Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học vấn đề PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN sự của QUÂN đội TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.03 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Triết học đã nghiên cứu nhiều vấn đề, song vấn đề trung tâm của nó, vấn đề
con người vẫn ln được đề cao. Điều đó thể hiện ngay trong định nghĩa: “Triết
học là hệ thống những lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vai trò của
con người trong thế giới ấy”. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về thế giới chung quy lại
đều phục vụ việc tìm hiểu con người, phát triển con người. Xã hội lồi người càng
phát triển thì vấn đề con người càng được đánh giá cao và tìm hiểu sâu sắc. Ví như
thời cổ đại người ta tôn thờ những thế lực siêu nhiên, con người chỉ là kẻ tôi tớ
phụng sự ý trời. Nhưng đến thời hiện đại, con người đã trở thành những kẻ chinh
phục thế giới bằng trí tuệ và năng lực của mình. Ở mỗi nấc thang phát triển của lồi
người, vấn đề con người lại được nhìn nhận ở những khía cạnh, mức độ khác nhau.
Ở thời đại hiện nay, vấn đề con người là vấn đề trung tâm, quyết định đối với sự
phát triển của một đất nước. Và với Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết.
Trong thực tiễn của những năm qua, với việc áp dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng về vấn đề con
người trong q trình đổi mới đất nước, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời xây dựng quân đội nhân dân (QĐND) cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng còn nhiều vấn
đề đặt ra đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Việc nắm vững và vận dụng tốt quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
ở nước ta hiện nay đó cũng chính là biểu hiện sự hiểu biết sâu sắc và vận dụng linh
hoạt quan điểm, tư tưởng của triết học Mác - Lênin nhằm xây dựng và phát huy
nhân tố con người và chuẩn bị những con người có đầy đủ năng lực và đạo đức
cách mạng để phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nhận thức được tầm quan trọng và cấp bách của vấn đề con người, đặc biệt là
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay nói
chung và việc tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại nói riêng; bài tiểu luận đi sâu phân tích làm rõ: Vấn
đề phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự của quân đội ta hiện nay.
1




NỘI DUNG
1. Khái lược vấn đề con người trong triết học Mác-Lênin, tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
1.1. Vấn đề con người và nhân tố con người theo quan điểm triết học Mác Lênin
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con người,
triết học Mác-Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con người. Theo quan
điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.
Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất trong quá
trình tiến hóa của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi hoàn cảnh
trên trái đất. Triết học C.Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố cơ bản cấu thành con người
là mặt sinh học và mặt xã hội. Con người có mặt tự nhiên, vật chất, nhục thể, sinh
vật, tộc loại… Đồng thời con người có mặt xã hội, tinh thần, ngơn ngữ, ý thức, tư
duy, lao động…. Hai mặt này hợp thành một hệ thống năng động, phức tạp, luôn
luôn biến đổi và phát triển.
Khi khẳng định về vai trò của con người, triết học Mác-Lênin khẳng định con
người là chủ thể hoạt động thực tiễn; bằng hoạt động thực tiễn con người sáng tạo
ra mọi của cải vật chất, tinh thần, đồng thời sáng tạo ra cả bộ óc và tư duy của
mình. Quan niệm triết học Mác- Lênin về con người đã bao hàm trong đó sự khẳng
định vai trị chủ thể lịch sử xã hội của con người. Điều đó địi hỏi tất yếu từ quan
niệm chung về con người, cần phải có một quan niệm cụ thể hơn về nhân tố con
người.
Nhân tố con người là hệ thống các thuộc tính, các đặc trưng quy định vai trị
chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống
nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất, năng lực của
con người trong quá trình phát triển lịch sử.
Quan niệm nhân tố con người trong triết học Mác-Lênin đã chỉ ra sự thống
nhất giữa hai mặt là hoạt động và phẩm chất, năng lực của con người. Hoạt động
của con người bao gồm hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, hoạt động vật

chất và hoạt động tinh thần. Phẩm chất và năng lực con người bao gồm: phẩm chất
2


chính trị, đạo đức… và năng lực nhận thức, tư duy, hành động… Giữa mặt hoạt
động và mặt phẩm chất, năng lực có mối quan hệ biện chứng. Trong đó, hoạt động
là cơ sở để hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của con người. Ngược lại,
phẩm chất và năng lực của con người là cơ sở cho hoạt động của con người đạt
hiệu quả. Cả hoạt động, phẩm chất và năng lực là những đặc trưng xã hội quy định
vai trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.
Triết học Mác-Lênin đã chỉ ra vai trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của
con người. Chính vì vậy, nhân tố con người là cội nguồn của mọi sự phát triển, của
mọi nền văn minh xã hội.
Như vậy, quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và phát huy nhân tố con
người là toàn diện, phong phú và sâu sắc. Tồn bộ mục đích cao nhất và bao trùm nhất
của chủ nghĩa Mác-Lênin là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con
người. Tư tưởng về con người và phát huy nhân tố con người đã được Đảng cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới phù hợp với thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm triết học Mác-Lênin vì con người và phát huy
nhân tố con người có ý nghĩa khoa học và cách mạng to lớn trong sự nghiệp đổi mới
đất nước; đặc biệt là trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1.2. Vấn đề con người trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
1.2.1. Quan niệm về con người
Suốt quá trình hoạt động cách mạng, vấn để giải phóng con người, đem lại
hạnh phúc cho con người là mục đích cao nhất của Hồ Chí Minh. Người đã khái
quát thành triết lí nhân văn: “Nghĩ cho cùng, mọi vần đề... là vấn đề ở đời và làm
người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau
khổ bị áp bức”.
Hồ Chí Minh khơng đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về con người,
nhưng dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Người

đưa ra các tư tưởng về con người toàn diện và sâu sắc. Quan niệm về con người cùa
Hồ Chí Minh có thể khái qt lại như sau: Con người là một chỉnh thể thống nhất
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, chủ thể cùa các mốiquan hệ xã hội - lịch sử, chủ
thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
3


Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là sự thống nhất giữa con người
cá nhân và con người xã hội, thống nhất biện chứng giữa cái chung với cái riêng và
cái đặc thù. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định CNXH không hể phủ nhận cá
nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại, hơn hẳn bất kì một chế độ xã hội
nào trong lịch sử, CNXH ln ln tơn trong lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất
cho sự phát triển tự do và tồn diện của cá nhân. Hồ Chí Minh khơng chỉ nhấn
mạnh và quan tâm đến con người tập thể, con người xã hội mà cả trong tư tưởng, lí
luận và cả trong hoạt động thực tiễn. Người rất quan tâm đến mỗi con người cụ thể.
Người sâu sát, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui và thấu hiểu nhu
cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân từ nông dấn, công nhân, bộ đội, phụ nữ,
thanh niên đến các cụ phụ lão, các cháu nhi đổng... Trong chỉ đạo thực tiễn, Hổ Chí
Minh khơng chỉ động viên, phát huy tinh thẩn tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, mà còn biết khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con người cụ thể,
làm cho những đức tính tốt đẹp đó “nảy nở như hoa mùa xuân”.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người cá nhân và con người xã
hội, Hồ Chí Minh quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích. Người đã biết kết hợp
hài hồ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần...tạo nên động lực nhằm tích cực hố nhân tố con người. Đây chính
là một cơ sở khoa học để trong thời kỳ mới của cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam quan tâm đến chính sách xã hội vì lợi ích con người, coi trọng việc tập hợp
đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp.
1.2.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng và tiến bộ
xã hội

- Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
Mục tiêu cao nhất, bao trùm và thường xuyên mà Hồ Chí Minh cống
hiến toàn bộ cuộc đời là độc lập, tự do, hạnh phúc của con người. Đó là lợi ích lớn
nhất của con người Việt Nam. “Tơi chỉ có một sự ham, muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
4


Tồn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là q trình đấu tranh vì mục
đích giải phóng con người. Trong lời ra mắt báo Người cùng khổ Người chủ
trương: “đi từ giải phóng những người nơ lệ mất nước, những người lao động cùng
khổ đến giải phóng con người”. Ở Hồ Chí Minh, lịng u Tổ quốc gắn bó chặt chẽ
với lịng u nhân dấn bao la, sâu sắc. Người có lịng thương sâu sắc đến con
người: “Lịng yêu thương của tôi đến nhân dân và nhân loại không bao giờ thay
đổi”. Trong Di chúc, Người viết: “Cuối cùng, tơi để lại mn vàn tình thân u cho
tồn dân, toàn Đảng, toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi
cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi
đồng quốc tế”.
Người xác định mục đích của CNXH, là vì hạnh phúc con người: “Mục đích
CNXH là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Lí tưởng phấn
đấu của Người khơng trừu tượng mà cụ thể và gắn liền lợi ích của con người, vi
con người: “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng khơng có nghĩa lí gì”. Người nêu lên tiêu chí căn bản của CNXH: “CNXH là
dân giàu, nước mạnh”.
- Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, thương yêu vô hạn và tin tưởng
tuyệt đối vào con người.
Hơ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, trong đó, Người nhấn mạnh

nhân dân: “Trong báu trời khơng có gì q bằng nhân dân trong thế giới
khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”. Con người được giác
ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tát cả. “Người là gốc của
làng nước”...
Hồ Chí Minh ln ln có tư tưởng kính trọng nhân dân. Tư tưởng đó
được biểu hiện trong thực tế thơng qua nếp sống thanh bạch, ứng xử có ván
hố, chân thành lắng nghe ý kiến nhân dân, trân trọng thành tích chiến đáu,
lao động, công tác cùa các từng lớp nhân dân, dù đó là những người tót, việc
tốt, bình thường nhất. Hổ Chí Minh ln động viên khuyến khích nhân dân,
thực sự coi nhân dân là vĩ đại. Từ tư tưởng kính trọng nhân dân, Hồ Chí
5


Minh không xa rời nhân dân, không dành đặc quyển, đặc lợi cho mình. Mọi
tư tưởng, hành động của Người đểu vi lợi ích nhân dân: “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm, việc gì hại cho nhân dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải
yêu dân thì dân mới u ta, kính ta”.
Hồ Chí Minh ln trân trọng sinh mệnh con người. Nối tiếp truyền thống nhân đạo
của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn luôn bảo vệ con
người, hạn chế mức tháp nhất sự hi sinh xương máu của nhân dân. Để bảo vệ sinh mệnh
của nhân dân, Người chủ trương lập chiến khu, sơ tán nhân dân lúc có chiến tranh. Đối
với qn đội, Người ln chi đạo và động viên bộ đội đánh thắng trận đầu, đánh chắc
thắng. Lịng tin của Người có cơ sở khoa học và thực tiễn. Người đã phát hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cap vô sản Việt Nam ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Người
khẳng định công nông là gốc cách mạng, nước lấy dân làm gốc.
1.2.3. Phương thức phát huy động sử dụng vai trò động lực con người
Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ giữa sử dụng đúng và sử dụng khéo con
người. Người quan niệm “dụng nhân như dụng mộc”. Người quan tâm đến vấn đề
tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài trong và ngoài Đảng. Trong vấn đề cán
bộ, tư tưởng của Người là kết hợp cán bộ già và cán bộ trẻ để phát huy được ưu

điểm, khắc phục nhược điểm trong đội ngũ cán bộ. Thực chất là tư tưởng coi con
người là động lực quyết định, trong đó đội ngũ cán bộ có vai trị trực tiếp quyết
định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu và động lực cách mạng,
giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu gần và mục tiêu xa; cụ thể hoá mục tiêu
CNXH phù hợp từng giai đoạn cách mạng. CNXH trong quan niệm của Người rất
cụ thể, gần gũi với nhu cầu, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Người đề ra
những chủ trương chính sách đế từng bước hiện thực hố mục tiếu đó.
Hồ Chí Minh quan tâm việc kết hợp giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
trong đó, coi trọng phát huy vai trị động lực chính trị tinh thần. Người chú trọng
tuyên truyền giáo dục, động viên kịp thời các hành động tích cực của con người.
Hồ Chí Minh đề ra và thi hành chính sách xã hội hướng tới con người, phát
động các phong trào cách mạng nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của mọi
6


tầng lớp nhân dân. Đổng thời Người chú trọng phát hiện, khắc phục các nhân tố
tiêu cực, chống chù nghĩa cá nhân.
Giá trị bền vững và lớn nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và giải
phóng con người là vấn đề phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo
của con người trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
1.3. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
1.3.1. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam
Công cuộc đổi mới do Ðảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ
năm 1986 đến nay đã trải qua gần 30 năm. Ðó là cơng trình vĩ đại của Ðảng và
nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ngay từ
khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chú trọng đến nhân tố con người,
xem vấn đề xây dựng con người Việt Nam mới vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc đổi mới.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu

tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã
hội. Trong các văn kiện của Đảng đã khẳng định: con người là vốn quý nhất và Đảng
cũng nêu quan điểm giáo dục phát triển con người một cách toàn diện; xây dựng con
người bám sát yêu cầu cách mạng và phù hợp với khả năng phát triển kinh tế. Ðại
hội VII của Ðảng (tháng 6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó, cùng với xác định rõ nội dung và tính chất của
thời đại, Cương lĩnh đã khẳng định: nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là
tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ và đặt con người vào vị trí
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng ta càng coi trọng và phát huy
nhân tố con người. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã
đưa ra quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững”. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguồn
7


lực con người và vai trị của nó cơ bản thống nhất với quan điểm của Liên hợp
quốc.
Đại hội IX của Đảng khẳng định: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển và xem nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đại hội X của Đảng tiếp tục kế thừa và
phát triển các quan điểm lý luận về con người, Đại hội đã chỉ rõ: Phấn đấu tăng
trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, phải gắn với mục tiêu phát triển con
người; quan tâm chăm lo nguồn nhân lực có chất lượng cao; đổi mới tồn diện giáo
dục và đào tạo; trọng dụng nhân tài và coi trọng phát triển cả về thể chất và hệ
thống giá trị nhân cách con người Việt Nam. Con người là mục tiêu cao nhất của sự
phát triển, phát triển con người được đặt trong các quan hệ cụ thể và giải quyết
đồng bộ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội như: phát triển kinh tế, giải
quyết các vấn đề xã hội, giáo dục…

