hiện nay có ý nghĩa tương
đương với tiếng Hy Lạp “philosophia”1 (φιλοσοφία), sự hợp nhất của “yêu mến”,
“yêu thích”, “khát vọng” (φιλεω, hoặc φιλία) và “sự thông thái”, “sự mẫn tiệp”
(σοφία). Thuật ngữ “philosophia” đi sau thuật ngữ “philosophos” – triết gia khác
với nhà thông thái, nhà bác học: một đằng là khát vọng “vươn đến sự thông thái”
(thần linh), đằng khác là nắm tóm, thủ đắc sự thông thái; một đằng là khát vọng
vươn đến chân lý, đằng khác là “đã” đạt được chân lý. Phép ẩn dụ này cho ta một
nhận định rất quan trọng: tri thức triết học mang tính thời đại, và là tri thức mở,
với ước muốn đem đến những lời đáp chung nhất, có tính hệ thống về thế giới
xung quanh và thế giới của chính con người, và là dạng tri thức lý luận xưa nhất
của nhân loại
Lịch sử tư tưởng triết học là sự phản ánh lịch sử hiện thực thông qua các
phạm trù, khái niệm đặc trưng của mình. Sự phản ánh đó thể hiện ở nhiều bình
diện khác nhau.
Về mặt lịch sử, hình thức triết lý đầu tiên của con người thể hiện trong tư
duy huyền thoại, mà những lời đáp về thế giới được cô đọng trong những câu
chuyện thần thoại, sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng của con người với
thế giới xung quanh. Thần thoại ngự trị trong ý thức đại chúng cùng với thút
nhân hình xã hợi ngun thuỷ, vật linh thuyết, vật hoạt luận. Người nguyên thủy
bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tưởng tượng, những quan niệm của
họ còn rời rạc, mơ hồ, phi lơgíc. Các ́u tớ tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ
thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự
nhiên và siêu nhiên ở thần thoại cịn chưa bị phân đơi. Đỉnh cao phát triển của
thần thoại cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó. Triết học – hình
thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại – ra đời, thay thế cho
tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Thuật ngữ “triết học” do người Hy


Lạp nêu ra2 (philosophia) theo nghĩa hẹp là “u mến sự thơng thái”, cịn theo
nghĩa rộng, là khát vọng vươn đến tri thức; nói khác đi, là “quá trình tìm kiếm
chân lý”; nhà triết học là người yêu mến sự thông thái, khác với nhà bác học
1

Tiếng Anh: philosophy, tiếng Pháp: philosophie, tiếng Nga: философия
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Pythagoras là người đầu tiên tự gọi là philosophos (φιλοσοφος), tức “kẻ yêu
mến sự thông thái”, nhưng chính Heraklitus mới là người đầu tiên sử dụng từ này trong một đoạn tản văn của ông.
2

1


(sophos), người nắm vững chân lý. Tuy nhiên với thời gian triết học được hiểu
theo nghĩa rộng: đó là thứ tri thức phổ quát, tìm hiểu các vấn đề chung nhất của
tồn tại và tư duy. Ở buổi đầu lịch sử tri thức triết học là tri thức bao trùm, là “khoa
học của các khoa học”. Nói như thế không có nghĩa là tư tưởng đạo đức, chính trị,
thẩm mỹ, nghệ thuật chưa xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng đó đã được
xem là một phần của triết học. Trong thời Trung cổ thần học Kytô giáo chiếm vị
trí thống trị trong sinh hoạt tư tưởng. Nhà nước phong kiến và nhà thơ Thiên chúa
giáo chỉ lấy “những cái phù hợp” trong triết học Arixtốt (Aristoteles, Aristotle),
trường phái Platôn (Platon, Plato) để làm chỗ dựa tư tưởng của mình. Triết học trở
thành nơ lệ của thần học, của cái gọi là tư duy chuẩn mực, nhà thờ trở thành “nền
chuyên chính tinh thần”, lịch sử các vị thánh quan trọng hơn lịch sử các danh
nhân. Thế kỷ XV – XVI được xem là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ phong kiến
sang xã hội tư sản. Tư tưởng nhân văn trở thành trào lưu chủ đạo và xuyên suốt,
thể hiện ở hầu khắp các lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, với thông điệp
con người là trung tâm. Từ thế kỷ XVII – XVIII trở đi tư tưởng triết học, khoa
học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị mang tính thế tục và duy lý thay thế dần thần học
vạn năng. Khi trung tâm tri thức chuyển từ Anh và Pháp sang Đức từ nửa sau thế

kỷ XVIII truyền thống “cổ điển” phương Tây, bắt đầu từ Hy Lạp – La Mã, đạt đến
đỉnh cao hoàn thiện nhất, mà điển hình là hệ thớng Hêghen (Hegel). Trong những
năm 20 – 40 của thế kỷ XIX đã diễn ra quá trình phi cổ điển hóa các lĩnh vực tri
thức, thể hiện ở văn hóa, khoa học, triết học. Bước ngoặt lớn này gắn liền với
những biến đổi kinh tế, chính rị, xã hội và chịu sự sự chi phối của những biến đổi
ấy. Ngày nay xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đưa các dân tộc xích lại gần
nhau hơn, tăng cường giao lưu, đối thoại, hướng đến lợi ích chung – hịa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển bền vững. Song bên cạnh đó xung đột về lợi ích vẫn
chưa chấm dứt, mà ngày càng diễn biến phức tạp. Đấu tranh tư tưởng và đối thoại
tư tưởng đan xen nhau, làm nên bức tranh tư tưởng đa dạng và phức tạp và đầy
mâu thuẫn. Các chủ đề của tư tưởng triết học trở nên phong phú, với khá nhiều
trào lưu, khuynh hướng lần lượt ra đời và bị thay thế, kể cả những trào lưu,
khuynh hướng từng được xem là tuyên ngôn bán chính thức về lới sớng của mợt
xã hợi.
Tìm hiểu sự phát triển của tư tưởng triết học qua các thời đại, C.Mác nhận
định: “… mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại
mình”1, và rằng “các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm
của thời đại mình, của dân tợc mình”2. Triết học chân chính là thứ triết học được
sinh ra bởi thời đại, được tạo nguồn năng lượng sống bằng chính thực tiễn phong
1
2

C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, t.1, Nxb Chính trị Q́c gia, Hà Nợi, 2005, tr. 157.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 156.

2


phú của thời đại, và về phần mình, góp phần vào sự phát triển của thời đại thông
qua thiên chức cao cả của mình.

Tính quy luật của sự ra đời, phát triển tư tưởng triết học thể hiện ở những
điểm sau:
1) Mỗi hệ thống, trào lưu tư tưởng triết học đều xuất hiện một cách tất yếu,
và với tính tất yếu ấy nó chịu sự sàng lọc của lịch sử, bị thay thế bởi những tư
tưởng phù hợp với điều kiện lịch sử mới.Quá trình phát sinh, phát triển của tư
tưởng triết học chịu sự quy định của những điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể.
Chính thực tiễn xã hội với toàn bộ tính sinh động và phức tạp của nó chi phối nội
dung và thực chất các khuynh hướng, trường phái triết học, vị trí, vai trò của triết
học trong đời sống xã hội. Sự thay thế nhau của các học thuyết triết học không
tách rời nhu cầu khách quan, hiện thực của con người;
2) Tư tưởng của quá khứ không biến mất hoàn toàn, mà thường để lại di
sản của mình; mợt sớ nợi dung của nó tiếp tục được tìm hiểu, nghiên cứu như
những bài học kinh nghiệm của lịch sử, một số khác tiếp tục gia nhập vào cái toàn
thể sống động tiến về phía trước;
3) Sự vận động của tư tưởng triết học theo quá trình từ trừu tượng đến cụ
thể. Theo đó triết học càng lùi về phía sau càng trừu tượng, càng gần với chúng ta
càng giàu nội dung, càng cụ thể. Mối quan hệ giữa triết học với các lĩnh vực tri
thức cũng thay đổi theo thời gian. Vào thời cổ đại, khi trình đợ nhận thức chung
cịn thấp, tri thức khoa học cịn ở trong tình trạng tản mạn, sơ khai, thì triết học
đóng vai trị là dạng nhận thức lý luận duy nhất, giải quyết các vấn đề lý luận
chung về tự nhiên, xã hội, tư duy. Triết học được xem như “khoa học của các
khoa học”, còn các triết gia được tôn vinh thành những bộ óc bách khoa, am
tường mọi thứ. Tuy nhiên khi các khoa học chuyên biệt với hệ thống lý luận riêng
có của mình lần lượt ra đời, thì mọi tham vọng về triết học toàn năng trở nên vô
nghĩa. Ph.Ăngghen viết: “Chủ nghĩa duy vật hiện đại… khơng cịn là mợt triết học
nữa, mà là một thế giới quan…” và “Chủ nghĩa duy vật hiện về bản chất là biện
chứng, và nó không cần đến bất cứ một triết học nào đứng trên các khoa học
khác”1;
4) Tư tưởng triết học là sản phẩm của thời đại, được sinh ra, nuôi dưỡng,
thẩm định bởi thời đại; không có chân lý bất biến, tuyệt đích cho mọi thời đại, do

đó không có thứ tư tưởng triết học xuyên qua nhiều thời đại, được thần thánh hóa
như những tín điều bất di bất dịch.
1

C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập; t.20, Nxb. Chính trị Q́c gia, Hà Nội, 2005, tr. 197 và 42.

3


2. Tính tất yếu của sự thay đổi các chủ đề tư tưởng triết học
Trong sự phát triển tư tưởng triết học, các chủ đề thường xuyên trải qua
thay đổi, bổ sung, mở rộng nhằm lý giải một cách kịp thời các quá trình thực tiễn
xã hợi. Có những chủ đề tư tưởng hôm qua là chủ đạo, hôm nay chỉ còn đóng vai
trò thứ yếu; ngược lại, cái mà hơm qua ở dạng phơi thai, thì hơm nay trở thành
trung tâm, thành điểm nóng của sự tranh luận. Trong điều kiện chủ nghĩa phổ quát
Kytô giáo thống trị vào thời trung cổ vấn đề con người hầu như không được quan
tâm, bị hòa tan vào cái phổ quát bao trùm là sự tồn tại của Đấng tối cao. Cuộc
tranh luận giữa duy danh luận và duy thực luận chỉ đơn giản xoay quanh tính xác
thực của khái niệm “đơn nhất” và “phổ quát”. Song đến thời Phục hưng chủ đề
tranh luận đã vượt qua khuôn khổ của hệ chuẩn tư duy trung cổ, mang đậm ý
nghĩa của cuộc đấu tranh vì giá trị người, vì sự giải phóng con người cá nhân,
thay thế từng bước thuyết thần là trung tâm (theocentrism) bằng thuyết con người
là trung tâm (homocentrism, hay anthropocentrism), thay sự thống trị của Thượng
đế (regnum Dei) bằng sự thống trị của con người (regnum hominis). Phục hưng là
bước chuẩn bị cho thế kỷ XVII – XVIII, tức thời đại của khám phá và phát minh,
của “tư duy thiết kế” sáng tạo (chứ không phải tư duy minh họa, chủ giải cho
những chân lý đã có sẵn) Tương tự, nếu trào lưu chủ đạo trong thời Phục hưng là
tư tưởng nhân văn với sự tơn vinh hình ảnh con người vươn đến tự do, thì tư
tưởng chính trong thế kỷ XVII – XVIII là triết học, chính trị, khoa học. Về triết
học chủ nghĩa duy vật chiếm vị thế áp đảo trước chủ nghĩa duy tâm. Về chính trị

