Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác lê NIN về NGUỒN gốc bản CHẤT CON NGƯỜI và vấn đề PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI TRONG nền KINH tế TRI THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.08 KB, 18 trang )

THU HOẠCH 5B
MÔN: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊC SỬ - LÝ LUẬN VẬN DỤNG

NỘI DUNG
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NGUỒN GỐC, BẢN
CHẤT CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
………………………………………………………………………................


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
I
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
4
NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1
2
3
II
1
2

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc con người

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất con người
Vai trò của con người
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC


Vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Vài nét về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam

4
5
7
7
7
9

Những giải pháp cơ bản phát huy và sử dụng có hiệu quả
3

nguồn nhân lực trí tuệ trong nền kinh tế tri thức Việt Nam

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

12
18
19


MỞ ĐẦU
Sự phát triển có tính bùng nổ của lực lượng sản xuất những năm gần
đây dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm biến
đổi sâu sắc nền kinh tế thế giới, tạo ra một bước ngoặt mới trong lịch sử phát
triển của nhân loại, hình thành nền kinh tế tri thức. Sự phát triển không ngừng
của xã hội từ thời đại văn minh này sang thời đại văn minh khác đã đặt ra yêu
cầu khách quan về tầm quan trọng của vấn đề phát huy nguồn nhân lực trí tuệ

trong sự phát triển xã hội. Nếu nhìn lôgíc của quy luật phát triển, giữa trí tuệ
con người và sự phát triển xã hội có sự tác động biện chứng với nhau. Xã hội
phát triển cả về vật chất lẫn tinh thần thì tất yếu sẽ kéo theo những biến đổi
trong ý thức và trí tuệ của con người từ thấp đến cao. Ngược lại, sự phát triển
về trí tuệ của con người sẽ giúp con người cải biến tự nhiên có hiệu quả hơn,
thúc đẩy xã hội tiếp tục phát triển ở trình độ cao hơn. Đồng thời với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, con người và xã hội loài người sẽ
vững bước vào kỷ nguyên mới, hướng tới phát triển mạnh mẽ về “kinh tế tri
thức”. Một đặc tính riêng biệt của nguồn lực trí tuệ gắn với tính trừu tượng
trong tư duy của con người.
Chính vì vậy, vấn đề phát huy và sử dụng có hiệu quả nhân tố con
người có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh
tế tri thức nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Để
phát huy và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả chúng ta phải hiểu được
nguồn gốc, bản chất của con người. Vậy, con người là gì, nguồn gốc, bản chất
con người ra sao? Vấn đề này được rất nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử đề
cập đến, trong đó, có chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đây chính là một trong những nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin và là vấn đề mang tính thời đại. Mặt khác nhận thức được nội hàm, vị
trí và ý nghĩa quan trọng của vấn đề này, Đảng ta khẳng định phát huy vai trò
nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Từ thực tiễn đó, bản thân chọn đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nguồn gốc, bản chất con người và vấn đề phát huy nhân tố con người
trong nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch.


I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ NGUỒN
GỐC, BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc con người
Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa triết học nhân loại, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Con người là một thực thể sinh vật - xã hội

(một sinh vật xã hội) có ý thức, biết lao động và có ngôn ngữ.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: con người là một
thực thể sinh vật - xã hội. Nghĩa là, phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con
người, mặt sinh vật luôn gắn bó với mặt xã hội trong một quan hệ thống nhất
không tách rời. Xét về mặt sinh vật, con người là một động vật cao cấp, là sản
phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, bộ óc của con người
là sản phẩm cao nhất của vật chất. C.Mác chỉ rõ: “Về mặt thể xác, con người
chỉ sống bằng sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, quần áo, nhà ở… về mặt thực tiễn, tính phổ biến của con người biểu hiện
ra chính ở cái tính phổ biến nó biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể vô cơ
của con người”1. Sự tồn tại bản tính tự nhiên (mặt tự nhiên) trong con người
là một tất yếu khách quan, với tất cả những đặc điểm sinh lý, cấu trúc cơ thể
và đều phải chịu sự chi phối nghiêm ngặt bởi những quy luật sinh học như:
đồng hoá và dị hoá, di truyền và biến dị, thích nghi với môi trường, trao đổi
chất. Đồng thời để tồn tại và phát triển con người cũng có đầy đủ những nhu
cầu thiết yếu như bất kỳ một động vật nào như: ăn, uống, đi lại, sinh đẻ con
cái. Tuy nhiên, khi xem xét con người, triết học Mác không chỉ xem xét mặt
tự nhiên (sinh vật) của con người, mà còn chỉ rõ chỗ khác biệt căn bản giữa
con người và con vật là ở mặt xã hội. Tức là, con người có tính xã hội, tồn tại
của con người là tồn tại mang tính xã hội. Bởi, bản thân hoạt động sản xuất
của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con
người không thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con
người khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của
nó, còn hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 42, tr.135.


Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của

con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người
không phải theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy
của con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là
trong hoạt động lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất thì ngôn
ngữ ra đời, mà ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy. Vì vậy, ngôn ngữ
xuất hiện có ý nghĩa quan trọng trong quá trình lao động sản xuất cũng như
trong phát triển của tư duy, của tình cảm và ý thức con người.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất con người
C.Mác chỉ rõ: “Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội”1.
Con người mà C.Mác đề cập ở đây không phải là con người chung
chung trừu tượng, mà là con người cụ thể, sống, hoạt động trong một xã hội
nhất định, trong một thời điểm lịch sử nhất định với một xã hội nhất định. Bản
chất con người chỉ được hình thành và bộc lộ ra trong toàn bộ những quan hệ
xã hội cụ thể. Đó là quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với
chính bản thân mình.
Trong quan hệ với tự nhiên, con người là chủ thể tái sản xuất ra giới tự
nhiên thông qua lao động sản xuất. Con người không phải là một sinh vật
thuần tuý mà là một thực thể sinh vật có ý thức, có khả năng sáng tạo theo
nhu cầu của mình, sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt của mình - đây là hoạt
động lịch sử đầu tiên để phân biệt con người và con vật. Ở con vật là sự kiếm
ăn những cái có sẵn trong tự nhiên. Còn ở con người để thoả mãn nhu cầu của
mình, con người đã sáng tạo ra những tư liệu sinh hoạt. Hoạt động lao động
sản xuất của con người là một hoạt động sáng tạo, không những chỉ là phương
tiện để duy trì sự sống mỗi cá nhân, mà còn là phương thức biểu hiện nội
dung sống, hoạt động sáng tạo của con người. Vì vậy, trong quan hệ với tự
nhiên, con người bằng hoạt động thực tiễn của mình, không chỉ cải tạo tự
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.11.



nhiên mà con tái sản xuất ra tự nhiên. C.Mác khẳng định: “Con vật chỉ tái sản
xuất ra bản thân nó, còn con người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”2.
Trong quan hệ với xã hội, toàn bộ hoạt động giao tiếp nhu cầu của con
người do ý thức chi phối đó là sự thoả mãn tính người (con vật chỉ thoả mãn
bản năng). Chính từ hoạt động lao động sản xuất con người đã chuyển sức
mạnh tự nhiên thành sức mạnh của mình bằng việc chế tạo ra công cụ lao động,
cải tạo tự nhiên theo yêu cầu của mình. Đồng thời con người cũng sáng tạo ra
những mối quan hệ giữa con người với con người như: quan hệ giai cấp, dân
tộc, gia đình… và những quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị… trong khi con vật
lại không có mối quan hệ này. Như vậy, tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho
con người khác con vật. Hoạt động của con người không phải là hoạt động
bản năng mà là hoạt động có ý thức. Tư duy của con người phát triển trong
hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là trong hoạt động lao động. Với ý
nghĩa như vậy chúng ta khẳng định rằng môi trường xã hội đã trực tiếp làm
nên bản chất của con người.
Trong quan hệ với chính bản thân mình; nhu cầu tự biểu hiện mình là
một nét đặc trưng bản chất của con người. Con người không bao giờ bằng
lòng với một cuộc sống tầm thường, vô vị. Ít nhất người ta cũng phải có một
vai trò nào đó, một đóng góp nào đó đối với người khác và đối với xã hội.
Con người thích in dấu vết lên tạo vật, muốn làm ra những sản phẩm (vật chất
tinh thần) được người khác thừa nhận. Chính nhu cầu này là động cơ thôi thúc
con người vươn tới những đỉnh cao về khoa học, nghệ thuật… Đây là những
biểu hiện bản chất mang tính xã hội của con người.
Hệ thống các mối quan hệ xã hội của con người được hình thành trong
quá trình con người tham gia hoạt động thực tiễn, tham gia vào đời sống xã
hội. Tổng hoà các mối quan hệ ấy đến lượt nó qui định lại đời sống xã hội,
bản chất xã hội của con người. Cả ba mối quan hệ đều mang tính xã hội, trong
đó quan hệ với xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt

động của con người. Việc xác định quan hệ xã hội là yếu tố cấu thành bản
2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 42, tr.137.


chất của con người, là cơ sở khoa học quan trọng để nhận thức đúng đắn về
con người - xã hội, để đi đến giải phóng con người. Do vậy, khi xem xét con
người cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn các quan hệ ấy. Nếu chỉ nhấn
mạnh mặt này hay mặt khác đều dẫn tới nhận thức sai lầm.
3. Vai trò của con người
Con người vừa là chủ thể của hoàn cảnh vừa là sản phẩm của hoàn
cảnh lịch sử, khả năng sáng tạo, cải tạo thế giới của con người là rất to lớn.
Bởi vì, nếu không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn
tại con người, do đó, con người là sản phẩm của lịch sử, quá trình tiến hoá lâu
dài của giới hữu sinh. Con người luôn là chủ thể của lịch sử xã hội, với tư
cách là thực thể xã hội con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,
cải tạo tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
Quán triệt vấn đề con người trong triết học Mác -Lênin là cơ sở khoa học để
giai cấp vô sản, nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới không ngừng đề ra
chiến lược giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột để tiến lên xây dựng một
xã hội thực sự dân chủ, văn minh và nhân đạo.
II. PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
1. Vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhân tố con
người nói chung và nguồn nhân lực tri thức nói riêng là nhân tố trung tâm, có
vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực
với tiềm năng tri thức là lợi thế cạnh tranh của các công ty, ngành về kinh tế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định sự thành công của quá

trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Quốc gia nào có chiến lược
đúng đắn trong việc phát huy nguồn nhân lực con người, chuẩn bị được nguồn
nhân lực chất lượng cao dựa trên nền tảng tri thức hiện đại thì nền kinh tế của


quốc gia đó sẽ tăng mạnh mẽ, có năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế toàn
cầu và phát triển bền vững.
Sinh thời, Bác Hồ từng nhấn mạnh rằng: cán bộ nếu chỉ có phẩm chất
đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu tri thức, kiến thức khoa
học, tức có đức mà không có tài, thì cũng chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên tòa
sen, không làm điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì có ích cho
đời. Sự yếu kém về trí tuệ sẽ là lực cản nguy hại đối với hoạt động của mỗi
người và đương nhiên ảnh hưởng nhất định đối với tổ chức, cơ quan. Năng
lực trí tuệ của con người hiện nay biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành
tựu khoa học để sáng chế ra kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Khả năng đó thể
hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo trình độ chuyên môn nghiệp
vụ... Yêu cầu nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng đòi hỏi trình độ chuyên môn hóa cao
của đội ngũ lao động. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: nguồn lao
động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo,
có nền văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ
là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế thì nguồn nhân lực luôn luôn
đóng vai trò quyết định. Vai trò quyết định được thể hiện như sau:
Thứ nhất, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao
là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã
hội. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và

tái tạo nguồn nhân lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ... có mối quan hệ nhân quả
với nhau nhưng trong đố nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi
phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.


Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi
Việt Nam bước vào đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế thì yêu cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự
thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần làm cho đất
nước phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng
cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững.
Thứ tư, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để hội nhập quốc tế.
Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam đang đứng trước nhiều
thách thức lớn, cần giải quyết.
Như vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực
chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền
vững đất nước.
2. Vài nét về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
Sau hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội
và từng bước hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự phát triển
nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009,
tổng số dân của Việt Nam là 85.846.997 người 3. Sau hơn 10 năm dân số
nước ta tăng thêm 9,523 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 952 nghìn
người. Với mức tăng dân số như vậy, Việt Nam đang trong giai đoạn “dân

số vàng” khi tỷ lệ dân số từ 15 - 59 tuổi chiếm 65,2% và được dự kiến sẽ
kéo dài khoảng 40 năm. Với những lợi thế của cơ cấu dân số hiện nay, mỗi
năm nước ta có thêm khoảng 1,5 - 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động
- đây là cơ hợi giúp cho việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh, đồng
3

Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr3.


thời cũng gây ra những áp lực đối với vấn đề việc làm và nâng cao thu nhập
của người lao động.
Về chất lượng, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có
tỷ lệ người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau 25
năm đổi mới, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nước ta
đã tăng từ 7,6 (năm 1986) lên 40% (năm 2010) 4. So với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, người Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt
trội như: thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt kỹ năng lao động,
đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là
lợi thế quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và
tham gia thị trường lao động quốc tế.
Tuy nhiên, đây cũng là một trong những thách thức bởi có một thực tế
rằng, dù có nguồn lao động dồi dào nhưng tỷ lệ lao động có trình độ, tay nghề
cao ở Việt Nam còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực cả về kiến thức
lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Tỷ lệ lao động không biết chữ là thấp, khoảng dưới
3,5%, nhưng tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo lại cao và chất lượng lao động
không đồng đều giữa các vùng. Trình độ học vấn của lực lượng lao động còn
thấp: năm 2009, lao động mù chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm 18,3%; lao
động tốt nghiệp trung học phổ thông mới chỉ đạt 25,6%. Thị trường lao động
còn bị chia cắt, phân mảng giữa nông thôn - thành thị, nhà nước - ngoài nhà

nước. So sánh với năm 2005 cơ cấu nguồn nhân lực phân theo ngành của
nước ta hiện nay cũng có sự thay đổi tích cực song nguồn nhân lực nước ta
chủ yếu được phân bố trong khu vực nông nghiệp chiếm 48,2%, nơi kỹ năng,
tay nghề, và trình độ của người lao động thường không cần cao. Lực lượng
lao động trong các khu công nghiệp và xây dựng chiếm 22,4%, dịch vụ
29,4%. Điều này phần nào phản ánh được nhu cầu lao động giản đơn, phổ
thông ở Việt Nam vẫn còn khá lớn.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển của
doanh nghiệp nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của các
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.153.


ngành dịch vụ và công nghiệp ngày càng tăng lên. Các doanh nghiệp trong
nước được thành lập mới ngày càng nhiều đã tạo ra một lượng cầu nhân lực
chất lượng cao ngày càng lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng thường ưu tiên
tuyển lao động chất lượng cao ngay tại Việt Nam vì lao động Việt nam là
người am hiểu thị trường, phong tục tập quán, có nhiều mối quan hệ và có
mức lương thấp hơn so với thuê lao động từ nước khác. Các doanh nghiệp
nước ngoài còn sẵn sàng trả mức lương cao hơn nhiều so với các doanh
nghiệp Việt Nam nhằm thu hút nhân tài. Do đó, sự cạnh tranh nguồn nhân lực
chất lượng cao ngày càng diễn ra gay gắt. Ở nước ta còn 60% lực lượng lao
động chưa qua đào tạo nên thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thành thạo
ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài. Việc bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Bên cạnh đó, tốc độ dịch chuyển lao động dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp còn chậm. Cơ cấu ngành còn bất hợp lý, năng suất lao động trong một
số ngành còn thấp như: nông nghiệp, làng nghề5.
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song cơ bản

cho đến nay nước ta cơ bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thu nhập
bình quân đầu người mới đạt 1.169 USD (chuẩn mới về thu nhập của quốc tế
được coi là quốc gia vẫn còn ở mức thu nhập thấp). Tính đến hết năm 2010,
tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (20,6%), số lao
động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (48,2%).
Những chỉ số này cho thấy đây là một trong những nguyên nhân cơ bản đang
tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Một
nguyên nhân khác là thực trạng quy hoạch, sử dụng và phát triển nguồn nhân
lực nước ta những năm qua còn nhiều bất cập. Trong một thời gian dài, với
nhiều lý do khác nhau, nền giáo dục đào tạo của chúng ta chưa xác định được
mục tiêu rõ ràng, chưa được coi là điểm đột phá để đưa đất nước phát triển
như nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới có hoàn cảnh như nước ta
5

Hoàng Văn Châu, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp bách sau
khủng hoảng, Tạp chí kinh tế đối ngoại, 2009, số 38.