Đại hội XI đã nêu ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, đó là xây dựng và hồn thiện hệ thống giá trị con người Việt Nam trong thời đại
mới với những tiêu chí, chuẩn mực cụ thể là: “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng
yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi,
sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”, có khả năng sáng tạo và ứng
dụng khoa học và công nghệ vào quá trình lao động sản xuất và quản lý. Trong chiến
lược phát triển KT-XH với quan điểm phát triển: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa
nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi
người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả
năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất
nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ XI cùng với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng trong thế kỷ 21 đã chỉ
8


ra được các thành tựu lớn lao và các vấn đề gay gắt của đất nước khi bước vào thập
niên 2011-2020. Đảng đã đề ra được chiến lược mới cho sự phát triển của đất nước
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời chủ thể phát triển”,
trong đó nhất định phải thực hiện cho được sự cân đối giữa phát triển kinh tế với
công bằng và an sinh xã hội, giữa phát triển kinh tế - xã hội với phát triển tư tưởng
văn hóa, đặc biệt chiến lược xây dựng con người Việt Nam thời đại cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa tiến tới một nước Việt Nam phát triển tồn diện vào năm 2020, ở
đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi
người” như trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) đã nêu lên. Khơng có sự
phát triển đó của con người Việt Nam, chúng ta sẽ không thực hiện được sứ mệnh

lịch sử của mình, lý tưởng cao cả của mình.
1.3.2. Những động lực lớn phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay
Trước hết là quan tâm đến lợi ích của con người: Mục đích CNXH là vì tự do,
hạnh phúc con người, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người cả vật chất
và tinh thần. Quan tâm lợi ích con người để con người trở thành chủ thể tích cực
xây dựng xã hội mới. Con người vừa là vốn quý, vừa là nguồn sức mạnh vô tận của
sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Đòi hỏi kết hợp giáo dục giá trị và đổi mới hồn thiện chính sách xã hội. Định
hướng giá trị- lợi ích cho con người. Chỉ có trên cơ sở quan niệm giá trị đúng đắn,
phù hợp với lợi ích chân chính, con người mới có nhận thức và hành động đúng
đắn. Định hướng giá trị- lợi ích cịn khắc phục sự lệch chuẩn giá trị trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, làm cho con người có mục tiêu, lý
tưởng, có hồi bão phấn đấu đúng đắn, góp phần tích cực vào sự phát triển xã hội.
Thực hiện chính sách xã hội nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Các chế độ, chính sách, pháp luật Nhà nước phải được cụ thể hóa
để thực sự trở thành cơng cụ thực hiện cơng bằng xã hội, từng bước hiện thực hóa
các giá trị XHCN vào thực tiễn đời sống xã hội.

9


Phát triển nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của con người bằng
pháp luật XHCN: Thực tế cho thấy, việc phát huy nhân tố con người phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó mơi trường dân chủ có vị trí rất quan trọng. Chỉ trong mơi
trường dân chủ đích thực, con người mới có thể phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo,
sức mạnh của mình với tư cách chủ thể sáng tạo lịch sử. Do đó, vấn đề dân chủ
luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Quan điểm của Đảng về dân chủ trong Nghị
quyết Đại hội XI có sự khái quát mới, thể hiện sự đánh giá rất cao vai trò, tầm quan
trọng của dân chủ và thực hiện dân chủ đối với phát triển xã hội và đối với phát huy

nhân tố con người. Đảng ta khẳng định rằng, dân chủ XHCN là bản chất của chế độ
ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Phải “mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu
và là mục tiêu của sự phát triển”. Việc đánh giá cao vai trò dân chủ và chủ trương
mở rộng dân chủ thể hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã bám sát thực tiễn
cách mạng nước ta, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của nhân dân. Do vậy, có thể nói,
việc bảo đảm và thực hiện dân chủ bằng pháp luật là tiền đề, điều kiện và động lực
để phát huy nhân tố con người hiện nay. Trình độ phát triển của dân chủ là thước
đo, tiêu chí của phát huy nhân tố con người.
Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ: Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa…”. Quan điểm trên
cho thấy, Đảng ta đã nắm bắt được xu thế phát triển chung của thời đại để có quyết sách
về đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục ở nước ta hiện nay. Chuyển biến tích cực của
giáo dục- đào tạo là tiền đề, điều kiện để phát huy nhân tố con người hiện nay. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển, phát triển bền vững của một quốc gia.
Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, đồng thời kết hợp xây dựng con người mới XHCN trong tiến trình hội nhập
quốc tế theo mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Con người mới XHCN và phát huy nhân tố con người khơng hình thành một
cách tự phát mà phải trải qua q trình xây dựng, thơng qua lao động sản xuất và đấu
10


tranh, thơng qua sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước… Quan
điểm triết học Mác - Lênin về con người và phát huy nhân tố con người có ý nghĩa
cách mạng và khoa học to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
2. Phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự của quân đội ta
hiện nay
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, là công cụ bạo lực

sắc bén của Nhà nước, đồng thời là lực lượng nịng cốt trong sự nghiệp tồn dân bảo
vệ Tổ quốc. Do đó, việc phát huy nhân tố con người trong quân đội là tất yếu khách
quan, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bởi vì, xuất phát từ mối quan
hệ giữa con người và vũ khí, vai trị của nhân tố con người trong chiến tranh; từ đặc
điểm, tính chất, yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN và yêu cầu xây
dựng quân đội hiện nay. Xuất phát từ thực tế giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu lợi
ích, cống hiến và hưởng thụ, vinh dự và trách nhiệm của quân đội đối với vận mệnh
của đất nước, đòi hỏi phải phát huy nhân tố con người.
Phát huy nhân tố con người trong Quân đội nhân dân Việt Nam là làm bộc lộ,
khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng về phẩm chất và năng lực hoạt động quân sự của
mỗi cán bộ, chiến sỹ, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý chí tự lực tự cường, tính tổ chức,
tính kỷ luật và trách nhiệm trong sử dụng trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội và bảo vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sỹ phát huy bản chất,
truyền thống cách mạng, khả năng sáng tạo trong hoạt động quân sự. Nắm vững khoa
học và kỹ thuật quân sự, làm chủ các loại vũ khí trang bị, nêu cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch.
Hiện nay, việc phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự của quân
đội ta đang là vấn đề có tính cấp thiết. Bởi vì, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đặt ra cho quân đội nhiệm vụ chính trị - quân sự mới. Quân đội phải thực sự
là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ cơng
cuộc xây dựng hồ bình của nhân dân, bảo vệ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta,
trong bối cảnh cục diện chính trị thế giới chuyển sang trạng thái vừa đấu tranh vừa
hợp tác và kẻ thù chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược mới: "diễn biến
11


hồ bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, và răn đe bằng sức mạnh quân sự, với các
loại hình chiến tranh xâm lược quy mơ khác nhau, thì nhân tố con người phải được
quan tâm đặc biệt trong xây dựng hoạt động quân sự của quân đội ta. Phát huy nhân

tố con người trong hoạt động quân sự lại chẳng những đứng trước mặt trận chính trị
nóng bỏng, mà cịn đứng trước u cầu phát triển của vũ khí, kỹ thuật hiện đại và
trước sự phát triển tất yếu của bản thân con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trong khi đó thực trạng của việc phát huy nhân tố con người trong
quân đội chưa ngang tầm với nhiệm vụ mới
2.1. Nhân tố con người và vai trị của nó trong hoạt động qn sự của quân
đội ta hiện nay
Khái niệm nhân tố con người được nhiều nhà khoa học thống nhất quan niệm
là con người hoạt động, với tư cách là tác nhân của từng hệ thống xã hội. Do đó,
phát huy nhân tố con người có tính lịch sử, là tổng hợp các phẩm chất, năng lực của
con người, trong hoạt động cải tạo thế giới (bao gồm cả đấu tranh làm chủ tự nhiên
và làm chủ xã hội) nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Như vậy, xem xét nhân tố con người phải đặt trong phạm vi hoạt động nhất
định của con người, với tư cách là một thành tố năng động nhất trong quan hệ với
các thành tố khác trong mỗi hệ thống hoạt động của con người với những mục đích
xác định.
Đặt nhân tố con người trong hoạt động quân sự, là xác định nhân tố con người
được nghiên cứu trong quan hệ với hệ thống các yếu tố tạo thành hoạt động quân
sự, gắn với yêu cầu xây dựng hoạt động quân sự của quân đội ta. Nhân tố con
người ở đây với tính cách là những cá nhân con người liên kết lại tạo thành tổng thể
con người trong tổ chức quân đội cụ thể. Đó là những đặc trưng tổng thể quân nhân
và tập hợp các đơn vị theo biên chế ở các quy mô khác nhau của hệ thống tổ chức
hoạt động chiến đấu của quân đội.
Nhân tố con người trong hoạt động quân sự là hệ thống các thuộc tính, các
đặc trưng của người quân nhân cách mạng hoạt động trong môi trường đặc thù
(lao động đặc biệt) với những đặc trưng về phẩm chất, năng lực của tập thể quân
nhân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
12