tư tưởng chính trị thế tục, quan điểm “xã hội công dân” và nhà nước pháp quyền,
có mầm mống từ thời Phục hưng, tiếp tục phát triển, làm giàu và sâu sắc thêm
thông qua quan điểm của những nhà lý luận kiệt xuất, từ Lốccơ (Locke), Hốpxơ
(Hobbes), đến Môngtéxkiơ (Montesquieu), Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousseau)…
Về khoa học thế kỷ ấy chứng kiến nhiều khám phá, phát minh khoa học được ứng
dụng vào thực tiễn, lý trí trở thành lý trí có định hướng thực tiễn, với sự thống trị
của cơ học. Các nguyên lý của nó tác động đến cả tư duy triết học và chính trị,
đưa đến chủ nghĩa máy móc và phương pháp tư duy siêu hình. Các nhà tư tưởng
Đức (nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX) không chỉ đem đến sự kết thúc
đầy ý nghĩa của truyền thống cổ điển trong tư tưởng, mà còn khắc phục những
hạn chế trong nhận thức luận thế kỷ trước. Và chính họ, đặc biệt các nhà triết học
cổ điển Đức, điển hình là Hêghen và Phoiơbắc (Feuerbach), tạo nên một trong
những tiền đề lý luận của chủ nghĩa Mác. Với C. Mác và Ph. Ăngghen, bước
ngoặt cách mạng trong tư tưởng đã được thực hiện. Khác hẳn với các nhà tư
tưởng cùng thời, những người hoặc đem đối lập khuynh hướng phi duy lý với
truyền thống duy lý (Kiếckego chẳng hạn), hoặc chỉ dám “cách tân” một phần học
thuyết Hêghen (phái Hêghen trẻ), C. Mác và Ph. Ăngghen thể hiện thái độ văn
4


hóa đối với các vấn đề truyền thống, đồng thời làm cho hệ tư tưởng mang chức
năng cải tạo cách mạng đối với đời sống xã hội.
Như vậy, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, các trào lưu, khuynh
hướng tư tưởng xác định chủ đề chính, tập trung khai thác, phân tích chúng, nhằm
phản ánh trung thực những biến đổi của thực tiễn, đồng thời định hướng cho hoạt
động thực tiễn. Theo C. Mác, không phải thực tiễn cần phải diễn ra theo các đồ
thức luận tư duy, mà ngược lại, các đồ thức luận tư duy cần thường xuyên được
điều chỉnh để không bị lạc hậu trước thực tiễn. Vì thế mọi mưu toan giới hạn các
nội dung cần nghiên cứu trong phạm vi chật hẹp, xơ cứng, bất biến đều đồng
nghĩa với sự bóp chết năng lực sáng tạo của chính tư duy. Không phải hệ thống tư

tưởng nào ở thời đại nào cũng chỉ quanh quẩn ở cùng một đối tượng nghiên cứu.
Quy luật phát triển của tư tưởng là thường xuyên diễn ra sự đấu tranh, tác động hỗ
tương, đan xen nhau, bổ sung và chi phối lẫn nhau, làm cho mỗi hệ thống trong số
chúng mang tính độc lập tương đối, tính đa dạng cả về nợi dung lẫn hình thức thể
hiện.
Sự phát triển của tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học, phản ánh trình đợ
tư duy chung của nhân loại. Thực tiễn khách quan, hoạt động nhận thức và khoa
học của con người quy định vị trí của mổi quan điểm, học thuyết. Chẳng hạn
trong xã hội chiếm hữu nơ lệ chưa hình thành các ngành khoa học đợc lập, chuyên
biệt về tự nhiên và xã hội, về các hình thức vận đợng của vật chất, nên triết học
thời bấy giờ là kiến thức lý luận nói chung, trên thực tế là dạng kiến thức duy
nhất. Dần dần các khoa học chuyên biệt ra đời, ranh giới giữa chúng với triết học
được xác lập. Sự phát triển phong phú tri thức loài người và quá trình phân loại,
“cá thể hóa” đưa đến chỗ triết học khơng cịn đóng vai trò “khoa học của các khoa
học” nữa, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại và nhận thức.
Sinh hoạt tư tưởng trong thời đại hôm nay phản ánh một thế giới mở, sự
bùng nổ các khám phá khoa học, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ, kinh tế
tri thức và sự xích lại gần nhau giữa các dân tợc vì những mục tiêu nhân loại
chung; song đó cũng là một thế giới phức tạp, tiềm ẩn các nguy cơ xung đột giá
trị, trong đó có giá trị tư tưởng, tinh thần. Nhận diện các trào lưu tư tưởng hiện
đại, giải thích một cách khách quan, khoa học nội dung và thực chất của chúng
góp phần làm sáng tỏ những đặc điểm của thời đại, dự báo xu hướng vận động
của lịch sử.
Ba nguyên tắc cần nắm trong quá trình tìm hiểu mợt học thút, mợt trào
lưu tư tưởng trong lịch sử là: thứ nhất, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nghĩa là cần đặt
đối tượng nghiên cứu, xem xét trong những điều kiện lịch sử nhất định, phù hợp
5


với trình đợ nhận thức của thời đại đó, đánh giá một cách nghiêm túc, trung thực

những thành tựu, đóng góp của các nhà tư tưởng vào kho báu tư tưởng nhân loại.
Không nên áp đặt một cách chủ quan những tính quy định của thời đại hôm nay
đối với quá khứ, buộc quá khứ làm được những điều mà thời ấy chưa thể biết đến.
Nói khác đi, quan điểm lịch sử cụ thể địi mợt thái đợ văn hóa đối với những di
sản do nhiều thế hệ nhân loại đã tạo nên, tích lũy, sàng lọc qua các thời kỳ phát
triển. Thứ hai, xác định cái cơ bản nhất, cốt lõi nhất, hay điểm nhấn trong toàn bộ
bức tranh tư tưởng với tính cách là đối tượng nghiên cứu. Chỉ có như vậy mới
hiểu biết một cách sâu sắc và cô đọng cái “hồn” sống động nhất của từng thời đại,
hiểu được “trục chính” trong sinh hoạt tư tưởng thời đại ấy. Thứ ba, kết hợp hai
cách đánh giá, đánh giá từ góc độ thế giới quan và đánh giá từ góc độ giá trị đối
với từng học thuyết, vừa làm nổi bật tính đảng phái, vừa chỉ ra vai trị, vị trí của
từng học thút trong đời sớng xã hợi, trong dịng chảy của lịch sử tư tưởng. Thứ
tư, chỉ ra mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, nghĩa là rút ra ý nghĩa và bài học
lịch sử của việc nghiên cứu một học thuyết, tư tưởng trong quá khứ đối với thời
đại chúng ta
III. VỀ SỰ THỐNG NHẤT TÍNH ĐẢNG PHÁI VÀ TÍNH KHOA
HỌC TRONG VIỆC TÌM HIỂU LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
1. “Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa tinh thần của thời đại
mình”, nhưng “không có tính đảng sẽ không có sự phát triển”
Nêu ra hai trích dẫn ấy của K. Marx, chúng ta hiểu rằng, cần kết hợp một
cách biện chứng cách tiếp cận thế giới quan và cách tiếp cận giá trị, cách tiếp cận
tri thức và cách tiếp cận văn hóa trong việc đánh giá các học thuyết triết học trong
lịch sử.
Sự thống nhất tính đảng (tính đảng phái) và tính khách quan, chuẩn mực
(tính khách quan – khoa học) trong việc xem xét các tư tưởng, học thuyết triết học
trong lịch sử nhân loại đòi hỏi dựa vào cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
khoa học, đồng thời nắm vững nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể,
nhằm tránh sự áp đặt một cách võ đoán, chủ quan đối với lịch sử.
Chủ nghĩa hư vô trong quan điểm lịch sử đồng nghĩa với sự dửng dưng đối
với chính các vấn đề hiện tại, bởi lẽ nó hiểu lịch sử chỉ như những lát cắt rời rạc,

không có mối liên hệ với nhau. Thực ra cho dù lịch sử đã an bài, nhưng nó vẫn
tiếp tục ám ảnh những đang sống, bởi những cách tiếp cận khác nhau về lịch sử.
Quan điểm máy móc, siêu hình xem lịch sử triết học thuần túy chỉ như lịch
sử đấu tranh giữa hai hệ thống thế giới quan và hai phương pháp triết học đối lập
6


nhau, theo sự phân tuyến đơn giản: tốt – xấu, đúng – sai, khoa học – phản khoa
học. Lý luận khoa học chân chính khơng nhìn vấn đề mợt chiều như thế, mà cố
gắng làm sáng tỏ bức tranh đa dạng và phức tạp của sự phát triển tư duy triết học,
từ đó rút ra tính quy luật của nó.
Triết học là giá trị văn hóa tinh thần cô đọng nhất, tinh tuý nhất, là thời đại
lịch sử hiện thực được tái hiện dưới hình thức tư tưởng, trong hệ thống các vấn đề
triết học. C.Mác (K.Marx) viết trong “Bài xã luận báo “Kolnische Zeitung số
179”: … Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại
mình”1. Vậy thế nào là “triết học chân chính”? Đó là triết học được sinh ra, chịu
sự quy định bởi những điều kiện lịch sử – xã hội của thời đại mình, cùng với các
học thuyết, các tư tưởng khác làm nên diện mạo tinh thần của thời đại, đóng góp
vào giá trị chung của nhân loại. Mác lại viết: “Các triết gia không mọc lên như
nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dịng
sửa tinh tế nhất, q giá và vơ hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết
học”2.
Ngay từ các bài viết đầu tiên trong thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng, C.Mác đã
nhấn mạnh sự thống nhất của hai cách tiếp cận đối với di sản của quá khứ: một
mặt cần tuân thủ nguyên tắc tính đảng trong triết học, căn cứ vào việc giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học, chỉ ra rằng cuộc tranh luận về thế giới quan tạo nên
động lực cơ bản của sự phát sinh, phát triển, sự đan xen, thay thế nhau của các
học thuyết triết học. Mặt khác, mỗi học thuyết, tư tưởng, trào lưu, khuynh hướng
triết học bên cạnh việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học bằng cách trực tiếp
hay ẩn mình trong các luận giải về con người, xã hội, ngôn ngữ… đều được thừa

nhận như “tinh hoa về mặt tinh thần” của mỗi thời đại, góp phần vào sự hoàn
thiện nhân cách và tri thức con người trong thời đại ấy. Platôn (Plato, Platon),
Arixtốt (Aristotle, Aristoteles), Lépních (Leibniz), Cantơ (Kant), Hêghen (Hegel)
là những nhà duy tâm, nhưng đồng thời là những bộ óc lớn, những chân dung văn
hóa của thời đại mình. Chúng ta phê phán mợt cách xác đáng chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán của Makhơ (Mach), nhưng cũng lưu ý rằng ông là nhà bác học
lừng danh của thế kỷ XIX, một trong những người thầy của Einstein.
Tương tự như vậy đối với cách đánh giá tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Kytơ
giáo. Mác từng khẳng định “khơng có đảng phái thì khơng có sự phát triển”3,
nhưng cũng chỉ rõ: “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và
Arixtốt đã mở đầu mà thơi”4 .
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, t.1, Nxb. Chính trị q́c gia, HN,1995, tr. 157
C. Mác và Ph. Ăngghen, sđd, tr. 156.
3
Sđd, tr. 167.
4
Sđd, tr.166.
2

7


Nhân đọc Xôcrát (Socrates) V.I.Lênin viết trong “Bút ký triết học”, “Chủ
nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa
duy vật ngu xuẩn”1. “Chủ nghĩa duy tâm thông minh” của Xôcrát, Platon, Hêghen
dù có những hạn chế ở phương diện thế giới quan, song đã để lại nhiều tư tưởng
có giá trị cho nhân loại ở những khía cạnh khác. V.I.Lênin từng phê phán những
toan tính xem xét chủ nghĩa Mác bên ngoài văn hoá nhân loại.