đã từng làm. Phần lớn nội dung và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở
nước ta đều được biên soạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình
giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô trước đây. Một
thời gian dài, những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với
nền giáo dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng.
Song, tự nó cũng hàm chứa rất nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt, trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay thì những hạn chế, bất cập đó đã
và đang là một trở ngại lớn đòi hỏi cần có sự cải cách và đổi mới cho phù
hợp. Phương pháp giáo dục cũng còn nhiều bất cập. Các phương pháp dạy và
học của chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như
nặng lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực
sau đào tạo thường thấp và chưa phù hợp với thực tiễn. Người học thường ít

được vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì
người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí
về thời gian đối với người học...
3. Những giải pháp cơ bản phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực trí tuệ trong nền kinh tế tri thức Việt Nam
Nhận thức nội hàm, vị trí và ý nghĩa vô cùng to lớn của nhân tố con
người trong nền kinh tế tri thức, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi con
người là chủ thể và nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội
và sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội
phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
Chính vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên đồng thời phát huy và
sử dụng có hiệu quả nguồn lực trí tuệ chất lượng cao, cần thực hiện một số
giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, cải cách hiện đại hóa nền giáo dục, chăm lo đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao cho quá trình phát huy nguồn lực trí tuệ.
Trong nền kinh tế tri thức, vị trí, vai trò của giáo dục được thay đổi cơ
bản. Tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của sản xuất hơn cả lao động


và tài nguyên. Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức đồng thời góp phần
quảng bá tri thức. Sử dụng tri thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành
giá trị, đưa tri thức vào hoạt động giá trị con người. Giáo dục đào tạo có
chức năng tạo ra và nhân lên vốn tri thức. Đặc biệt trong sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học, công nghệ, nước nào không có nguồn nhân lực trí tuệ thì
nước đó sẽ có nguy cơ tụt hậu rất lớn. Do đó, nhân tố cơ bản nhất để phát
triển nền kinh tế tri thức là nguồn nhân chất lượng cao lực dựa trên nền giáo
dục tiên tiến.
Để làm được điều đó trước hết, phải tiến hành ngay một cuộc cách
mạng toàn diện, sâu sắc trong giáo dục và đào tạo, bắt nguồn từ sự đổi mới tư
duy về giáo dục cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương

pháp dạy, hệ thống hóa giáo dục, phương thức tổ chức quản lý giáo dục-đào
tạo. Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng rèn
luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo,
khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển. Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản
lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng. Đồng thời, Nhà nước
cần có chính sách trọng nhân tài, thực sự coi “hiền tài là nguyên khí quốc
gia”. Cần thiết lập hệ thống kiểm tra đánh giá trình độ và năng lực trong quá
trình sử dụng, có chế độ đãi ngộ tương xứng với sự cống hiến. Có sử dụng tốt
thì mới có sự giáo dục tốt. Có trọng dụng người tài thì mới có nhiều người tài.
Mặt khác, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường thanh
tra, kiểm tra thay đổi cách thức thi cử, tuyển sinh, khắc phục tình trạng nặng
về quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra, kiên quyết chống bệnh thành tích
đang ngăn cản con đường đi tới chất lượng. Xây dựng hệ thống học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn dựa trên tri thức.
Bên cạnh đó, phải mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục, đào tạo với nước ngoài,
tiếp cận với những mô hình giáo dục tiên tiến nhất để vận dụng sáng tạo vào
nước ta.