Do vậy hoạt động quân sự thường được hiểu là sức mạnh quân sự để chiến
thắng địch trên mặt trận qn sự, dù rằng để có sức mạnh đó khơng thuần tuý chỉ
có hoạt động quân sự. Hơn nữa, để giành thắng lợi về mặt qn sự, thì ngồi hoạt
động qn sự, chiến đấu vũ trang, cịn có các hoạt động khác phối hợp như đấu
tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, công tác an ninh nội bộ, công tác tình báo
chiến lược v.v. Đối với quân đội ta, cùng với chức năng chiến đấu cịn có chức năng
cơng tác, chức năng sản xuất. Quân đội không chỉ chiến đấu trên các chiến trường
mà cịn tham gia ổn định chính trị, xây dựng hậu phương.
Quân đội ta là đội quân chính trị đặc biệt, ta phải chiến đấu chống chiến lược
"diễn biến hồ bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ của kẻ địch. Trong chiến lược mới,
các thế lực thù địch dùng phương thức phi vũ trang là chính để thơn tính, xâm lược
hịng giành được những mục tiêu mà chúng không giành được trong chiến tranh
xâm lược trước đây. Chúng triển khai chiến lược chống phá nước ta trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hố, tư tưởng. Trong chiến lược đó, mũi
nhọn chống phá của chúng là chính trị - tư tưởng và quân đội nhân dân được coi là
một trong những đối tượng chủ yếu. Trong cuộc chiến tranh này, nếu qn đội
khơng chuẩn bị cho mình hoạt động qn sự mới thì có khi qn đơng, vũ khí hiện
đại, được xây dựng chính quy vẫn khơng hồn thành được nhiệm vụ chiến đấu của
mình. Sự sụp đổ của Liên Xơ đã cho ta một bài học sâu sắc: một quân đội hùng
mạnh vào bậc nhất, nhì thế giới với quân số vài triệu người và số lượng, chất lượng
vũ khí đủ đọ sức với Mỹ mà bất lực trước chiến lược tấn cơng mới của kẻ thù; thậm
chí trước giờ phút quyết định sự sống còn của chế độ XHCN Xơ Viết, qn đội đó
đã mất phương hướng chính trị, rã rời về tổ chức và mất sức chiến đấu từ bên trong.
Sự phát triển mới về chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta đang đặt ra yêu cầu
phải có một quan niệm mới về hoạt động quân sự đặc thù của quân đội ta; hoạt
động quân sự đó phải bao hàm sức mạnh đấu tranh vũ trang và sức mạnh đấu tranh
chính trị- tư tưởng.
Từ nhận thức mới về hoạt động quân sự của quân đội ta như vậy, địi hỏi phải có
sự phát triển mới trong cơ cấu nội dung và các yếu tố cơ bản tạo thành hoạt động quân
sự của quân đội. Các nhà lý luận quân sự mác-xít về chiến tranh và quân đội đã nêu

rất đúng về các yếu tố cơ bản tạo thành hoạt động quân sự của quân đội, bao gồm tổng
hợp các yếu tố: số lượng quân nhân và trạng thái chính trị " tinh thần, kỷ luật của họ;
13


tổ chức biên chế; số lượng và chất lượng của vũ khí, trang bị kỹ thuật; trình độ kỹ
thuật, chiến thuật và thể lực của bộ đội; khoa học và nghệ thuật quân sự; trình độ tổ
chức chỉ huy của đội ngũ cán bộ.
Hiện nay, hoạt động quân sự của quân đội ta hiện nay cần phải được bổ sung
thêm những nội dung mới, nhất là về phương diện sức mạnh chính trị- tư tưởng. Theo
chúng tơi, một quan niệm tương đối hoàn chỉnh hơn về hoạt động quân sự của quân
đội ta là: tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần nói lên trình độ sẵn sàng chiến đấu
và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ đấu tranh vũ trang và đâú tranh chính trị- tư
tưởng của quân đội. Cụ thể, các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành hoạt động quân
sự của quân đội đó là: số lượng quân nhân với thể lực, trạng thái chính trị-tinh thần,
bản lĩnh chính trị và kỷ luật của họ, tri thức về chiến lược, sách lược cách mạng, về
kinh nghiệm nghệ thuật đấu tranh chính trị- tư tưởng, khoa học và nghệ thuật quân sự,
kỹ thuật, ký năng chiến đấu của bộ đội,biên chế tổ chức quân sự, vũ khí và trang bị kỹ
thuật, trình độ, bản lĩnh lãnh đạo, chỉ huy của đội ngũ cán bộ.
Nêu lên quan niệm mới về hoạt động quân sự của quân đội ta trên đây không
chỉ nhằm vạch ra những nội dung phải xây dựng để taọ ra hoạt động quân sự mới
mà chủ yếu nhằm làm sáng tỏ phạm vi nhân tố con người và vai trị của nó trong
hoạt động quân sự của quân đội ta ngày nay. Điều đó cho phép khẳng định: chủ thể
sáng tạo trong hoạt động quân sự, tạo ra hoạt động quân sự là những quân nhân,
những người trong quân đội – những "con người thực tiễn" qn sự. Sẽ vơ cùng phi
lí nếu tách các yếu tố tạo thành hoạt động quân sự khỏi nhân tố con người, tách
nhân tố con người khỏi những điều kiện vật chất, điều kiện khoa học kỹ thuật nhất
định. Sự phi lý đó cũng tựa như đem tách con người khỏi lực lượng sản xuất để nói
khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
Hiệu quả hoạt động quân sự là thước đo bản lĩnh chiến đấu và năng lực quân

sự- chính trị của quân nhân, là thước đo ý chí, trí tuệ và hành động tích cực, sáng tạo
của họ, biểu hiện trong hoạt động chiến lược, chiến dịch và trận chiến đấu, thực hiện
các mục tiêu của đấu tranh vũ trang, của chiến tranh, của công cuộc bảo vệ Tổ quốc.