Cần phân tích một cách phân minh, rõ ràng những đóng góp và những hạn
chế mang tính lịch sử của các học thuyết triết học. Ngược lại, sự mơ hồ, lẫn lộn,
sự đánh giá thái quá, theo hướng “tả khuynh” lẫn “hữu khuynh” đối với các học
thuyết triết học, hoặc chủ trương “triết lý cái búa” trong sự đánh giá lịch sử, hoặc
coi các nhận định trong lịch sử tư tưởng đều là những chân lý tuyệt đỉnh, “dành
cho mọi thời đại và mọi dân tộc”, là trái với bản chất của triết học, và đều đáng bị
phê phán như nhau. Ph.Ăngghen (F. Engels) đã phê phán trường hợp tương tự ở vị
giáo sư cơ học Đuyrinh (Duhring) trong tác phẩm Chống Đuyrinh2.
Phân tích cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng cơ bản trong triết học
không chỉ nhằm làm sáng tỏ tính quy luật trong sự phát triển của tri thức triết học,
mà còn chứng minh rằng sự phản biện lẫn nhau giữa các khuynh hướng ấy là tất
yếu, góp phần vào sự phát triển chung của tư tưởng triết học. Bài học Trung cổ
Tây Âu, mà nhiều nhà tư tưởng xem như “đêm trường Trung cổ”, là ở chỗ, một
khi triết học chịu sự chế ngự vô điều kiện của uy quyền, của tín điều, không cần
đến hệ thớng phản biện xã hợi, thì nó cũng tự tun bớ mình như mợt thứ “giáo
điều triết học”, một thứ thần học bán chính thức, hay tệ hại hơn, một thứ nô lệ của
“thần học vạn năng”.
Ngoài việc thừa nhận tính quy định (chế định) lịch sử - xã hội đối với các
học thuyết triết học, cần vạch ra những quy luật cơ bản trong quá trình vận động
của tri thức triết học
2. K. Marx, F. Engels, V.I. Lenin, Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự thể
hiện tính biện chứng và “có văn hóa” trong việc đánh giá lịch sử triết học
(gợi ý phân tích)
+ Marx và Engels: đánh giá toàn bộ lịch sử triết học từ thế giới quan và
phương pháp luận của CNDVBC, vạch ra những đóng góp của các triết gia từ cổ
đại đến thời đại mình, làm rõ “hạt nhân hợp lý” trong các học thuyết, không hề
đối lập một cách máy móc, siêu hình các trường phái (khoa học >< phản khoa
học, tiến bộ >< bảo thủ, cách mạng >< phản động v.v..), vạch ra những hạn chế có
1
2


V.I.Lênin, Toàn tập, t.29, Tiến bộ, M, 1981, tr. 293.
Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, t.20, Nxb. Chính trị q́c gia, HN, 1994, tr. 124.

8


tính lịch sử của các trường phái, học thuyết, triết gia (nhưng không áp đặt điều
kiện hiện tại cho quá khứ). Ehgels cịn chỉ rõ, CNDVBC khơng có tham vọng
đứng trên mọi khoa học  cách hiểu mới không chỉ về quan hệ giữa CNDVBC
với các trường phái, học thuyết trước Marx, mà cả về quan hệ với các khoa học cụ
thể, chuyên biệt…Dẫn chứng trong một số t/p của M và E, từ Bản thảo…1844,
Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức đến các tp thời kỳ cuối của Engels (Chống
Duhring, L.Feuerbach và sự cáo chung…).
+ V.I.Lenin: tinh đảng và tính khoa học, thái độ đúng mực và khách qua đối
với lịch sử triết học (từ Những “người bạn dân”… đến CNDV và CNKNPP, Bút
ký triết học…)
+ Hồ Chí Minh: nhà triết học mácxít, nhà văn hóa lớn. Không chỉ vận dụng
sáng tạo CN M-L vào VN, mà còn phát triển nó “bằng dân tộc học phương
Đông”, nghĩa là bằng sự hiểu biết con người, văn hóa, tâm lý, tư duy phương
Đông (vđ “khúc xạ” văn hóa), tự nhận là học trị của “các vị ấy” (Phật tổ, Khơng
Tử, Jesus, Marx, Lenin, Tôn Dật Tiên), tỏ thái độ đúng đắn, “có văn hóa” đối với
Russell và Sartre – những đại diện lớn của hai khuynh hướng cơ bản trong triết
học phương Tây ngoài mácxít thế kỷ XX.
CHƯƠNG I
TRIẾT HỌC HY LẠP - LA MÃ CỔ ĐẠI (thế kỷ VI TCN - thế kỷ V)
I. Sự ra đời và các thời kỳ của triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại
1. Sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
a) Điều kiện kinh tế, xã hội dẫn đến sự ra đời triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp và La Mã đại diện cho thế giới phương Tây cổ đại, trong đó Hy Lạp

là chiếc nôi của văn minh phương Tây. Lãnh thổ Hy Lạp xưa kia rộng lớn hơn so
với hiện nay gấp nhiều lần, bao gồm phần đất liền cùng vơ sớ hịn đảo trên biển
Egiê, vùng duyên hải Bancăng và Tiểu Á. Từ cuộc di thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII
- VI TCN, người Hy Lạp chiếm thêm miền nam Ý, đảo Xixin, vùng ven biển Đen,
lập nên Đại Hy Lạp. Những cuộc viễn chinh toàn thắng của Alếchxăngđơ xứ
Maxêđoan vào cuối thế kỷ IV TCN đã đưa đến sự ra đời các quồc gia Hy Lạp hóa
trải rộng từ Xixin ở phía Tây sang An Độ ở phía Đông, từ biển Đen ở phía Bắc
đến khu vực tiếp giáp sông Nin ở phía Nam. Tuy nhiên trung tâm của Hy lạp cổ
đại, trải qua bao thăng trầm, vẫn là vùng biển Egiê, nơi nhà nước và nền văn hóa
Hy Lạp đạt tời sự phồn thịnh cao nhất của mình. Nơi đây những nền móng đầu
tiên của tri thức khoa học và triết học đã hình thành từ rất sớm.
Vào thời đại Hơme (thế kỷ XI - IX TCN) ở Hy Lạp đã chớm bắt đầu quá
trình tan rã của cơng xã thị tộc, được thúc đẩy bởi sự phân công lao động, diễn ra
9


trong nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi. “Pôlít” (Polis), khái niệm dùng để
xác định nhà nước đặc trưng của người Hy Lạp dưới hình thức các thị q́c (thành
bang), vào thời Hôme chỉ là những cụm dân cư, tương đối độc lập, có thành lũy
bao bọc xung quanh. Song sự phân hóa xã hội cũng đã bắt đầu và ngày càng trở
nên gay gắt. Bước sang thế kỷ VIII TCN kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục
phát triển với nhịp độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nơng và tiến những bước
đáng kể. Hình thức tổ chức quyền lực mang tính nhà nước đã xuất hiện, thúc đẩy
kinh tế phát triển, nhưng cũng tạo nên sự phân hóa sâu sắc trong đời sống xã hội.
Sự hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình vượt biển tìm đất mới, dẫn đến
những c̣c di thực ồ ạt, xâm chiếm các khu vực làng giềng, bắt người làm nô lệ.
Tóm lại, sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của
nền kinh tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các lực lượng xã
hội, sự thôn tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế độ công xã thị
tộc, là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến chỗ suy vong, và bị

thay thế bởi một thiết chế xã hội mới, phù hợp với những quan hệ xã hội mới. Nói
cách khác, nhà nước đã ra đời như một tất yếu trên con đướng phát triển lịch sử
của nhân loại. Ph. Ăngghen viết:”Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát
triển tới một giai đoạn nhất định”1.
Cùng với sự hình thành các thị q́c, nền văn hóa mới cũng được xác lập, trở
thành bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện chủ
yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về nhân
cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực của con người trong cuộc
đấu tranh với tự nhiên, tinh thàn ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù đạo
đức - chính trị cao qúy nhất…Sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy lạp là sự
kế thừa các giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần
thoại và các hình thức sinh hoạt tơn giáo, trong những mầm mống của tri thức
khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành tố không tách
rời của nền văn hóa mới ấy.
Như vậy, sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm
hữu nô lệ diễn ra cùng với những biến đổi chăn bản trong ý thức, trước hết là nhu
cầu lý giải nghiêm túc những vấn đề tự nhiên, xã hội. Triết học ra đời theo
Arixtốt, làm cho sự ngạc nhiên trước thế giới rộng lớn và bí hiểm được giải quyết
bằng những nỗ lực của lý trí truy tìm nguyên nhân đích thực của vạn vật. Theo sử
liệu học Pitago (570 - 496 TCN), hoặc có thể Hêraclít (khoảng 544 - khoảng 483
TCN),là người đầu tiên tự gọi mình là philosophos, sau đó xuất hiện thuật ngữ
philosophia, dịch thành triết học, mặc dù Talét (khoảng 624-547 TCN) mới là triết
gia đầu tiên của Hy Lạp. Như vậy “Philosophia” (philo - yêu mến, sophia - sự
thông thái) biểu thị khát vọng của con người vươn tới hiểu biết thực sự về mối
quan hệ giữa con người với thế giới và với chính mình, vượt qua ảnh hưởng của
tư duy huyền thọai, đi vào chiều sâu nhận thức thông qua khái niệm ngày càng đạt
được tính trừu tượng hóa cao.
b) Con đường từ tư duy biểu tượng đến tư duy khái niệm, hay tiền đề tinh
1


C. Mác và Ph. Ăngghen, tồn tập, t. 21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 252

10


thần của triết học
Ngạc nhiên làm nảy sinh triết lý, triết lý của con người về thế giới ở buổi đầu
lịch sử thể hiện trong huyền thoại, nhất là trong các câu chuyện thần thoại và sinh
hoạt tín ngưỡng nguyên thuỷ. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang
tưởng, của con người với thế giới xung quanh.
Thần thoại (xuất phát từ tiếng Hy Lạp mythologia, trong đó mythos là câu
chuyện, truyền thuyết, logos là lời nói, học thuyết) là hình thức tư duy phổ biến
của người nguyên thủy, cùng với thuyết nhân hình, vật linh thuyết, vật hoạt
ḷn…Trong thần thoại các ́u tớ tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật,
tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và tưởng tượng, tự nhiên
và siêu nhiên cịn chưa bị phân đơi. . Tuy nhiên tư duy huyền thoại cũng trải qua
những bước phát triển nhất định, thể hiện sự phát triển của ý thức. Có thể nhận
thấy điều này trong thần thoại Hy Lạp. Đỉnh cao của thần thoại cũng cũng đồng
thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình thức thế giới
quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc hơn của con
người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme (thế kỷ XI - IX TCN) với việc xóa
bỏ dần hố sâu ngăn cách giữa thần và người, nêu ra các ý tưởng sơ khởi về hỗn
mang, về các hành chất, về nguồn gốc thế giới, và cả những thơng điệp của con
người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu hướng này được tiếp tục ở
Hêsiốt. Trong “Thần hệ” của Hêsiốt các trạng thái vũ trụ được mô tả thông qua
các thế hệ thần linh, từ Hỗn mang đến thần Dớt - biểu tượng của trật tự, ánh sáng
và sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng Prômêtê lấy trộm lửa của thần
Dớt đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa sâu xa: lửa - biểu tượng của sức
mạnh và lý trí - khơng cịn là đặc qùn của thần linh như trước, mà đã cố hữu nơi
con người. Con người trở nên tự chủ hơn trong quan hệ với thế giới xung quanh.