Thứ hai, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ, tạo động lực
mạnh mẽ cho phát triển kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, tạo ra tri thức, sử dụng tri thức và biến tri
thức thành giá trị là yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, tạo
việc làm, nâng cao chất lượng sống. Do đó, chính sách quốc gia ưu tiên quan
trọng hàng đầu là nâng cao năng lực khoa học, công nghệ cho người lao
động, nhằm có đủ khả năng truy cập vào kho tàng kiến thức nhân loại, làm
chủ các tri thức mới của thời đại, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể, đồng thời
có khả năng tạo ra những tri thức mới riêng biệt cần thiết cho sự phát triển
đất nước. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử cho thấy một quốc gia có năng lực

khoa học mạnh, đội ngũ cán bộ khoa học giỏi, có nhiều phát minh, sáng chế
chưa hẳn là quốc gia mạnh, có trình độ công nghệ cao, có nền kinh tế phát
triển nhanh. Vấn đề là phải có một hệ thống kinh tế năng động, có cơ chế
chính sách buộc phải cạnh tranh dựa trên hiệu quả, khyến khích, bắt buộc sử
dụng tri thức vào tất cả các lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Cần phải đổi
mới mạnh mẽ hơn cơ chế quản lý kinh tế và quản lý khoa học công nghệ,
tiến tới thiết lập được hệ thống đổi mới quốc gia hữu hiệu. Đổi mới chính
sách và cơ chế quản lý kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị trường,
tạo lập một môi trường kinh doanh sôi động, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng
dựa vào tri thức và công nghệ, chất lượng con người. Đổi mới cần tạo điều
kiện cung và cầu cho phát triển tri thức, nâng cao năng lực khoa học công
nghệ quốc gia, nâng cao hàm lượng tri thức trong sản phẩm. Đổi mới cơ chế
tài chính cho khoa học, theo hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rũi ro trong hoạt động
khoa học, công nghệ. Khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ,
nâng cao năng lực công nghệ. Chuyển mạnh các viện nghiên cứu ứng dụng
và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Nhà nước
có chính sách khuyến khích và tổ chức các hình thức liên kết hợp tác giữa
các doanh nghiệp, các trường đại học, các viện nghiên cứu hoặc các nhóm


sản phẩm để nhanh chóng hình thành, phát triển những ngành công nghiệp
mới có ý nghĩa chiến lược dựa trên công nghệ mới.
Thứ ba, tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy nguồn nhân lực trí tuệ
bằng cách huy động các nguồn lực, đẩy mạnh phát triển khoa học và công
nghệ nhằm tạo điều kiện về kinh tế thuận lợi cho quá trình phát triển và phát
huy nguồn lực trí tuệ.
Xác lập cơ chế, chính sách đồng bộ và hợp lý nhằm tạo môi trường
thuận lợi và động lực to lớn thúc đẩy quá trình phát huy nguồn lực trí tuệ.
Người Việt Nam được coi là thông minh, sáng tạo nhưng đó mới chỉ dừng lại

ở cá nhân, chứ chưa phải ở cộng đồng. Chưa phát huy được tiềm năng trí tuệ
dân tộc một cách cao nhất, bởi vì, cơ chế quản lý còn có những hạn chế, hay
nói cách khác là nó đang còn vướng mắc bỏi một cơ chế tự thân mâu thuẫn,
thiếu nhất quán... do đó, vần đề để giải quyết vướng mắc đó là nên tập trung
vào cải cách quản lý, xây dựng một môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh,
thông thoáng, tự nó khuyến khích mọi sáng kiến, phát huy mọi tài năng sáng
tạo, đồng thời tự nó hạn chứ, loại trừ những yếu tố và xu hướng tiêu cực. Việc
tuyển chọn và sử dụng lao động trí tuệ phải là nhiệm vụ trung tâm, trên
nguyên tắc dùng đúng người tài và dùng đúng lúc, tránh lãng phí chất xám,
đặc biệt là phải chú ý đến chính sách việc làm, chính sách phân phối tiền
lương, khen thưởng và đãi ngộ đối với lao động trí tuệ của xã hội. Cần nghiên
cứu để xây dựng hệ giá trị, hệ tiêu chuẩn xác định làm thước đo đánh giá kết
quả lao động của các chủ thể lao động trên tinh thần dân chủ, công bằng,
khách quan, chính xác và trung thực. Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với các hoạt động trí tuệ bằng pháp luật, pháp chế, chính sách, kế
hoạch giải pháp cụ thể để thực thi trong đời sống xã hội.
Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh thúc đẩy sự
phát triển cao và bền vững của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Sự phát triển trí
tuệ của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của nguồn lực trí tuệ của mỗi dân
tộc phải đặt trong chiến lược tổng thể về xây dựng và phát triển lâu dài văn