14


Vì vậy, sự phát triển của phát huy nhân tố con người có ý nghĩa quyết định
đối với việc nâng cao hoạt động quân sự, bảo đảm cho quân đội có khả năng đấu
tranh vũ trang và đấu tranh chính trị- tư tưởng, hồn thành các nhiệm vụ chính trịqn sự trong giai đoạn mới.
Quân đội ta đã được Bác Hồ khen tặng là: "nhiệm vụ nào cũng hồn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Có được thành tích đó
là do các thế hệ cán bộ, chiến sỹ chúng ta tôi luyện được phẩm chất chiến đấu đó.
Trong đó, hàng đầu là phẩm chất chính trị - đạo đức, mà Bác Hồ cũng đã xác định
là: "... trung với Nước, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH". Phát huy nhân tố con người như vậy trong
sự phát triển của nó đã tạo cho quân đội ta ưu thế để chiến thắng qn thù có số
lượng đơng và trang bị vũ khí hiện đại hơn ta. Hiện nay, chúng ta chủ trương tinh
giản biên chế, gắn liền với nâng cao một bước chất lượng tổng hợp và hoạt động
quân sự của quân đội nhân dân.
Sự phân tích trên đây về nhân tố con người trong hoạt động quân sự để chứng
minh vai trị chủ thể của con người trong đó, đồng thời cũng đặt ra vấn đề phải
chứng minh vai trò nhân tố con người ở tính quyết định của con người trong quan hệ
với các yếu tố hợp thành hoạt động quân sự của quân đội, nhất là vũ khí, trang bị. ở
đây, có sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố con người và vũ khí, trang bị trong tạo
thành hoạt động qn sự. Con người phải có trình độ hiểu biết, tính năng, tác dụng
của vũ khí, trang bị để không những làm chủ, sử dụng tinh thông mà còn sáng tạo ra
cách đánh phù hợp để phát huy tối đa hiệu quả của chúng. Dù vũ khí, trang bị là cơ
sở vật chất tạo thành hoạt động qn sự phải thơng qua con người, thì chúng ta cũng
không thể coi hoạt động quân sự quy lại chỉ còn là chất lượng con người, tức phẩm

chất chiến đấu của nó. Bởi vì, vũ khí trang bị dù chịu sự chi phối của quân nhân và
do con người sáng tạo ra, nhưng nó có tính độc lập tương đối là một tác nhân khách
quan đối với sự phát triển của hoạt động quân sự. V.I.Lê-nin viết: "Một quân đội giỏi
nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị
kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy
đủ". Khi một loại trang bị vũ khí mới đưa vào sử dụng, làm thay đổi nghệ thuật quân
15


sự, thì nó buộc con người phải phát huy để sử dụng, làm chủ, thậm chí thay đổi cả
một số chức năng hoạt động của người lính, tạo nên hoạt động quân sự mới.
Khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người trong hoạt động quân sự
không phải là xem nhẹ yếu tố vũ khí, trang bị, kỹ thuật. Vấn đề là,dù trong hồn
cảnh nào thì con người vẫn là yếu tố động nhất. Nếu trước đây việc chuyển đổi một
thế hệ vũ khí này sang thế hệ vũ khí khác phải mất khoảng 20 năm, thì ngày nay điều
đó diễn ra chỉ trong vịng từ 3 đến 5 năm. Trong khi đó, khối lượng tri thức mà con
người lựa chọn, xử lý chỉ tính bằng khoảng thời gian rất ngắn. Sự vươn lên để hồn
thiện mình về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phương pháp v.v... luôn thơi thúc con người
tìm tịi sáng tạo. Càng dùng kỹ thuật để thay thế sức người thì con người càng giữ
vai trị to lớn, con người ln giữ vai trị là chủ thể sáng tạo và sử dụng kỹ thuật.
Nhân tố con người là chủ thể, là nhân tố quyết định trong hoạt động quân sự;
điều đó đã được chứng minh trong lịch sử và sẽ hoàn toàn đúng cả trong hiện tại và
tương lai.
Tóm lại, nhân tố con người ln giữ vai trị chủ đạo, quyết định trong hoạt động
quân sự của quân đội ta. Trong tình hình hiện nay, vai trị đó ngày càng tăng lên, điều
đó đặt ra vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách phải phát huy nhân tố con người để đáp
ứng yêu cầu xây dựng hoạt động quân sự mới của quân đội ta hiện nay.
2.2. Sự cần thiết phát huy nhân tố con người trước yêu cầu phát triển mới
của quân đội ta hiện nay
Việc đòi hỏi cấp bách phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự của

quân đội ngày nay là do yêu cầu của thực tiễn phát triển hoạt động quân sự của
quân đội lên một trình độ mới, theo hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong chống
“diễn biến hồ bình”, chống bạo loạn, lật đổ của kẻ thù và trong các tình huống
khác nhau của xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược.
Dưới đây là những vấn đề cụ thể quy định tính cấp bách của việc phát huy
nhân tố con người của quân đội ta ngày nay.
2.2.1. Phát huy nhân tố con người trước yêu cầu phát triển mới của vũ khí,
trang bị, kỹ thuật.
16


Quân đội ta dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, đã đánh bại
quân đội của các đế quốc lớn với trang bị vũ khí kém hơn quân đội địch. Nhưng
nếu chúng ta thoả mãn, dừng lại ở những gì ta có trong hoạt động qn sự ở hai
chục năm về trước thì khơng hẳn chúng ta có thể giữ được niềm vinh quang của
người chiến thắng trong các cuộc chiến tranh tương lai, nếu kẻ địch liều lĩnh hoặc
có thời cơ tấn cơng ta bằng qn sự. Nguy hiểm hơn là bị chúng tấn công làm tha
hố, mất sức chiến đấu, bị vơ hiệu hố trong “diễn biến hồ bình”.
Từ tình hình thực tế về sự phát triển trang bị vũ khí của quân đội các nước lớn
như thế, không phải với dụng ý đặt vấn đề cho quân đội ta phải được trang bị tương
đương để đối phó trong chiến tranh. Trước mắt, chúng ta chưa có điều kiện để có
vũ khí trang bị kỹ thuật tương đương với đối phương. Hơn nữa, nếu đã có nền kinh
tế phát triển cao, có lẽ chúng ta cũng khơng tìm cách để trang bị vũ khí như những
quân đội đi xâm lược. Tuy vậy, Đảng và Nhà nước ta phải giải quyết thoả đáng mối
quan hệ giữa đầu tư phát triển đất nước, cải tạo đời sống nhân dân và củng cố quốc
phòng an ninh, tạo cho quân đội có được sự cải tiến trang bị vũ khí theo hướng hiện
đại hố phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Điều này có tác động
ngay đến nhân tố con người, đòi hỏi cán bộ chiến sỹ chúng ta phải vươn tới sử
dụng thành thạo và bảo quản được những phương tiện chiến đấu mới đó, đồng thời

sáng tạo cách đánh mới. Đó cũng là đòi hỏi nhằm phát huy nhân tố con người, nâng
cao phẩm chất chiến đấu của cán bộ, chiến sỹ.
Việc phát huy nhân tố con người của quân đội ta cịn từ thực tế về trang bị vũ
khí của qn đội đối phương và về kinh nghiệm mà chúng ta đã tổng kết được.
Chúng ta phải quan tâm phát huy tối đa nhân tố con người trong xây dựng hoạt
động quân sự, mới bảo đảm được yêu cầu của bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới
của thế giới, đang có những biến đổi nhanh chóng của quân đội các nước, đặc biệt
là quân đội được xác định là đối tượng tác chiến tương lai của quân đội ta.
Chiến tranh hiện đại sẽ vô cùng quyết liệt. Chúng ta kiên định nguyên tắc
phương pháp luận: Con người là chủ thể của q trình chiến đấu, của vũ khí và các
phương tiện vật chất khác. Sự phát triển của công nghệ hiện đại ngày nay chỉ có thể
17