Vào khoảng cuối thế kỷ VII - đầu thế kỷ VI TCN, các thị quốc bước vào thời
kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và sự ra đời
đồng tiền kim khí đã tạo nên những biến đổi lớn trong các lĩnh vực của đời sớng
xã hợi. Ở bình diện văn hóa tinh thần “bảy nhà thông thái” xuất hiện, mở đường
cho một nền triết học thực sự. Trong số họ Talét được Arixtốt gọi là nhà triết học
đầu tiên của thế giới phương Tây.
Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hêghen, là con đường đi từ lý
tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thơng qua biểu tượng
đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm (G. W. F. Hêghen,toàn tập, t. IX, Moskva,
1934, tr. 14). Triết học ra đời không có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại
trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, nhưng được xem xét ở bình diện khác bình diện giá trị. Đằng sau những câu chuyện thần thoại là cả một triết lý sống,
thể hiện những chuẩn mực, những giá trị, những bài học đạo đức, nhân văn.
c) Ảnh hưởng của văn hố phương Đơng đến sự hình thành tư duy triết học
và khoa học Hy Lạp
Trong quá trình xây dựng các học thuyết triết học và khoa học người Hy Lạp
kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc phương Đơng, vớn
hình thành sớm hơn, đồng thời tạo cho mình một phong cách và sắc thái tư duy
11


độc đáo, tạo nên truyền thống đặc trưng được tiềp tục bổ sung, phát triển ở các
thời đại sau.
Thông qua những chún vượt biển tìm đất mới, quan hệ bn bán, giao lưu,
người Hy Lạp tiếp thu chữ viết, thành quả khoa học, và cả yếu tố huyền học
(occultism) ở các nền văn minh phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đơng và
Bắc Phi. Chữ viết tượng hình x́t hiện tại Ai Cập, Mesopotamie và một số dân
tộc khác từ khoảng 2700 TCN. Đến thế kỷ VIII TCN người Phenicie, sau đó
người Hy Lạp tiếp thu, cải biến và hoàn thiện thêm. Các lĩnh vực tri thức ở
phương Đông như toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp,
các mầm mống của y học, các khoa học về sự sống đáp ứng phần nào khát vọng

khám phá của người Hy Lạp, do đó được họ đón nhận mợt cách nhiệt tình, thúc
đẩy quá trình hình thành những phác thảo đầu tiên về thế giới quan vào thế kỷ VII
- VI TCN. . Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp đều có kiến thức khoa học
vững vàng nhờ thường xuyên giao lưu với phương Đông dưới các hình thức khác
nhau. Người Ai Cập tính được sớ pi, diện tích hình tam giác, hình chữ nhật,, hình
thang, hình bình hành, hình trịn. Hệ thớng lịch pháp được xác lập vào đầu thiên
niên kỷ II TCN. Từ phát minh của người Ai Cập ra cách tính thời gian mợt năm
(365 + ¼ ngày đêm) sớm nhất thế giới, Babylon hoàn thiện thêm một bước về
tháng bổ sung, để đưa năm âm lịch (12 tháng với 354,36 ngày đêm) đến gần với
năm dương lịch (365,24 ngày đêm). Cách tính giời hiện nay cũng cũng xuất phát
từ cách tính của Babylon. Tuy nhiên, dù đi trước Hy Lạp ở trình đợ phát triển,
song tại các nước phương Đơng láng giềng triết học đúng nghĩa vẫn chưa xuất
hiện. Ở phương diện lý luận tại Ai Cập và Babylon các yếu tố huyền học và thuật
chiêm tinh đan xen với các mầm mống của triết lý vũ trụ, nhân sinh, nhưng mặt
thứ hai này còn khá mờ nhạt, bị lấn át bởi cách tiếp cận nhân hình hóa. Tại
Babylon chiêm tinh chiếm vị trí cao trong thang bậc tinh thần, nhà chiêm tinh
được tham dự vào cả công việc triều chính, giúp nhà vua vạch ra các kế hoạch đối
nội, đối ngoại, tiến cử nhân sự. Tại Ai Cập, những pho tượng khổng lồ đầu người
mình thú, đặt bên cạnh những kim tự tháp uy nghi, tráng lệ, cho thấy người Ai
Cập quan tâm đến thế giới “bên kia” vĩnh cửu. Với thời gian, trong tư duy của
người Ai Cập xuất hiện một số cách ngôn chứa đựng các yếu của chủ nghĩa hoài
nghi, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa khắc kỷ cổ sơ, như “Tôi là tôi”, “Đã vào cõi tử
làm sao trở về”, “Đừng uổng phí thời gian”. Những cách ngôn đó bị xã hội xem là
báng bổ thế giới thiêng liêng. Tại Babylon, sau thời kỳ hưng thịnh, những đô thị
giàu có và sa đoạ bắt đầu suy vong, và sau cùng lùi về dĩ vãng. Sự kiện Babylon
sa đoạ và sụp đổ đã được nêu ra trong Kinh Thánh Kytô giáo.
Các yếu tố huyền học, khi được du nhập vào Hy Lạp, chúng vẫn phải đóng
vai trò giá đỡ cho tinh thần phóng khoáng, tự do của người Hy Lạp. Liên minh
Pitago là mợt điển hình. Ở đó các yếu tố duy tâm, tôn giáo, vốn được tiếp thu từ
phương Đông, không che khuất các yếu tố khoa học, duy lý. Có thể khẳng định

rằng, dù đi sau phương Đông về văn minh, nhưng Hy Lạp không đơn giản làm
công việc của người kế thừa. Ngược lại, sự hình thành và phát triển của triết học
Hy Lạp là kết quả phát triển nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện sinh động
trong huyền thoại, trong văn hóa, trong tín ngưỡng nguyên thủy, chịu sự chi phối
12


của các điều kiện kinh tế và xã hội. Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc các giá trị
văn hóa tinh thần phương Đông, người Hy Lạp tạo nên phong cách tư duy đặc
trưng của mình, trở thành cái nôi của triết học và khoa học phương Tây. Vào năm
525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm chiếm. Ach thống trị của Ba Tư đã đẩy văn minh
Ai Cập, cũng như Babylon trước đó, lùi về phía sau, nhưng ngọn lửa trí tuệ đã
được nhen nhóm lên và rực sáng ở một vùng đất khác.
2. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại
Triết học Hy Lạp - La Mã trải qua ba chặng đường lớn, phản ánh sự hình
thành, phát triển, khủng hoảng và sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Triết học thời sơ khai, cịn gọi là thời kỳ Tiền Xơcơrát, gắn với sự ra đời các
trường phái triết học đầu tiên tại Hy Lạp (thế kỷ VI - V TCN). Đây là thời kỳ đầu
của chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết học thay thế tư duy hùn thoại, mong ḿn
tìm kiếm lời giải đáp nghiêm túc, hợp lý cho những vấn đề của tồn tại và nhận
thức. Phần lớn các triết gia được gọi là các nhà triết học tự nhiên, vì họ quan tâm
chủ yếu đến tự nhiên, tìn hiểu bản nguyên và bản chất thế giới, nhằm giải đáp hai
câu hỏi lớn: thế giới bắt đầu từ đâu và hướng về đâu (hay quay trở về đâu)? Thế
giới có trải qua quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong hay khơng?Thế giới
quan triết học cịn ở trình độ chất phác, sơ khai, nhưng đã mang tính phân cực rõ
ràng. Chủ nghĩa duy vật, chủ yếu tập trung trong trường phái Milê và Hêraclít,
đồng nhất bản nguyên thế giới với các yếu tố vật chất cụ thể (nước, khí, lửa, đất),
hoặc giả định (apâyrôn), và chiếm vị thế áp đảo trước khuynh hướng duy tâm,
thần bí. Tính biện chứng tự phát, bẩm sinh thể hiện một cách sinh động qua cuộc
tranh luận giữa Hêraclít và trường phái Elê. Bên cạnh đó vấn đề nhận thức luận,

nguồn gốc sự sống cũng được đặt ra. Thời kỳ khai nguyên triết học là thời kỳ hình
thành trong dạng phơi thai những khuynh hướng và những phương pháp tư duy cơ
bản nhất.
Triết học thời cực thịnh (thế kỷ V - thế kỷ IV TCN), cịn gọi là thời kỳ
Xơcrát, gắn với những bước thăng trầm của nền dân chủ chủ nô (dân chủ theo từ
nguyên Hy Lạp là demokratia, là sự giản lược của demos + kratos, trong đó
demos là nhân dân, kratos là quyền lực, hiểu chung thành “quyền lực của nhân
dân”). Vào thời kỳ này cùng với các vấn đề bản thể luận và vũ trụ luận, các nhà
triết học tìm hiểu nhận thức luận và vấn đề nhân sinh, xã hội. Các nhà biện thuyết,
do Prôtago đừng đầu, là những người đầu tiên mở ra hướng đi mới cho triết học
phương Tây cổ đại, chuyển sự quan tâm từ tự nhiên sang con người và năng lực
nhận thức của nó thông qua tuyên bố “Con người - thước đo của vạn vật”. Song
bước ngoặt thực sự trong triết học gắn với tên tuổi của Xôcrát, vốn xuất phát từ
phái Biện thuyết. Quy chức năng của triết học về đạo đức học, hiểu như “phương
tiện dạy con người sống”, Xôcơrát đã góp phần làm cho triết học vượt qua sự bế
tắc, đi sâu vào những vấn đề nhân sinh, xã hội. Con người giờ đây không chỉ là
chủ thể, mà cịn trở thành đới tượng, thành điểm x́t phát và mục đích của các tư
tưởng triết học. “Bước ngoặt Xôcơrát” cũng đánh dấu sự thay thế “triết học tự
nhiên”, chủ nghĩa duy vật, bằng chủ nghĩa duy tâm, mà Platôn là người hệ thống
hóa nó.
13


Sau Xôcơrát, triết học Hy Lạp một mặt vẫn tiếp tục các đề tài truyền thống,
mặt khác dành nhiều tâm huyết lý giải những vấn đề liên quan đến vị trí và số
phận con người, ý nghĩa của cuộc sống, khả năng và phương pháp nhận thức, tiến
trình lịch sử, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Đây là thời kỳ
phát triển rực rỡ nhất của triết học Hy Lạp, thời kỳ sản sinh ra những tên tuổi lớn,
làm rạng danh nền văn hóa phương Tây cổ đại.
Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn, hay thời kỳ Hy Lạp La Mã, bắt đầu từ thế kỷ III TCN đến thề kỷ V CN. Thời kỳ Hy Lạp hóa được bắt

đầu từ khi Alécxanđơ xứ Maxêđoan thông qua các cuộc viễn chinh đã phổ biến
Ảnh hưởng của Hy Lạp ở phương diện chính trị lẫn văn hóa đến các nước trong
vùng. Tinh thần Hy Lạp hoá đó vẫn tiếp tục lan truyền ngay cả khi Hy Lạp bị mất
chủ quyền về tay La Mã (khoảng 143 TCN). La Mã đô hộ Hy Lạp về quân sự và
chính trị, nhưng về văn hóa Hy Lạp đã Ảnh hưởng một cách tích cực đến La Mã
và toàn bộ đế chế La Mã. Những thành tựu văn hóa, khoa học của Hy Lạp được
dịp phổ biến rộng rãi, từ từ khu vực Địa Trung hải đến Bắc Phi và vùng Trung
Cận Đông; tiếng Hy Lạp được sử dụng chính thức. Nét đặc trưng của triết học
thời kỳ hậu Hy Lạp là bên cạnh những vấn đề phổ quát, siêu hình, các triết gia chú
trọng nhiều hơn đến thế giới nội tâm của cá nhân, tìm kiếm phương thức giải
thóat khỏi những vướng bận của đời thường, hoặc chủ trương đối thoại giữa con
người với vũ trụ, thần linh. Trừ phái Êpiquya, phần lớn các nhà triết học thời kỳ
Hy Lạp hóa là những người đề cao vai trị của thần trong đời sớng tâm linh của
con người.
Sự khủng hoảng của tư tưởng triết học Hy Lạp - La Mã xuất phát từ bản
chất của chế độ chiếm hữu nô lệ, khi một bộ phận quần chúng đông đảo trong xã
hội bị tướt bỏ quyền làm người, đưa đến những xung đột gay gắt, những cuộc
khởi nghĩa của nô lệ và những cuộc chiến tranh triền miên. Sự ra đời và phát
triển nhanh chóng của Kytô giáo (Christianity, Christianisme), với tư cách là tôn
giáo nhất thần, thay thế tôn giáo đa thần, với thuyết giáo và biểu tượng mới,
cũng góp phần báo trước cái chết tất yếu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Ở buổi
đầu lịch sử Kytô giáo là tôn giáo của quần chúng bị áp bức, chống lại ách thống
trị của đế chế La Mã bằng hình thức ơn hịa, tun trùn cho lới sớng dân chủ,
bình đẳng, khơng phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, nam nữ, trở thành chỗ dựa,
hay liệu pháp tâm lý, tinh thần của nô lệ và người nghèo. Sau hai thế kỷ bị đàn
áp, năm 324 Kytô giáo được công nhận là quốc giáo. Từ thời điểm này, nó trở
thành một định chế vững vàng trong xã hội đang đi vào qũy đạo của chế độ
phong kiến. Năm 476 Tây bộ đế quốc La Mã bị sụp đổ do những mâu thuẫn bên
trong và sự tấn công của các sắc tộc “man di”từ phương Bắc. Năm 529 trường
phái Platôn tại Aten chính thức bị đóng cửa, chấm dứt một thiên niên kỷ tồn tại

và phát triển của triết học cổ đại Hy Lạp - La Mã, triết học của xã hội chiếm hữu
nô lệ. Phong cách tư duy Hy Lạp - La Mã được thay thế bằng phong cách tư duy
dựa vào một hệ quy chiếu duy nhất, chịu sự chi phới của Kinh Thánh ở bình
diện thế giới quan, nhận thức luận và nhân sinh - xã hội. Triết học Kytô giáo
chiếm vị trí độc tôn trong sinh hoạt tư tưởng, tinh thần, thủ tiêu đa nguyên triết
lý, vốn là đặc trưng của tư duy cổ đại.
14