hóa. Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, những di sản văn hóa tốt
đẹp của dân tộc, đồng thời hạn chế và loại bỏ những truyền thống tiêu cực,
kìm hãm sự phát triển trí tuệ của cá nhân cũng như nguồn trí tuệ của dân tộc.
Từ đó, bổ sung và bù đắp những giá trị thiếu hụt của văn hóa truyền thống
làm giàu và hiện đại hóa nền văn hóa Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với truyền thống dân tộc. Tuy nhiên, trong
quá trình phát huy và sử dụng nguồn lực tri thức của con người Việt Nam,
chúng ta cần kế thừa, tận dụng, khai thác và sử dụng có hiệu quả, đồng thời,

đảm bảo được an ninh của dân tộc. Do đó, hơn bao giờ hết trí tuệ Việt Nam
đòi hỏi vận dụng và phát huy cao độ. Một dân tộc thông minh là phải biết sử
dụng trí thông minh của mình cũng như của người đúng lúc, đúng chỗ và
đúng thời điểm.
Tóm lại, trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định nhất đối với tăng
trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng sống của người lao động là tri thức. Do
đó, đòi hỏi trong việc phát huy và sử dụng nguồn lực tri thức cần phải có
quan điểm khách quan và quan điểm phát triển. Bởi vì, phát huy và sử dụng
nguồn lực trí tuệ có nghĩa là phát huy năng lực “nội sinh”, những cái “sẵn
có”. Cho nên trong quá trình phát triển phải biết kế thừa chọn lọc những mặt
tích cực, loại bỏ những mặt tiêu cực để phát triển ở trình độ cao hơn phù hợp
với yêu cầu lịch sử. Bên cạnh đó, như chúng ta đã biết tự thân trí tuệ không
có sức mạnh vật chất, nó chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, nó chỉ trở
thành sức mạnh vật chất khi được “vật hóa” nhờ sức mạnh của các phương
tiện vật chất, nhờ sức mạnh của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và sức lực
của con người. Trong quá trình phát triển nếu chúng ta chỉ chú ý khai thác
sự sáng tạo của con người mà bỏ qua con người sáng tạo là chúng ta đã hạ
thấp giá trị của con người. Chính vì vậy, chúng ta phải không ngừng chăm
lo, bồi dưỡng, đào tạo và phát triển con người một cách toàn diện, có thế
mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và
nhanh chóng hội nhập nền kinh tế tri thức thế giới.


KẾT LUẬN
Con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là con người hoàn
chỉnh phát triển toàn diện trong hiện thực, đây chính là một bước chuyển biến
về chất trong nhận thức về con người của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nó là cơ
sở nghiên cứu những điều kiện, con đường đúng đắn để đi đến giải phóng con
người. Đồng thời là cơ sở để Đảng ta đề ra những chủ trương, chính sách phát
huy và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trí tuệ trong nền kinh tế tri thức yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước.

Chính vì vậy, để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ
CNH, HĐH cần phải phát triển lực phát triển nhân tố con người - nguồn nhân
lực là quan trọng và quyết định. Bên cạnh đó, xây dựng, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao một cách bền vững cần phải được xác định là nhiệm
vụ vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược nhằm đảm bảo tính ổn định
của quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
Với quan điểm và chiến lược đúng đắn, chắc chắn tình hình kinh tế - xã
hội Việt Nam sẽ có bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới, góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nxb CTQG, H. 2002.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 3,20, Nxb CTQG, H.1995.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 42, Nxb CTQG, H.2000.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương Khóa VIII, Nxb CTQG, H.1997.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, H, 2001.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H, 2011.
7. Phạm Minh Hạc: Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
8. Hoàng Văn Châu, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập
kinh tế - vấn đề cấp bách sau khủng hoảng, Tạp chí kinh tế đối ngoại, 2009,
số 38.




×