làm tăng lên gấp nhiều lần sức mạnh cuả con người, nhưng hồn tồn khơng thay
thế được con người. Những cuộc chiến đấu giữa các khí tài điện tử, thậm chí giữa
các “Rơ-bốt chiến đấu” như các nhà qn sự dự báo, thực chất cũng là những cuộc
đấu trí, đấu lực, đấu cân não giữa con người của hai bên đối chiến.
Do đó, cần thấy được tính chất ác liệt của chiến tranh trong tương lai nếu xảy
ra, để kịp thời phát huy cho nhân tố con người của chúng ta. Cuộc chiến đòi hỏi cán
bộ, chiến sỹ chúng ta chẳng những phải rất cao về dũng khí về ý chí quyết chiến,
quyết thắng và một sức chịu đựng dẻo dai về thể lực, mà còn phải phát huy những
yêu cầu khác của phẩm chất chiến đấu để đánh thắng kẻ thủ trong hồn cảnh qn
đội ta với vũ khí ta đang có, vẫn kém hiện đại hơn quân đội đối phương nhiều lần.
Vậy là, việc nâng cao hơn nữa phát huy nhân tố con người để phát huy thế
mạnh vốn có của quân đội ta lên tầm cao mới nhằm tạo nên hoạt động qn sự mới
là có tính khách quan. Phát huy thế mạnh vốn có đó của quân đội ta lại cũng gắn
với việc nắm bắt và khoét sâu những điểm yếu của quân đội đối phương là ở nhân
tố con người. Điểm yếu chí mạng của quân đội đối phương là ở nhân tố con người.
Để khoét sâu điểm yếu về con người của quân đội đối phương thì rõ ràng, nhân tố

con người của quân đội ta phải có chất lượng cao hơn con người qn đội đối
phương trong cuộc chiến tranh có vũ khí cơng nghệ cao, mà vũ khí của ta kém hiện
đại hơn vũ khí của qn đội đối phương.
Vì vậy, nhân tố con người của quân đội ta không chỉ ưu thế về lý tưởng và ý
chí chiến đấu mà cịn phải biết các điểm yếu của địch về vũ khí, trang bị kỹ thuật,
từ đó có cách đánh mưu trí có hiệu quả.
Ngày nay, nhờ sự phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, đã làm cho các
quân đội hiện đại được trang bị hệ thống chỉ huy tự động hố, các phương tiện
thơng tin và trinh sát tối tân. Cuộc chiến tranh điện tử để nghi binh, đánh lừa đối
phương diễn ra tinh vi, phức tạp. Để đối phó thắng lợi, quân đội ta vẫn phải kết hợp
ý chí và trí tuệ, cán bộ chiến sỹ ta, một mặt khơng để quan điểm “vũ khí bất khả
kháng” chi phối, đi đến tuyệt đối hoá sức mạnh các phương tiện địch sẽ sử dụng
đánh ta; mặt khác phải có trình độ hiểu biết nhất định để phát hiện điểm mạnh,
điểm yếu của các phương tiện đó mà sáng tạo cách đánh có hiệu quả.
18


Ngồi ra vũ khí chính xác cao cịn chịu ảnh hưởng của những yếu tố về địa
hình, thời tiết và cách đánh của đối phương. Vì vậy, nếu con người biết khai thác
những hạn chế của nó, thì sẽ tìm được những phương pháp đối phó có hiệu quả,
ngay cả khi điều kiện vũ khí kỹ thuật trang bị cịn hạn chế. Bất cứ quốc gia nào
cũng có khả năng tìm kiếm những phương án thích hợp, phù hợp với điều kiện kinh
tế, địa lý, khoa học kỹ thuật quân sự, với những con người dũng cảm, năng động,
sáng tạo để đối phó có hiệu quả với chiến tranh kỹ thuật cao.
Những yếu tố bí mật, bất ngờ vẫn có giá trị cao trong chiến tranh điện tử.
Những yếu tố ấy thuộc về con người. Nhưng con người phải có tri thức về điện tử,
kết hợp với tinh thần dũng cảm chiến đấu mới thực hiện được bí mật, bất ngờ trong
tác chiến hiện đại.
Những luận giải trên đây, rõ ràng trực tiếp hoặc gián tiếp đặt vấn đề cho quân
đội ta phải cấp bách phát huy nhân tố con người, bảo đảm cho cán bộ chiến sỹ

chúng ta làm chủ được trang bị vũ khí kỹ thuật ta có, chủ động trong chiến đấu, bắt
địch bị động theo cách đánh của ta, không bị bất ngờ mà kịp thời đối phó với các
phương tiện chiến tranh lần đầu địch đưa ra chiến trường. Chúng ta phải đánh giá
lại phẩm chất chiến đấu hiện nay của cán bộ chiến sỹ chúng ta từ góc độ làm chủ
trang bị vũ khí kỹ thuật, để quan tâm đến việc phát huy con người trong khi thực
hiện chương trình, kế hoạch xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Đó là một chất lượng tồn diện cả về chính trị, đạo đức, kỹ
năng, nghệ thuật tác chiến, tâm lý và thể lực.
2.2.2. Phát huy nhân tố con người trước yêu cầu hoạt động quân sự của quân
đội ta chống chiến lược "diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch.
Chúng ta đã biết, ngày nay đế quốc Mỹ đang triển khai một chiến lược phức
hợp chống Tổ quốc Việt Nam XHCN của chúng ta. Nội dung cơ bản của chiến lược
đó là: “diễn biến hồ bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, kết hợp với răn đe quân sự,
can thiệp vũ trang từ bên ngồi vào và khi có điều kiện thì phát động chiến tranh
xâm lược ở các quy mô khác nhau, nhất là quy mơ nhỏ, vừa, chớp nống hịng xố
bỏ CNXH, thủ tiêu độc lập dân tộc của Tổ quốc ta.
19


Mục tiêu của chiến lược này là xoá bỏ CNXH ở nước ta. Nhưng, mặt trận chủ
yếu là chính trị-tư tưởng và văn hoá; mặt trận hỗ trợ rất quan trọng là kinh tế, qn
sự đóng vai trị răn đe, hậu thuẫn để nếu bằng diễn biến hồ bình thuần t, hoặc
diễn biến hồ bình kết hợp bạo loạn, lật đổ thất bại thì chúng có thể chuyển sang
dùng chiến tranh xâm lược hòng thực hiện mục tiêu.
Nếu đối tượng của “diễn biến hồ bình” là con người, với một bề rộng tác động
đến mọi con người trong mọi tổ chức của xã hội và một chiều sâu nhằm vào lực lượng
nòng cốt từ chỗ cơ sở đến cấp cao nhất của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trịxã hội khác, thì đối với qn đội, nó đánh vào mọi quân nhân nhằm gài được lực
lượng đối lập vào bộ máy lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cho đến bộ chỉ huy tối cao.
Thâm độc hơn, kẻ thù còn thực hiện âm mưu chia rẽ, đi đến đối lập quân đội