II. Triết học thời sơ khai
1. Triết học tự nhiên của trường phái Milê
Cuộc tranh luận đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại xoay quanh vấn đề “thế
giới bắt đầu từ đâu và hướng (quay) về đâu?”, nói cách khác, đó là cuộc tranh
luận về bản nguyên thế giới, tức cơ sở ban đầu, căn nguyên phát sinh mọi sự vật,
hiện tượng, hay nói như Talét, là cái mà từ đó mọi thứ sinh ra và trở về. Đi tìm
“cái ban đầu”, viên gạch đầu tiên xây nên tòa lâu đài vũ trụ, đã tạo nên các cách lý
giải khác nhau về bản nguyên thế giới. Tinh thần tranh luận quyết liệt ngay trong
vấn đề đầu tiên này đã cho thấy khát vọng khám phá và chinh phục thế giới của
người Hy Lạp, tiêu biểu cho phong cách tư duy phương Tây trong lịch sử phát
triển của nó. Sự vượt qua và điều chỉnh nhau giữa các triết gia, xét cho cùng, cũng
chỉ nhằm biểu thị giới hạn và triển vọng hiểu biết của con người.
Milê là tên một thị quốc phồn thịnh bậc nhất của Hy Lạp cổ đại, thuộc xứ
Iôni, miền Tiểu Á. Người sáng lập trường phái Milê là nhà toán học, nhà thiên văn
học, nhà triết học đầu tiên của Hy lạp làTalét (khoảng 624 - 547 TCN). Trong toán
học, bằng việc phát minh nhiều định lý cơ bản của hình học, sớ học, nghĩa là bằng
việc sử dụng những công thức trừu tượng, Talét đã đặt cơ sở cho sự ra đời toán
học lý thuyết. Trong thiên văn và vật lý Talét có nhiều phát hiện độc đáo về hiện
tượng nhật thực, nguyệt thực, thủy triều, tiết phân, hạ chí, mặc dù còn mang tính
chất ngây thơ. Trong triết học, Talét thuộc thế hệ đầu tiên xem xét bản nguyên ở
dạng hành chất. Ông nói về nước như một cái phổ quát, tuyệt đối, như cơ sở của

sinh thành và cả chuyển hóa nữa, mặc dù ý tuởng về chuyển hóa chỉ xuất hiện
dưới dạng phôi thai. Tất cả chỉ là biến thái của nước. Trái đất như cái đĩa dẹt trôi
bồng bềnh trên nước, được bao quanh bởi nước, các đại dương, và chia thành 5
vùng (bắc, hạ chí, xuân phân, đông chí, cực nam). Sự giải thích bản nguyên thế
giới từ chính những yếu tố vật chất của thế giới về căn bản đưa đến sự kết thúc
vai trị thớng trị của thần thoại trong ý thức con người. Lý trí thay thế thần Dớt,
giới tự nhiên dần dần cởi bỏ lớp vỏ siêu nhiên. Tuy nhiên bản thân Talét chưa thể
chấm dứt ngay những ràng buộc với tư duy huyền thoại. Ơng sử dụng các ́u tớ
vật linh thút, vật hoạt luận làm chỗ dựa cho quan điểm của mình, như điều kiện
cần thiết để dung hòa với thói quen truyền thống. Đặc tính vật lý của nước được
nâng lên cấp độ thần linh. Thế giới chứa đầy thần linh. Nước và tất cả những gì
phát sinh từ nước đều có linh hồn, có thần tính. Mặt trời làm cho nước bớc hơi thì
được Talét giải thích mợt cách ngây thơ, mộc mạc rằng Mặt trời cần nước để tồn
tại ! Nhưng khi có người hỏi “nước do đâu mà có ?”, thì sự chơng chênh trong lý
lẽ của Talét bộc lộ ngay.
Đại biểu thứ hai của trường phái Milêlà Anaximăngđơ (khoảng 610 - 546
TCN). Bản nguyên bây giờ không còn là nước, mà là cái có ý nghĩa phổ quát hơn.
Theo Anaximăngđơ, để truy tìm bản nguyên sâu xa nhất, ngun nhân của các
ngun nhân, thì khơng thể dừng lại ở những hành chất cụ thể được. Nước, hay
một cái gì khác cụ thể, khơng phải là ngun nhân, mà là kết quả của mợt quá
trình sinh thành trong vũ trụ. Cái xác định là kết quả của những gì chưa xác định
mà thành. Nó vơ cùng, vơ tận, không chịu sự chi phối của những điều kiện không
15


- thời gian, vĩnh viễn, và không xác định được; trong sự tự do đó nó hợp nhất mọi
thứ để tạo nên những cái cụ thể mà ta biết, hoặc cảm nhận. Cái không xác định
(apâyrôn) của Anaximăngđơ là nỗ lực vươn đến quan điểm thực thể về bản
nguyên: vượt qua cái cụ thể cảm tính để suy tưởng về một căn nguyên có tính trừu
tượng. Tất cả các đặc tính của Apâyrôn được quy về một đặc tính chủ yếu là vận

động. Sự vận động của thực thể apâyrôn quyết định quá trình hình thành của vũ
trụ và con người. Khi vận đợng theo vịng xoáy lớc, apâyrơn tạo nên những cực
đối kháng - ẩm và khô, lạnh và nóng. Kết hợp theo từng cặp những tính chất ấy sẽ
dẫn đến hình thành đất (khơ và lạnh), nước (ẩm và lạnh), khí (ẩm và nóng) và lửa
(khô và nóng). Từ trung tâm, những kết cấu vật chất dần dần được xác định. Dưới
tác động của lửa một phần nước bớc hơi, cịn đất thì tụ lại giữa đại dương. Trái đất
đã hình thành như vậy. Bầu trời phân chia ra ba vòng, do khí bao quanh, tương tự
như ba vành bánh xe rỗng, được bơm đầy lửa. Vành dưới nhiều lỗ hổng, chứa lửa,
là các vì sao. Vành giữa một lỗ hổng, là Mặt trăng. Vành trên cùng một lỗ hổng, là
Mặt trời. Theo Anaximăngđơ, sự sớng hình thành trước tiên ở đại dương, sau đó
tiến dần lên cạn. Con người có thể chất yếu đuối nên sinh ra và phát triển trong
bụng một loài cá khổng lồ. Chỉ khi trưởng thành loài người mới lên đất liền và
sống độc lập. Đó là quan niệm ngây thơ về nguồn gốc sự sống, song trong cái vẻ
nghèo nàn, trừu tượng này đã thể hiện những đột phá táo bạo về thế giới quan,:
lần đầu tiên trong triết học cổ đại Hy Lạp Anaximăngđơ đã cố gắng giải thích thế
giới từ nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận, đưa ra tư
tưởng biện chứng tự phát về tính phổ biến của vận động, biến đổi, sự thớng nhất
các mặt đới lập, về quá trình thành sự sống từ thế giới vô cơ, con người từ loài
vật.
Anaximen (588 - 525 TCN), nhân vật thứ ba của trường phái Milet, tìm cách
dung hịa hai bậc tiền bới, nhưng bác bỏ sự lựa chọn của họ. Bản nguyên thế giới
phải là cái xác định, chứ không phải vô định, bởi lẽ tịa lâu đài vũ trụ khơng thể tự
nhiên mà sinh thành với toàn bộ diện mạo của nó (bác bỏ Anaximandros). Tuy
nhiên với tính cách là cơ sở của mọi sự sinh thành, phát triển, diệt vong, của mọi
trạng thái sự vật, bản nguyên phải là cái năng động và biến hóa, cái ta không thấy,
mà cảm nhận sự hiện hữu khắp nơi của nó, đóng vai trị hàng đầu của sự sớng,
như nước, mà biến hóa hơn nước. Đó là apâyrốt, tạm hiểu là “khí”, mà theo
Anaximen, cịn tỏ ra bao quát hơn cả apâyrơn, cái chỉ đáng xem như thuộc tính
của nó. Chính ở apâyrốt diễn ra quá trình “tán” và “tụ” thường xuyên, để có được
mợt thế giới sớng đợng và hài hịa. Khi tán khí hóa thành lửa, rồi sau thành cái

vầng sáng tinh khiết nhất - ête (aither); lúc tụ apeiros biến thành gió, mây, nước,
đất và đá, tùy thuộc vào mức đợ tụ của nó. Sự tán gắn với quá trình đớt nóng, sự
tụ - quá trình lạnh đi. Khơng chỉ là bản ngun thế giới, khí cịn là nguồn gớc sự
sống và các hiện tượng tâm lý. Linh hồn là sự thở, khí của linh hồn và khí của thế
giới vật chất thống nhất với nhau. Thần linh cũng xuất hiện từ khí. Như vậy khí
của Anaximen vừa là yếu tố vật lý (không khí), vừa là yếu tố tâm linh (sinh khí).
Cả Talét, Anaximăngđơ và Anaximen đều là những nhà “vật lý”, vì họ xác
định nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu những vấn đề của vũ trụ, tự nhiên. Bên cạnh
đó, họ còn đưa vào triết học của mình những ́u tớ của hùn học, mợt phần kế
16


thừa từ thế giới quan huyền thoại trước đó, phần khác du nhập từ các nước
phương Đông láng giềng. Nước được nâng lên cấp độ “nước thần”, là biểu tượng
của sự nhất trí và hịa hợp; apâyrơn là ngun lý sinh hóa của vạn vật; apâyrốt
không chỉ là yếu tố vật lý, mà cịn biểu thị sức sớng năng đợng của vũ trụ và con
người; quan niệm về ngày tận thếlà sự vận dụng luật bù trừ trong thiên nhiên để
giải thích quy luật chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng; kiếp người thường được
liên tưởng đến kiếp của muôn loài: có sinh có diệt, tội ác phải đền bằng cái chết.
Đó là điều bình thường trong điều kiện tư duy triết học vừa thoát ra khỏi thế giới
quan huyền thoại, cần sử dụng những yếu tố của quá khứ, nhưng đang còn phổ
biến trong ý thức đại chúng, như giá đỡ cho sự thể hiện cái mới, cái hiện là cá
biệt, song với thời gian sẽ chuyển hóa thành cái phổ biến.
2. Trường phái, hay liên minh Pitago
Nước ở Talét không đơn giản là yếu tố vật lý, mà cịn là ́u tớ thần linh
(“nước thiêng”, nước “thần”). Đối với ông tất cả sự vật đều sống động, có thần
tính. Vật hoạt luận (Hylozoism, kết từ “hyle” - sự vật, và “zoe” - sự sống, học
thuyết chủ trương tất cả các sự vật đều sống động, có linh hồn, hay thần tính) ẩn
náu trong chủ nghĩa duy vật chất phác là đặc điểm của triết học Talét. Apâyrốt
(apeiros) của Anaximen khơng chỉ là “khơng khí”, mà cịn là “khí”, “sinh khí’

cuộc sống. Như vậy ngay trong các học thuyết được gọi là duy vật thì những mầm
mống của chủ nghĩa duy tâm đã hình thành và phát triển khi có điều kiện thích
hợp. Bản thân chủ nghĩa duy tâm cũng ra đời một cách tự phát, gắn với trình đợ
nhận thức chung của cổ đại Hy Lạp, song nó cũng là nỗ lực tìm kiếm lời đáp cho
vấn đề quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh và với chính mình. Ở
những nhà duy tâm đầu tiên việc đề cao “thần tính” của tồn tại, tính siêu việt của
linh hồn so với thể xác cần đến một giá đỡ, cái tuyệt đối bên ngoài thế giới.
Bên cạnh đó sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm như một hệ thống lý luận có
cội nguồn sâu xa từ thần thoại và tôn giáo nguyên thủy, thể hiện cả thái độ sống
của con người, thái độ đối với thế giới mà mình cịn chưa hiểu biết thấu đáo.
Tư tưởng huyền học đan xen với tư tưởng khoa học là những biểu hiện đầu
tiên của chủ nghĩa duy tâm như một học thuyết bản thể luận ở Pitago và trường
phái Pitago
Ngay từ thời kỳ di thực vào cuối thế kỷ VI TCN trung tâm tri thức của người
Hy Lạp đã chuyển dần từ vùng Iôni sang phía Tây, hay Đại Hy Lạp, bao gồm
những vùng đất mà người Hy Lạp chiếm ở ven Địa Trung Hải và Biển Đen. Tại
đây các trường phái triết học lần lượt xuất hiện, trong đó nổi lên trường phái
Pitago, còn gọi là liên minh Pitago, xét theo phương thức tổ chức, tầm Ảnh
hưởng, tính hỗn dung về tư tưởng và chiều dài lịch sử của nó. Đây là trường phái
triết học tồn tại lâu nhất, kéo dài từ thế kỷ VI TCN đến khi kết thúc triết học cổ
đại phương Tây. Giai đoạn giàu ý nghĩa nhất trong sự tồn tại của trường phái
Pitago là giai đoạn sơ - trung kỳ (thế kỷ VI - IV TCN), khi nó đạt được những
đỉnh cao đáng nhớ: đỉnh cao chính trị (nửa đầu thế kỷ V TCN), đỉnh cao triết học
(nửa sau thế kỷ V TCN), đỉnh cao khoa học (nửa đầu thế kỷ IV TCN).
Liên minh, hay dịng tu Pitago hình thành trong bới cẢnh phực hưng tôn
17


giáo và công cuộc di thực ồ ạt từ Iôni sang miền nam nước Ý và vùng Xixin hiện
nay. Liên minh được tổ chức chặt chẽ theo hình thức khép kín, lấy quan niệm về

sự hòa tiết và thanh tẩy linh hồn làm cơ sở đạo đức. Trong liên minh mọi thứ
thuộc về của chung, mọi sinh hoạt đều tuân theo kỷ ḷt nghiêm ngặt, theo mợt
trình tự được các thành viên chấp thuận. . Nhưng liên minh Pitago không thuần về
tôn giáo, mà chủ yếu là nơi tập hợp những người yêu thích hoạt động trí tuệ.
Pitago (570 - 496 TCN) sinh tại Xamốt, thuộc vùng Iôni, sau di cư sang
Cơrôtôn, miền nam Ý. Là nhà toán học, Pitago đưa ra nhiều định lý có giá trị.
Trong triết học Pitago là nhà duy tâm tôn giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí
về ý nghĩa cuộc sống và bản nguyên vũ trụ, mang đậm dấu s61n huyền học
phương Đông. Bản tính con người, theo Pitago, có tính chất nhị nguyên - thể xác
khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những
cái nhơ bẩn, những điều ác trong lòng, hòa mình vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp
luân hồi. Triết lý, vì vậy, là hành trình của sự giải thoát.
Trong tư tưởng của Pitago những con số chiếm vị trí đặc biệt. Triết lý về con
số ở Pitago bắt đầu bằng mệnh đề “cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì đo
được”, vì thế những con sớ định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm chí là bản
chất và chuẩn mực của chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động của vũ trụ
thông qua những con số. Khi ta nói “linh hồn hịa điệu”, thì đó chính là quan hệ
hịa điệu của các con số. Pitago dùng tương quan chẵn - lẽ, bộ mười và bộ bốn để
giải thích tính thống nhất và đa dạng của tự nhiên, xã hội, con người, trong đó số
1 là đơn vị cơ sở, sau số 1 (lẽ) là số đối lập - số 2 (chẵn); lẽ là cái hữu hạn, chẵn là
cái vô hạn. Số 1 là con số năng động nhất, Bản nguyên hoạt động, chi phối tất cả,
nhưng con số kỳ diệu nhất là số 10, bao gồm 10 mối quan hệ của các mặt đối lập:
hữu hạn - vô hạn, chẵn - lẽ, đơn - đa, phải - trái, nam - nữ, động -tĩnh, thẳng cong, sáng - tối, tốt - xấu, tứ giác - đa diện. Trong sự liệt kê đơn giản, ngây thơ,
ngẫu hứng và không mấy sắc sảo này đã thể hiện những phạm trù đầu tiên của tư
tưởng, sự nỗ lực lý giải thực tại của Pitago - ông đã nâng con số lên trình độ khái
niệm, hiểu nó như tồn tại tự thân “trong nó, cho nó và cho cái khác” (Hêghen). Từ
các con sớ hình thành nên những vật thể, những hành chất (nước, không khí, lửa)
và toàn thể vũ trụ. Vũ trụ được cấu thành từ 10 thiên hà, tạo nên sự hòa điệu
thiêng liêng. Tuy nhiên không thể đưa lẽ công bằng, tự do về những con sớ, vì đó
là những khái niệm trừu tượng, khó được cụ thể hóa, hiện thực hóa hoàn toàn

trong cuộc sống. Lẽ công bằng không đo bằng các con số.
Bản tính con người, theo Pitago, có tính chất nhị nguyên, trong đó thể xác
khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những
cái nhơ bẩn, những điều ác, hóa thân vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luận hồi.
Cách tiếp cận như thế cho thấy triết lý nhân sinh của Pitago mang đậm dấu ấn của
huyền học phương Đông. Đánh giá Pitago, Hêraclít viết:”Pitago vượt xa những
người khác về sự am hiểu khoa học, nỗ lực thâm nhập vào bản chất thế giới, tỏ ra
uyên thâm trong mọi chuyện, nhưng xem ra chỉ hình thành được mớ kiến thức giả
tạo” (Tản văn, Lôgót, câu17).
Thế hệ tiếp theo của trường phái Pitago gắn với tên tuổi của Philôlai
18


(Philolaos, nửa sau thế kỷ V TCN), người tiếp tục huyền thoại hóa những con số.
Những điểm không gian được biểu tượng thành những số đơn giản, từ đó nối
thành đường - “những con số đường thẳng”. Những số triển khai ra thành hai số
nhân bằng nhau là “những con sớ hình vng” (sớ 4, sớ 9 … ); nếu thành hai số
nhân không bằng nhau - “những con số hình chữ nhật” (sớ 6, sớ 12…); nếu thành
ba sớ nhân - những hình Ảnh khơng gian (vật thể). Như vậy số 1 tương ứng với
điểm không gian, số 2 - đường, số 3 - mặt phẳng, số 4 - khới vật thể đơn giản.
Riêng sớ 10 Phillơlai khơng trình bày như con sớ hình chữ nhật, với các cạnh là 5
và 2, mà như hình tam giác cân với 10 chấm đen, xếp theo bốn dãy, lấy từ bốn số
đầu của dãy số tự nhiên là 1,2,3,4 (1+2+3+4 = 10). Do chỗ số 1, số 2, số 3 và số 4
là sự thể hiện số học của điểm, đường thẳng, mặt phẳng và khối, nên số 10 chứa
đựng trong nó cả bốn hình thức tồn tại của sự vật. Các số khác cũng mang những
ý nghĩa tượng trưng, như số 5 - phẩm và sắc, số 6 - tính sống động, số 7 - trí tuệ,
sức khỏe, ánh sáng, sớ 8 - tình u và tình bạn, sự mẫn tiệp và hào hoa. Nhờ
những con số mà không gian vật thể được tổ chức lại. Trong vũ trụ luận Philơlai
kế thừa quan điểm của Pitago về sự hịa điệu giữa các hành tinh, làm nên bản giao
hưởng vũ trụ huyền bí, thiêng liêng, đồng thời liên kết Đại không gian với các

nhân vật thần thoại. Khác với Pitago, Philôlai cho rằng Trái đất không phải là
trung tâm vũ trụ, mà bay lượn như những hành tinh khác. Nếu Plà người tiên
phong của thút Địa tâm, thì Philơlai đi theo hướng ngược lại, song chưa phải là
người tiên phong của thuyết Nhật tâm, vì Mặt trời được hình dung chỉ như một
khối tinh thể lạnh, phản chiếu ánh sáng từ nơi khác, từ Vịm lửa Olimpớt
(Olimpos) xa xơi, nơi phát ngun ngọn lửa trung tâm vĩnh hằng.
Acsitớt (Archytos), học trị của Philôlai, nghiêng hẳn về tinh thần Hy Lạp
phóng khoáng và yêu chuộng tự do, giảm dần các yếu tố bảo thủ, khổ hạnh, Ở
Acsitốt tinh thần khoa học chẳng những vượt qua giáo điều, mà còn chiếm vị trí
danh dự trong quan hệ xã hội, chẳng hạn luận điểm cho rằng mợt phép tính sịng
phẳng ngăn ngừa đại họa cho muôn người. Triết học Acsitốt nhấn mạnh xu hướng
duy lý hóa nhận thức; trong vũ trụ vắng dần hình Ảnh các vị thần, thay bằng
những xét đoán kết hợp trực quan và tư duy, khả năng tri giác và trí tưởng tượng.
Tuy nhiên nhìn chung trường phái Pitago Trung kỳ chưa thực sự chấm dứt những
ràng buộc với tôn giáo, nhất là tôn giáo Ocphây (Orpheus)
Trường phái Pitago, nơi các yếu tố khoa học và các yếu tố tôn giáo đan xen
nhau, phản ánh tính đa dạng và phức tạp của sinh hoạt tinh thần của thế giới Hy
Lạp thời sơ khai, khi quá trình hình thành các thị quốc bị chi phối bởi những cuộc
di thực và chiến tranh, cịn nền văn hóa thì đang tìm kiếm những khả năng mới,
thay thế các môtíp sáng tạo từ thời trước.
3. Cuộc tranh luận giữa Hêraclít và trường phái Êlê - tính biện chứng
trong tư duy của người Hy Lạp
C̣c tranh luận về bản chất của thế giới diễn ra hầu như đồng thời với cuộc
tranh luận về bản nguyên thế giới. Các nhà triết học giải đáp không chỉ câu hỏi
“thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu ?”, mà cả những câu hỏi như “thế giới tồn
tại như thế nào ?”, “thế giới về nguyên tắc vận động hay đừng im ?”, “nếu vận
19


đợng, thì vận đợng theo những tính quy ḷt nào ? vận động tự thân của sự vật,

hay do sự tác động của lực lượng huyền bí bên ngoài ?”…
a) Hêraclít (Heraclitos) - “mọi thứ đều tn chảy”
Xơcrát là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “biện chứng” (Dialektike) như
nghệ thuật đối thọai, tranh luận nhằm đạt tới chân lý. Sau đó Platôn đã cụ thể hóa
cách hiểu này trong các thao tác lôgíc, phương pháp hỏi và đáp một cách hợp lý
và thuyết phục, từ đó dễ dàng xác lập định nghĩa đúng về các khái niệm. Theo
cách hiểu hiện đại, xuất phát từ Hêghen, phép biện chứng là khoa học về phương
pháp tư duy (khoa học lôgíc), đồng thời là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và
sự phát triển. C. Mác đã kế thừa và cải tạo phép biện chứng Hêghen, xây dựng
phép biện chứng duy vật. Thuật ngữ phép biện chứng như vậy đã vượt qua ý
nghĩa chủ quan ban đầu của nghệ thuật đôi thoại để trở thành một phương pháp
triết học và một học thuyết tìm hiểu các sự vật, hiện tượng như mợt quá trình vận
đợng, phát triển mang tính quy ḷt.
Từ góc đô này có thể xem Hêraclít là ông tổ thực sự của phép biện chứng,
người đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về thế giới.
Hêraclít không chỉ là nhà duy vật tự phát, mà còn là nhà triết học đã đặt cơ
sở cho cách hiểu về thế giới như mợt q trình, được diễn đạt bằng câu cách ngôn
“mọi thứ đều tuôn chảy”theo quy luật, hay Lôgốt (Logos, Hêraclít. Tản văn, câu
2). Lôgốt là khái niệm chủ đạo trong triết học Hêraclít, dùng để giải thích bản
nguyên lẫn bản chất của thế giới. Đó là một khái niệm đa nghĩa: 1)Thần ngôn
(ngôn từ của Thần, thần ngôn); 2) lời nói, học thuyết, có nghĩa là logos đã được
thế tục hóa thành cái thuộc sở hữu của con người (ta biết rằng có khá nhiều học
thuyết có phần kết thúc bằng “logy”, “logie”…); 3)lý trí, chân lý (môn học dạy ta
cách tư duy đúng, theo truyền thống gọi là Logic); 4)tính quy luật, tính tất yếu;
5)trật tự, chuẩn mực; 6)lửa. Bớn nghĩa sau cùng, khơng cịn nghi ngờ gì nữa, gắn
liền với tên tuổi của Hêraclít. Một cách tổng quát, Hêraclít muốn nói rằng, mọi sự
vật diễn ra trong thế giới không xô bồ, hỗn độn, mà tuân theo tính quy luật, tính
tất yếu, trật tự, chuẩn mực, được lý trí nhận biết (chúng ta khơng nhìn quy ḷt,
mà nhận thức quy luật); đồng thời chúng ta hình dung toàn bộ thế giới này như
ngọn lửa thiêng liêng, sống động, bùng cháy và tắt đi theo quy luật. Lửa - cơ sở