với nhân dân, với các Đảng bộ và chính quyền địa phương. Chúng lợi dụng những
sự kém hiểu biết của cán bộ và chiến sỹ chúng ta về phong tục, tập quán của các
dân tộc ít người, về lễ nghi và những cấm kỵ của những tôn giáo, về cả luật pháp
nữa, châm ngòi gây các vụ xung đột cục bộ đây đó trong nhiều vùng của đất nước
để làm mất uy tín “Bộ đội Cụ Hồ”. Chiến lược “diễn biến hồ bình”, cịn âm mưu
đẩy những cá nhân cán bộ, chiến sỹ sống sa đoạ, biến chất, khơng cịn nhân cách
qn nhân và bị chuyển hóa thành “tự diễn biến”; bộ phận này hay bộ phận kia của
qn đội rệu rã, khơng đảm nhận được vai trị là công cụ bạo lực tin cây của Đảng,
Nhà nước và nhân dân.
Vậy là, “cuộc chiến hồ bình”, “cuộc chiến đánh vào lịng người” này nhằm
vào mục tiêu chính là đánh thẳng vào nhân tố chủ đạo và quyết định hoạt động
quân sự của quân đội ta. Nếu để cho kẻ địch thực hiện được các âm mưu, thủ đoạn
của nó thì qn đội ta sẽ thất trận, bị đánh bại trong cuộc chiến hiểm độc này của
kẻ thù ngay trong thời bình, khơng có sức chiến đấu để bảo vệ chế dộ, bảo vệ
Đảng, bảo vệ nhân dân, để đối phó với “chiến tranh nóng” ở các quy mơ dự kiến.
Những luận giải trên đây về chiến lược mới của kẻ thù chống Tổ quốc và nhân
dân ta, đã minh hoạ thêm sự mở rộng nội hàm của khái niệm hoạt động quân sự của
quân đội ta bao hàm sử dụng “vũ khí” về chính trị-tư tưởng như đã nêu ở trên.
Nhưng chủ yếu là để khẳng định, ngày nay chúng ta phải quan tâm hơn nữa phát huy
20


nhân tố con người, tạo cho quân đội ta một hoạt động quân sự toàn diện, đảm bảo
đánh thắng kẻ thù khơng chỉ trong chiến tranh nóng, mà trước hết làm thất bại chiến
lược “diễn biến hồ bình”. Chất lượng con người trong quân đội phải tinh nhuệ trong
đấu tranh vũ trang và vững vàng, sắc bén trong đấu tranh chính trị-tư tưởng. Nếu
trong đấu tranh vũ trang, tất cả phẩm chất chiến đấu của cán bộ, chiến sỹ dồn vào
đánh thắng đối phương thực hiện thắng lợi nhiệm vụ qn sự, thì trong đấu tranh
chính trị, tư tưởng là làm vơ hiệu hố, làm phá sản các âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù đánh ta trên mặt trận chính trị-tư tưởng, văn hố, lối sống.

Trên mặt trận chính trị-tư tưởng, kẻ thù có thể nhanh chóng rút kinh nghiệm
“tác chiến”, thay đổi thủ đoạn, phương tiện. Chúng chi phí hàng tỷ đô la với một
đội ngũ đông đảo tri thức làm thủ sẵn sàng sản xuất ra các luận điệu, các nguỵ
thuyết, phục vụ cho chiến tranh tâm lý. Bằng cách đó, chúng hy vọng làm cho
chúng ta khơng đối phó kịp với sự tiến cơng của chúng.
Một nhân tố con người đáp ứng yêu cầu của hoạt động qn sự trong “tác chiến”
chính trị-tư tưởng, văn hố và khơng ngừng mài sức vũ khí đó. Sự thoả mãn, dừng lại
trong bồi đưỡng con người về chính trị tư-tưởng trong quân đội ta, dù ở mức độ nào,
cũng có tác dụng tiêu cực, làm tụt hậu phát huy nhân tố con người trong quân đội, khi
kẻ thù tư duy thực dụng, không ngừng rút kinh nghiệm tiến công ta bằng “diễn biến
hồ bình”, thì rõ ràng là một nguy cơ cho đất nước và chế độ ta.
Thực tế hiện nay, tồn qn đang tích cực triển khai cuộc tiến cơng địch trên
mặt trận chính trị- tư tưởng. Cán bộ làm cơng tác Đảng- cơng tác chính trị và các
cơ quan chính trị trở thành lực lượng tham mưu thường trực giúp tổ chức lãnh đạo,
chỉ huy các cấp tổ chức, điều hành đơn vị chiến đấu trên mặt trận nóng bỏng này.
Đã có những đơn vị hồn thành xuất sắc nhiệm vụ. Việc xác định những phương
án, sử dụng lực lượng, phương thức, sự phối hợp cùng các cơ quan Dân- ChínhĐảng để tác chiến cịn nhiều lúng túng. Trình độ nhận thức của cán bộ, chiến sỹ về
mặt trận mới này cịn mơ hồ, kém cảnh giác, trình độ sử dụng “vũ khí chính trị- tư
tưởng”; sự hiểu biết về chiến lược của Đảng, pháp luật, tôn giáo, phong tục tập
quán của các dân tộc; sự nhạy bén chính trị, bản lĩnh cá nhân độc lập “tác chiến”...

21


còn nhiều hạn chế. Đây là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn đặt ra phải phát huy nhân
tố con người trong xây dựng sức mạnh chiến đâu mới của quân đội.
Do đó, việc đẩy mạnh hoạt động quân sự đối phó với chiến tranh xâm lược trong
tương lai, phải đảm bảo cho phát huy nhân tố con người không phải chỉ từ địi hỏi
phía phát triển trang bị vũ khí hiện đại của qn đội đối phương, mà cịn do địi hỏi
phải đánh thắng tâm lý chiến của nó, làm phá sản học thuyết chiến tranh của chúng.

Dĩ nhiên, nhân tố con người được bồi dưỡng và từng trải trong cuộc chiến
chống “diễn biến hồ bình” là đã tạo niềm năng cho phát huy nó trong chiến tranh
tương lai, mặc dầu, trong chiến tranh đặt ra những yêu cầu mới cho phát triển nhân
tố con người. Do đó, phải đặt ra vấn đề phát huy nhân tố con người trong xây dựng
quân đội ta hiện nay là vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách để quán triệt sâu sắc hơn
yêu cầu xây dựng quân đội toàn diện, trên cơ sở xây dựng về chính trị.
2.2.3. Phát huy nhân tố con người trước thực trạng tình hình nhân tố con
người của quân đội ta
Việc phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự cuả quân đội ta,
không phải vì có sự sa sút nghiêm trọng về phẩm chất chiến đấu của đội ngũ sỹ
quan, chiến sỹ và viên chức quốc phịng đến mức qn đội khơng đủ sức chiến
đấu để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Trong tình hình diễn biến phức
tạp của đất nước, của cục diện chính trị thế giới, quân đội ta đã đứng vững và thực
sự là một lực lượng nòng cốt trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững sự ổn định chính trị của
đất nước, củng cố hồ bình v.v...; qn đội vẫn là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà
nước và của nhân dân.
Hiện nay, trong quá trình bàn giao thế hệ, một vấn đề nẩy sinh phải giải quyết
do có sự biến động lớn về nhân sự ảnh hưởng đến phát huy nhân tố con người.
Trong khi đó yêu cầu phải thường xuyên củng cố và phát triển chất lượng ấy đảm
bảo chất lượng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Giải quyết mâu thuẫn
đó phải bằng sự chuyển tiếp liên tục, tự nhiên, giữa các thế hệ cán bộ một cách
đồng bộ, nhằm khắc phục tình trạng hẫng hụt về chất lượng tuy mang tính cục bộ