của sinh thành và diệt vong, sức mạnh chở che và sức mạnh hủy diệt. Đại hỏa tai
vũ trụ sẽ là phán xét vũ trụ, tất cả biến thành tro bụi, và từ trong tro bụi một chu
kỳ mới của sinh thành, biến hóa lại bắt đầu. Quy luật thứ nhất chỉ rõ mọi sự vật
đều nằm trong sự sinh thành, phát triển và diệt vong không cưỡng lại được. Tính
phổ biến của thay đổi diễn ra trong thế giới được ví như hình Ảnh dịng sơng mà
tất cả đều đang trôi đi, bởi thế nên “không thể tắm hai lần trong cùng một dịng
sơng, bởi vì mỗi lần bước xuống sơng, ta lại tiếp xúc với dịng nước mới”(Hêralít.
Tản văn, câu 41). Hêralí cịn diễn tả mợt cách cơ đọng quá trình liên tục của thế
giới bằng định thức “hư vô - tồn tại - hư vô”, liên tưởng dòng thời gian “quá khứ hiện tại - tương lai” (cái đã qua - cái đang tồn tại - cái chưa đến); cái mà hôm qua
chúng ta cho là hiện tại, hôm nay chuyển thành quá khứ, cái hôm nay chúng ta gọi
là hiện tại, ngày mai vụt chuyển thành quá khứ, và cái ngày mai ấy sẽ là hiện tại,
20


là cái-đang-tồn-tại … sự truy đuổi nhau ấy diễn ra liên tục, không bao giờ đạt đến
điểm kết thúc tuyệt đối. Sự vật thay đổi nhanh đến mức mỗi khi chúng ta nói về
nó, thì nhận định của chúng ta đã ít nhiều lạc hậu mất rồi !
Quy luật thứ hai nhấn mạnh tính thống nhất và đa dạng của thế giới. Thế giới
thống nhất, nhưng không phải là thống nhất trừu tượng, mà là hoạt động, sự tự
triển khai ra các mặt đối lập. Hư vô chỉ là “cái khác” của tồn tại, tính chủ quan là
“cái khác” của tính khách quan, mọi thứ đều hợp nhất, và mọi hợp nhất đều phân
đôi, tồn tại và hư vô chỉ là mợt. Sự vật vừa có vừa khơng, vừa tồn tại vừa không
tồn tại. Vũ trụ thống nhất trong tính đa dạng, ở đó sự tác động qua lại và chuyển
hóa của các mặt đối lập làm nên bản chất của sinh thành, phát triển, diệt vong.
Tuyên bố “trong chiến tranh (đấu tranh) có mầm của sự hịa điệu (thớng nhất),
trong hòa điệu ẩn chứa tiềm tàng khả năng của chiến tranh”, Heraclitos nhấn
mạnh chiến tranh là “cha của tất cả”, “ông hoàng của tất cả” (Tản văn, câu 44).
Trong đấu tranh cái mới xuất hiện, tạo nên sự thống nhất mới, quá trình chuyển
hóa khơng bao giờ ngừng. Hêraclít xem quá trình chuyển hóa là tất yếu:”Lửa biểu thị chuyển hóa của vạn vật, ví như sự trao đổi hàng hóa sang vàng và vàng
sang hàng hóa…” (Tản văn, câu 22).

Quy luật thứ ba, xuất phát từ quy luật thứ nhất và quy luật thứ hai, có thể gọi
là quy luật tương quan: sự vật đặt trong những tương quan khác nhau “biểu lộ” ra
một cách khác nhau trước chủ thể, chẳng hạn mật ngọt đới với người bình thường,
nhưng đắng đối với người bệnh; nước biển đối với một số sinh thể là môi trường
sống, nhưng đối với một số khác lại tỏ ra độc hại; vàng đối với người là quý,
nhưng đối với loài vật lại vô giá trị. Sau cùng, người thông thái nhất cũng chỉ
đáng là đứa trẻ so với thần linh; con khỉ đẹp nhất cũng trở nên xấu xí so với con
người, con người đẹp nhất cũng chỉ đáng coi là con khỉ không đuôi so với thần
linh (xem Tản văn, các câu 97, 98, 99). Sự táo bạo, khác thường trong lập luận
của Hêraclít là sự thách thức đối với quan điểm đương thời về bản chất của thế
giới, khiến cho ông bị cô lập, chấp nhận “bước đi trên con đường cơ đơn”, nhưng
với “mợt lịng cao ngạo ngất trời” (Xem F. Nietzsche. Triết lý Hy Lạp thời bi kịch.
Bản địch của Trần Xuân Kim. Sài Gòn, 1975, tr. 51). C. Mác xem Hêraclít là một
trong những tên tuổi lớn, tạo nên phong cách tư duy đặc sắc thời cổ đại1.
Lôgốt- Lửa của Hêraclít rất thần linh, nhưng cũng rất vũ trụ và nhân tính.
Thần linh là biểu tượng của sự thống nhất và chuyển hóa ngày - đêm, đông - hạ,
chiến tranh - hịa bình, no - đói. Con người là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, toàn thể
trong đại toàn thể, vì vậy lý trí con người và lý trí thần linh, đại diện cho tinh khí
vũ trụ, nhất trí với nhau, dù khơng hịa lẫn vào nhau. Lý trí là chìa khóa giúp con
người hiểu được vũ trụ trong hịa điệu thiêng liêng. Lý trí - Lơgớt chính là sự bảo
đảm tính phổ biến và tính chân lý của nhận thức. Lý trí - Lôgốt - Lửa cũng là
thước đo tính cách con người, xác định xem tâm hồn người nào “nhiều lửa” và
tâm hồn người nào “ít lửa”, hoặc “thiếu lửa”. Lửa ấy là “lửa lòng”. Lửa là cội
nguồn vĩnh cửu của cuộc sống,
Hêraclít đã làm đảo lộn cách suy nghĩ phổ biến về một thế giới hài hịa và
1

xem C. Mác và Ph. Ăngghen. Tồn tập. T. 1. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 157

21



bền vững. Nhà triết học yếm thế cố thuyết phục mọi người rằng quan điểm truyền
thống chưa đi sâu vào bản chất của sự vật, rằng chỉ có thể xác định “mọi thứ đang
trôi đi” mới hiểu ra cái lẽ đương nhiên của quá trình sinh - diệt. Tuy nhiên theo
phần lớn những người cùng thời cách hiểu đó là lập dị, khác thường: Hêraclít hầu
như mợt mình thách thức tất cả. Vì lẽ đó nhà triết học xứ Ephese ít được tôn vinh
trong biên niên sử triết học các thời đại sau, nhất là thời trung cổ, cho đến khi
Hêghen khôi phục và phát triển, hệ thống hóa phép biện chứng, vớn hình thành từ
quá khứ, đem đến cho nó ý nghĩa mới vào thế kỷ XIX. Nhưng trước hết trường
phái Êlê- người phản biện - đã sửa chữa tư tưởng “vạn vật biến dịch” như thế
nào ?
Khái niệm lôgốt cũng được vận dụng vào việc giải quyết vấn đề nhận thức
luận. Cơ sở tính phổ biến và tính chân lý của nhận thức là lôgốt, nghĩa là sự thống
nhất tất yếu của trật tự thế giới. Khám phá sự vật là mợt quá trình phức tạp, vì
“giới tự nhiên khơng thích bợc lợ mình” (Tản văn, câu 10). Hêraclít phân biệt
nhận thức cảm tính, tức nhận thức “thông qua nghe, thấy, sờ, nếm, ngửi” (Sđd,
câu 6, 13, 15) và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính không phải là vô ích,
nhưng mục đích cao nhất của nhận thức là nhận thức lôgốt, tức nhận thức lý tính,
vươn đến sự hiểu biết tính thống nhất và đa dạng của vũ trụ. “Sự khôn ngoan vượt
lên trên tất cả” (Tản văn, câu 18); để có nó, theo Hêraclít, chúng ta khơng bằng
lịng dừng lại ở sự quan sát, mà cần đến năng lực “thần linh”, thấu suốt bản chất
sự vật. Ai cũng có thể tư duy, nhưng năng lực tư duy ở mỗi người lại khác nhau,
do lửa trong mỗi người không như nhau. Với cách đặt vấn đề như thế, Hêraclít
bàn đến đạo đức và chính trị như sự triển khai lôgốt trong cuộc sống. Lôgốt
hướng dâ74n hành vi con người. Bản chất đạo đức của con người (thiện, ác, dũng
cảm, nèn nhát) tùy thuộc vào sự hiện diện của lửa nhiều hay ít, sinh động hay yếu
ớt. Nếu xem lửa là cợi nguồn vĩnh cửu, thì hoạt đợng sớng của con người là mợt
quá trình.
Lửa là cợi nguồn vĩnh cửu của c̣c sớng, cịn c̣c sớng là quá trình hướng

tới sự hợp nhất bền vững con người - vũ trụ - thần linh. Song điều đó khó thành
hiện thực, vì mợt phần nhân loại khơng tn thủ lơgớt, xem c̣c sớng chỉ là “trị
chơi con trẻ”. Để ngăn chặn con người sa vào lầm lỗi, cần thiết phải xây dựng
“chuẩn mực luật pháp hữu ích”, “lôgốt của cuộc sống”. Phục tùng lôgốt - luật
pháp và hành động theo lôgốt quy định tính cách của mỗi cá nhân. Hêraclít kêu
gọi “con người phải đấu tranh cho luật pháp như cho ngơi nhà của mình” (Tản
văn, câu 100). Theo Hêraclít, con người sợ cả hai thế lực: sợ thần linh trừng phạt
và sợ chính bản thân mình. Trong khi cố gắng khám phá tự nhiên con người vẫn
không đảm bảo rằng mình có thể chế ngự được bản thân hay khơng. .
Tản văn của Hêraclít (trích trong The Portable Greek Reader)
LOGOS
1. Thật không phải …khi tuyên bố rằng vạn vật đồng nhất thể. 2. (Cho dù)
logos là chân lý trường cửu, nhưng con người không thể hiểu nó ngay khi được
nghe về nó lần đầu tiên, cũng như trước khi được nghe về nó …Mọi thứ đều tuôn
chảy, … nhưng không phải ai cũng cảm nhận được điều đó. Họ không biết điều
22


mình đang làm, cả khi thức lẫn khi ngủ. 3. Những kẻ đần độn dù cố nghe đến mấy
cũng chẳng khác nào người điếc, chẳng khác nào chứng kiến cũng như không. 4.
Mắt và tai là sự nhận thức mờ tối …dù con người có tâm hồn để nhận thức mà
không cần đến ngôn ngữ. 5. Nhiều người chẳng màng quan tâm đến những thứ
diễn ra trước mắt, hoặc họ cũng chẳng ghi nhận được gì khi nghe, mặc dù họ ngỡ
rằng mình đã hiểu hết. 6. Sự hiểu biết (thực sự - ĐNT) không bằng cách nghe và
cũng không bằng cách nói. 7. Nếu anh không mong đợi điều ngoài mong đợi, anh
sẽ khơng tìm thấy nó, vì nó không tự bộc lộ ra. 10. Giới tự nhiên không thích bợc
lợ mình. 15. Chứng kiến bằng mắt chính xác hơn nghe bằng tai. 20. Thế giới này
tồn tại tự thân, không do một vị thần hay con người nào tạo ra, mà đã, đang và sẽ
là một ngọn lửa sinh động vĩnh hằng và là thước đo của việc những sự vật này
đang bùng cháy và những sự vật kia đang tắt đi. 22. Lửa - biểu thị Chuyển hóa

(trao đổi) của vạn vật, ví như sự trao đổi hàng hóa sang vàng và vàng sang hàng
hóa (đều dựa vào những quy luật nhất định). 25. Lửa sống bằng cái chết của
không khí và không khí sống bằng cái chết của lửa. Nước sống bằng cái chết của
đất, và đất - bằng cái chết của nước. 26. Lửa …phán xét và kết án tất cả. 27. Con
người làm sao có thể ôm trọn cái thường xuyên biến đổi?. 32. Mặt trời mỗi ngày
đầu mới. 36. Thần là ngày và đêm, mùa đơng và mùa hạ, chiến tranh và hịa bình,
no và đói, nhưng thần cũng ln ln biến đổi hình thù của mình. 39. Những thứ
lạnh trở nên nóng, những thứ nóng lại trở nên lạnh. 40. Tan rồi hợp, tiến rồi lùi.
41. Không thể tắm hai lần trong cùng mợt dịng sơng, bởi vì mỗi lần bước x́ng
sơng, ta lại tiếp xúc với dòng nước mới. 44. Chiến tranh là cha của tất cả, ông
hoàng của tất cả; chiến tranh tạo nên các vị thần và con người, tạo nên kẻ nô lệ và
người tự do. 45. Thật khó giải thích vì sao con người lại hịa hợp được những cái
trái ngược nhau trong chính mình. Đó là hịa hợp của các trạng thái đới lập nhau,
như đàn vĩ và đàn lia. 46. Sự đối lập đó (rỏ ra) tốt cho chúng ta. 51. Những con
lừa thích rơm hơn vàng. 52. Nước biển vừa tinh khiết nhất, lại vừa bẩn nhất. Với
cá nước biển uống được và rất tớt, nhưng với người thì khơng ́ng được và đợc
hại. 57. Cái thiện và cái ác là một. 64. Tất cả những gì đang tồn tại cũng có thể
được hiểu là đang chết. 67. Những cái khả tử bất tử, những cái bất tử khả tử, vật
này sống nhờ cái chết của vật kia, và chết - cho sự sống khác. 79. …quyền hành
thực sự đang nằm trong tay thời gian. 81. Chúng ta vừa tồn tại, vừa không tồn tại.
91b. …tất cả luật lệ của loài người đều bắt nguồn từ luật lệ của thần linh. 98 - 99
(diễn ý). Con người khôn ngoan nhất cũng chỉ đáng xem là con khỉ không đuôi so
với thần linh. Tương tự như vậy, con khỉ đẹp nhất cũng trở nên xấu xí so với con
người. 100. Con người phải đấu tranh cho ḷt pháp như cho ngơi nhà của mình.
118. Kẻ tưởng rằng mình đã hiểu biết mọi thứ là kẻ giả dối với những chứng cứ
giả dối. 129 - 130 (diễn ý). Thật vô ích khi người ta thanh tẩy mình bằng máu.
Điều đó cũng giớng như mợt người bước x́ng hớ bùn để rữa chân mình cho
sạch. Chỉ có kẻ điên rồ mới làm như thế.
b) Biện chứng dưới hình thức phủ định của trường phái Êlê
Đại biểu đầu tiên của trường phái Êlê(Elea, là tên một đô thị ven biển miền

nam nước Ý hiện nay, nơi khai sinh trường phái), theo Platôn, là Xênôphan
(Xenophanes, khoảng 570 - 478 TCN), người phác thảo những đường nét ban sơ
23


của nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Trong tác phẩm chính của mình - Những lời
châm biếm - Xênơphan lên tiếng chống lại tất cả những nhà thơ và triết gia, từ
Hôme, Hêxiốt đến Talét. Ong vạch ra cơ sở tâm lý của tôn giáo, nhấn mạnh rằng
con người khả tử tưởng tượng ra các vị thần giống như họ, cũng có áo quần, giọng
nói, hình thức như ho, và xem các vị thần như biểu hi65n của cái Tuyệt đối, mục
đích cao cả của cuộc sống (xem The Portable Greek Reader, N. Y, 1967, p. 68 69). Cùng với ngun lý “vạn vật đồng nhất”, Xênơphan cịn là người đầu tiên
nêu ra vấn đề khả năng và giới hạn của nhận thức. Pácmênhít (Parmenides, 540 470 TCN), Dênơng (Zenon, 490 - 430 TCN) và đơng đảo học trị kế tục, phát
triển và hoàn thiện nguyên lý này, lấy học thuyết của Hêraclít làm đối tượng phê
phán chủ yếu. Ở góc độ bản thể luận cách tiếp cận của trường phái Êlê Ảnh
hưởng đến hàng loạt tên tuổi lớn của triết học về sau như Empeđốc, Đêmôcrít,
Platôn, Arixtốt…trong việc giải quyết vấn đề bản chất của tồn tại.
Cơ sở phê phán của trường phái Elê đối với Hêraclít chính là quan niệm
“mọi thứ đều tuôn chảy”. Thực ra con người đứng trước vũ trụ rộng lớn luôn khao
khát nhận thức nó trong tính chỉnh thể, trong sự trọn vẹn đủ đầy của nó, chứ
không phải để khẳng định rằng nó đang “tuôn chảy”. Muốn nhận thức sự vật, cần
“chặn” dịng chảy ấy để xác định diện mạo, đặc tính của những gì trong tầm nhận
thức của chúng ta. Mợt cách ngắn gọn, sự phê phán của trường phái Elê đối với
Hêraclít không chỉ là vấn đế bản thể luận, mà còn là, và có lẽ trước hết là, vấn đề
nhận thức luận: đối với con người nói chung cần phải trả lời câu hỏi “nó là gì ?”,
tiếp đó (hay cùng lúc) - “nó như thế nào ?”. Không xác định diện mạo của cái
đang tồn tại thì ý tưởng tiếp theo trở nên vô giá trị, thậm chí biểu thị sự bất lực
của chủ thể hoạt động và nhận thức. Tuy nhiên Pácmênhít sửa chữa Hêraclít theo
một thái cực khác, thể hiện ở ba luận điểm sau: một la, hãy hình dung thế giới như
mợt quả cầu vật chất đóng chặt, nén đầy, khơng cịn chỗ trớng; khơng thể có vận
động (chuyển dịch), bởi lẽ tất cả đã được lấp đầy, tương tự - không có cái gọi là

không gian rỗng, phi vật thể. Hai là, luận điểm về tính đồng nhất tư duy - tồn tại.
Mọi ý tưởng luôn luôn là ý tưởng về cái đang-tồn-tại; không tồn tại cái khôngtồn-tại. Chỉ cái đang-tồn-tại mới là đối tượng của nhận thức. Tồn tại và tư duy
đồng nhất với nhau vừa như quá trình, vừa như kết quả. Tồn tại có, hư vô không.
Ba là, bác bỏ chuyển hóa, sinh thành, diệt vong, bởi lẽ chúng giả định khả năng
của cái không-tồn-tại. Tóm lại, ba đặc tính của tồn tại là toàn vẹn thống nhất,
không sinh không diệt, bất biến bất phân. Nhận thức được ba luận điểm ấy, chúng
ta bước đi trên con đường chân lý, ngược lại - con đường thường kiến. Theo
Pácmênhít, có hai thứ triết học - một thứ hướng đến chân lý, một thứ hướng đến
thường kiến. Con đường chân lý dựa vào lý trí để khám phá tồn tại vĩnh cửu bất
biến, còn con đường thường kiến xuất phát từ cảm giác để nắm bắt thế giới luôn
biến đổi, nhất thời, hư ảo. Hai con đường ấy dẫn dắt con người đi tới nhận thức
hai thế giới khác nhau: thế giới bất biến, lý tưởng của tồn tại đích thực và thế giới
hữu hình, khả biến của cảm giác.
Dênơng, học trị của Pácmênhít, cụ thể hóa và phát triển nguyên lý “vạn vật
đồng nhất thể” và nguyên lý “vạn vật bất biến” bằng phương pháp trưng dẫn chân
lý (epicherema) và nghịch lý (aporia). Trong số hơn 40 nghịch ly của Dênông,
24


lịch sử cịn lưu lại 4 aporia điển hình, và được phân thành hai nhóm; nhóm thứ
nhất đề cập đến tính thống nhất, duy nhất của tồn tại, nhóm thứ hai - tính bất biến
của tồn tại. Aporia “Sự phân đôi” có thể tóm tắt như sau: một vật bất kỳ muốn
vượt qua đoạn đường từ A đến B trước hết phải vượt ½ của AB, mà ḿn vượt ½
của AB, nó phải vượt ½ của ½ ấy, cứ thế đến vơ cùng. Khơng thể tìm ra khởi
điểm của vận động, do chỗ bản thân sự phân đôi không đem đến một kết thúc khả
hữu. Cứ cho rằng khi phân đôi ta thu được hai nửa của AB, nhưng mỗi nửa của
AB, về phần, ình, là mợt cái toàn vẹn mới, và vật thể vận động cứ phải vượt qua
lần lượt những cái toàn vẹn ấy mãi vẫn không hết. Zenon đi đến kết luận rằng, thứ
nhất, do chỗ không gian (“ở đây”) và thời gian (“bây giờ”) là cái liên tục tuyệt
đối, nên không bao giờ đặt ra một sự phân chia, nếu có phân chia thì phân chia

đến vô cùng; thứ hai, do chỗ không gian là liên tục, nên những khoảng phân chia
của không gian thực ra là những khoảng phân chia quy ước. Có thể cắt đôi khúc
gỗ, nhưng không thể cắt đôi không gian được. Cắt đơi khơng gian để tìm khởi
điểm của vận đợng (chuyển dịch), do đó, là sai lầm về mặt lơgíc tư duy, kết quả
của nhận thức cảm tính. Aporia “Achille và con rùa” nói rằng lực sỹ Achille
không thể đuổi kịp con rùa, dù chạy nhanh và tỉnh táo, vì đã chấp nó một quảng
đường. Theo lập luận của Zenon lôgíc của vấn đề là ở chỗ, khi Achille đạt tới
điểm xuất phát của con rùa trước đó, thì con rùa đã khơng cịn ở đó nữa, mà tiến
thêm được quảng đường ngắn một cách chậm chạp. Cứ thế Achille đuổi mãi theo
con rùa, nhưng mỗi lần đến điểm cũ của rùa, thì rùa đã dịch chuyển khỏi nơi đó.
Thử quy ước B là vật chạy nhanh, A - vật chạy chậm hơn B hai lần, B chấp A một
quảng, thể hiện bằng hình Ảnh dưới đây:
cdefg
BA
Khi B vượt được quảng đường cd, thì A trong khoảng thời qian ấy vượt được
quảng de; khi B vượt de, thì A đã đi tiếp quảng ef v. v. . Như vậy vật chạy nhanh
hơn cũng không đuổi kịp vật chạy chậm hơn, và trong trường hợp này vận động
hóa ra là vô nghĩa !
Aporia “mũi tên bay”cho thấy sự tài tình trong lập luận của Zenon. Mũi tên
bay kỳ thực là không bay, vì lẽ vật đang bay ln ln “bây giờ” và “ở đây” bằng
với chính mình. Trong “bây giờ” và “ở đây” mũi tên vẫn thế, không sinh thành,
không chuyển hóa, mà được cấu thành từ những yếu tố không phân chia. Để mũi
tên bay được trong mỗi khoẢnh khắc thời gian nó phải vừa nằm ở một vị trí
không gian, vừa không nằm ở đó. Nhưng điều này khó mà chấp nhận được.
Trong aporia “vận động trường” Zenon giả định tình h́ng có ba hàng vật
thể AB, CD, EF bằng nhau; hàng AB đứng im, CD và EF chuyển dịch cùng một
vận tốc, song song với AB, nhưng trái chiều nhau. Để cả ba cùng ngang bằng
nhau, CD vượt qua hai lần cùng những vật thể của hàng AB và EF. Như vậy ở
trường hợp này “một nửa bằng toàn thể”. Ví dụ khác, từ cùng một điểm xuất phát
vật A chuyển dịch 2m về hướng Đông, vật B chuyển dịch cùng ngần ấy đoạn

đường về hướng Tây, kết quả sẽ tạo ra khoảng cách 4m. Nhưng nếu một vật
chuyển dịch lên phía trước 2m, rồi sau đó lui về phía sau 2m, thì trên thực tế vật
25


×