22


nhưng ở cấp nào cũng có, khơng chỉ ở năng lực và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy
đơn vị mà cịn cả ở phẩm chất chính trị- đạo đức.
Vấn đề động cơ phục vụ trong quân đội của đội ngũ sỹ quan thực sự là một

vấn đề cấp bách phải giải quyết. Để giữ vững và phát triển phẩm chất chiến đấu,
cán bộ, sỹ quan phải trước hết xác định đúng động cơ phục vụ quân đội lâu dài trên
cơ sở giác ngộ lý tươngr vì độc lập đan tộc và CNXH và ý thức sâu sắc về nghĩa vụ
công dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy gần đây do chính sách đối với
qn đội có sự đổi mới; trong khi đó xã hội cịn thiếu việc làm, việc học hành ở các
trường đại học ngoài quân đội rất tốn kém và chưa đảm bảo chắc chắn có nghề
nghiệp sau khi ra trường, số lượng thanh niên đăng ký thi vào các trường sỹ quan
tăng lên gấp nhiều lần, nhưng chưa thể quá lạc quan về động cơ lý tưởng vì nước,
vì dân của đội ngũy quan trẻ được đào tạo ra đó.
Một bộ phận tuy nhỏ, nhưng có cả cán bộ cao cấp đã giảm sút phẩm chất
chính trih-đạo đức, thậm chí thối hố, biến chất, làm tổn hại chất lượng nhân tố
con người trong quân đội. Trong tình hình nền kinh tế thị trường tác động vừa tích
cực, vừa tiêu cực vào quân đội,; những tiêu cực xã hội đã len vào quân đội, lại được
những lực lược chủ mưu chiến lược diễn biến hoà bình lợi dụng tiến cơng vào con
người trong qn đội. Hiện tượng giảm sút phẩm chất chính trị- đạo đức đó đang là
mối đe doạ, thách thức đối với chất lượng nhân tố con người trong quân đội ta
(hằng năm các vụ vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, vi phạm pháp luật vẫn xẩy ra với
tỷ lệ cao – nguồn tổng hợp Thơng tin nội bộ hàng tháng). Điều đó đã nói lên hiện
tượng giảm sút phẩm chất đó khơng chỉ là ở từng cá nhân quân nhân riêng lẻ và dĩ
nhiên không chỉ là chiến sỹ. ở những đơn vị có những vụ việc như thế, khơng thể là
những tổ chức chiến đấu mạng và dĩ nhiên phát huy nhân tố con ngưởi trong hoạt
động quân sự ở đây khơng cịn giữ vững được.
Hiện tượng bất cập về trình độ của sỹ quan trước yêu cầu xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong bối cảnh đất nước đẩy
mạnh cộng nghiệp hoá, hiện đại hố, đang được giải quyết tích cực trong thực hiện
chủ trương đại học hố đội ngũ sỹ quan. Trình độ học vấn thấp đã cản trở đến việc
làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật và thiếu vững vàng sắc bén sử dụng vũ khí chính
23



trị- tư tưởng để chủ động tiến công kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hồ bình”
đang diễn ra.
Đội ngũ cán bộ chính trị làm nịng cốt, cơ quan chính trị đồng thời là cơ quan
tham mưu cho quân đội tác chiến trên mặt trận chính trị- tư tưởng. Nhưng đội ngũ cán
bộ chính trị ở cơ sở chưa thực hiện tốt chức trách của mình, cịn chiếm tỷ lệ cao. Theo
điều tra xã hội học của Học viện Chính trị- quân sự về hoạt động công tác Đảng- công
tác chính trị thì cũng chỉ có 10- 20% đạt loại giỏi, khó khăn lúng túng từ 20-30%, yếu
khoảng 10%. Quan trọng hơn là đang tồn tại tình hình nhiều sỹ quan trẻ khơng muốn
chuyển loại sang làm cán bộ chính trị (theo tài liệu của Cục cán bộ; trong năm 1995
chỉ thực hiện được 57% chỉ tiêu chuyển loại, trong đó khơng ít trường hợp, thủ trưởng
cấp trên phải giao nhiệm vụ bằng mệnh lệnh, mới chấp hành).
Phương thức để giữ được chất lượng chiến đấu, truyền thù kinh nghiệm chiến
đấu qua sự thay thế nhau của các thế hệ cán bộ, chưa định hình rõ nét. Trong điều
kiện hồ bình được giữ vững, số cán bộ trực tiếp tham gia chiến đấu sẽ giảm dần
(hiện nay trong toàn quân còn giữ được 35,3% số cán bộ đã qua chiến đấu - theo
đánh giá Nghị quyết 93 của Đảng uỷ quân sự Trung ương). Tính cấp bách phát huy
nhân tốn con người hiện nay, có vấn dề đặt ra phải giữ vững, phát huy không để
mai một mất chất chiến đấu. Phải khẩn trương tổ chức để khai thác, tổng kết, từ trí
tuệ, kinh nghiệm thao lược, kinh nghiệm chiến đấu của những cán bộ, sỹ quan đã
qua chiến đấu đang tại ngũ và đông đảo cựu chiến binh để truyền thụ cho thế hệ kế
tục trong quân đội.
Chất lượng nhân tố con người không chỉ ở đội ngũ cán bộ,sỹ quan mà còn ở
đại đa số hạ sỹ quan, chiến sỹ. Tình hình “nín thở qua sơng” trong thực hiện nghĩa
vụ quân sự còn khá phổ biến trong chiến sỹ nghĩa vụ quan sự. Thậm chí, tỷ lệ vắng
mặt khơng lý do cịn cao, hiện tượng đào ngũ chưa chấm dứt. Có đơn vị như qn
khu IX, qn đồn 3, có thời điểm tỷ lệ đến trên dưới 20%.
Nghiêm trọng hơn là tăng lên các hiện tượng vô kỷ luật, thiếu trách nhiệm làm
mất an toàn, cháy nổ vũ khi, kho tàng; hiện tượng trộm cắp, chiếm đoạt tài sản
tang; chiến sỹ vi phạm kỷ luật, các vụ gây rối trận tự công cộng, đánh nhau; quân
nhân vi phạm pháp luật, tang trữ sử dụng ma túy trong những năm gần đây còn cao.

24


Những hiện tượng này đang ảnh nghiêm trọng đến phát huy nhân tố con người
trong quân đội. Thực trạng tình hình trên đây đang mâu thuẫn với địi hỏi phát huy
nhân tố con người trong hoạt động quân sự.
Tóm lại, tình hình khách quan trên đây đặt nhân tố con người trước yêu cầu
phát triển của hoạt động quân sự, của chức năng nhiệm vụ mới của quân đội, trước
yêu cầu của sự phát triển của vũ khí, trang bị, kỹ thuật; trước yêu cầu xây dựng sực
mạnh chiến đấu của bản thân con người trong sự nghiệp xây dựng vào bảo vệ Tổ
quốc; và trước thực trạng của nhân tố con người trong qn đội cịn có những bất
cập, hạn chế. Điều đó khẳng định rằng: việc phát huy nhân tố con người trong xây
dựng hoạt động quân sự của quân đội ta ngày nay là điều tất yếu, vừa cơ bản, vừa
thực sự cấp thiết.
2.3. Một số giải pháp phát huy nhân tố con người trước yêu cầu phát triển
mới của hoạt động quân sự hiện nay
2.3.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo, chú trọng phát triển khoa học
và công nghệ hiện đại trong lĩnh vực quân sự.
Tập trung chỉ đạo nghiên cứu, hoàn thiện bộ máy lực lượng Quân đội nhân
dân; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW (khóa XI) về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội XI khẳng định: “Phát triển
kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; xây dựng
đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ thông tin, truyền
thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao”. Nhanh chóng triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Chủ động, nhạy bén trong tham mưu cho
Đảng, Nhà nước những chủ trương, giải pháp chiến lược đúng đắn, kịp thời xử lý
thắng lợi các tình huống xảy ra, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, đồng thời

giữ vững được mơi trường hịa bình để xây dựng và phát triển đất nước. Nhân tố
con người trong hoạt động quân sự ngày càng phải tham mưu cho Đảng, Nhà nước
và theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các cấp, các ngành, cấp ủy Đảng, chính quyền địa
25


×