Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận lớp CCLLCT, môn văn hóa học, công nghiệp văn hóa và những vấn đề nâng cao sức cạnh tranh văn hóa trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.74 KB, 21 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Văn hóa là bộ phận hợp thành quan trọng của sức mạnh tổng hợp quốc
gia. Nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của văn hóa Việt Nam địi hỏi phải thực
thi “chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa”, thơng qua sản xuất và truyền
bá văn hóa, thúc đẩy kinh tế phồn vinh, văn hóa phát triển là hướng đi tất yếu
của đất nước...
Quan niệm của Đảng ta tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương khoá X về “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta” nhấn mạnh: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được
phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị
trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Nội dung cơ bản của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước. Văn hoá khơng chỉ là nguồn cung cấp sản phẩm hàng hố
cho kinh tế thị trường mà còn giữ vai trò định hướng giá trị cho hoạt động
của kinh tế thị trường. Hoạt động kinh tế thị trường càng hướng tới mục tiêu
văn hố càng mang tính xã hội chủ nghĩa - vì sự phát triển của con người, của
xã hội. Sản phẩm văn hố trở thành hàng hố nhưng khơng phải bất cứ sản
phẩm nào cũng là hàng hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sản phẩm hàng hố văn hố khơng thuần t về lợi nhuận kinh tế
mà trước hết vì lợi ích tinh thần, thoả mãn nhu cầu nâng cao năng lực tinh
thần của con người. Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ thúc đẩy nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển về lượng (giá trị kinh tế) mà cả về chất
(giá trị tinh thần cao đẹp).

1


Trong khn khổ của tiểu luận này, em xin trình bày nội dung “Cơng
nghiệp văn hóa và những vấn đề nâng cao sức cạnh tranh văn hóa trong


thời kỳ mới”

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Khái niệm, ý nghĩa và vai trò của cơng nghiệp văn hóa trong nâng
cao sức cạnh tranh văn hóa

1. Khái niệm Cơng nghiệp văn hóa
Cơng nghiệp văn hóa là việc sản xuất, tái sản xuất và truyền bá các dịch
vụ văn hóa và sản phẩm văn hóa được tạo ra bằng phương thức cơng nghiệp
hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa. Là ngành nghề sản xuất sản phẩm văn hóa
và cung cấp địch vụ văn hóa. Cơng nghiệp văn hóa lấy sự thỏa mãn nhu cầu văn
hóa của mọi người làm mục tiêu chủ yếu.
Trước đây, theo quan niệm phổ biến trên thế giới, những bộ môn nghệ
thuật được đưa vào lĩnh vực Cơng nghiệp văn hóa gồm: quảng cáo, kiến trúc,
thị trường đồ cổ và nghệ thuật, thủ công nghiệp, thiết kế, thời trang, điện ảnh,
video và nhiếp ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn và thị giác, xuất bản, phần
mềm, trị chơi máy tính và xuất bản điện tử, vơ tuyến truyền hình và đài phát
thanh.
Theo quan điểm hiện đại, cơng nghiệp văn hóa được xác định bao gồm
các lĩnh vực chủ chốt: truyền thông, thiết kế, thời trang, sản phẩm tương tác,
nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phim ảnh, nghệ thuật thị giác. Tất cả đều nhấn
mạnh hai yếu tố “công nghiệp” và “sáng tạo”.
Tại Việt Nam, phạm vi của ngành nghề thuộc công nghiệp văn hóa bao
gồm: ngành sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật, dịch vụ tin tức, vui chơi giải trí,
đào tạo văn nghệ sĩ và kinh doanh tác phẩm nghệ thuật, ngành phát hành, xuất
bản, ngành phát thanh truyền hình, điện ảnh, video, quảng cáo...

2. Ý nghĩa của việc phát triển cơng nghiệp văn hóa

3


Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của đất nước đang tăng lên, nhu cầu sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân được nâng cao. Trong
bối cảnh đó, việc phát triển ngành Cơng nghiệp văn hóa ngày càng trở nên
bức thiết. Xây dựng Công nghiệp văn hóa là tiền đề quan trọng để xây dựng
một “nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Việt Nam muốn hiện đại
hóa khơng những phải có sự phồn vinh về kinh tế mà cịn phải có sự phồn vinh
về văn hóa. Cho nên, Cơng nghiệp văn hóa lấy phương thức sản xuất hiện đại
hóa làm đặc trưng là cực kỳ quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu này.
Xây dựng Cơng nghiệp văn hóa là tiến hành xây dựng văn hóa trong
tình hình mới, sử dụng điều kiện thuận lợi của cơ chế thị trường và kỹ thuật
cao để tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của sự nghiệp văn hóa - nghệ thuật.
Phải thơng qua phát triển Cơng nghiệp văn hóa mới có thể khơng ngừng thỏa
mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của quần chúng nhân dân.
Phát triển Công nghiệp văn hóa là nhu cầu của phát triển kinh tế quốc
dân và xã hội. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, việc phát triển Cơng nghiệp văn hóa sẽ thúc
đẩy việc xây dựng và kiện tồn thể chế văn hóa thích ứng với thể chế kinh tế
thị trường. Xây dựng đầy đủ Cơng nghiệp văn hóa có thể tối ưu hóa kết cấu
cơng nghiệp nhà nước, xúc tiến việc điều chỉnh kết cấu kinh tế quốc dân.
Công nghiệp văn hóa là một ngành cơng nghiệp có khả năng rõ rệt về mặt
xúc tiến việc làm. Mặt khác, phát triển Cơng nghiệp văn hóa sẽ thúc đẩy việc
nâng cao văn hóa quốc dân và thực hiện tiến bộ xã hội, tạo ra sự phát triển
nhịp nhàng giữa kinh tế và văn hóa, hình thành mơi trường văn hóa tốt đẹp.
Phát triển Cơng nghiệp văn hóa cũng là con đường để văn hóa Việt
Nam tham gia cạnh tranh trên thị trường văn hóa quốc tế, tăng cường sức

mạnh tống hợp của đất nước. Là một bộ phận hợp thành quan trọng của sức
mạnh tổng hợp đất nước, văn hóa ngày càng trở thành “quyền lực mềm" có

4


vai trị khơng thể thay thế. Trình độ phát triển Cơng nghiệp văn hóa dần dần
trở thành tiêu chí quan trọng để xác định trình độ phát triển văn hóa đất nước.
Đó là lý do tại sao nhiều quốc gia chú trọng thúc đẩy chiến lược phát triển
Công nghiệp văn hóa của mình. Hơn nữa, trong bối cảnh ngày nay, Việt
Nam muốn chống lại ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, nhất là sự “xâm thực”
của nhiều hiện tượng phản văn hóa thì phải đẩy nhanh việc xây dựng Cơng
nghiệp văn hóa , nâng cao sức cạnh tranh và tỷ lệ thị phần quốc nội trong thị
trường hàng hóa văn hóa.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản quốc tế có mưu đồ lợi dụng ưu thế Cơng
nghiệp văn hóa để thúc đẩy việc bá quyền văn hóa trong cạnh tranh thị trường
văn hóa quốc tế. Đối mặt với tình hình gay gắt như vậy, nước ta phải biết sử
dụng và phát huy tối đa tài nguyên văn hóa độc đáo của mình, đẩy mạnh xây
dựng Cơng nghiệp văn hóa dân tộc, từng bước chiếm lấy thị phần trong thị
trường văn hóa quốc tế, góp phần bảo vệ chủ quyền và an ninh văn hóa của
nước ta, thúc đẩy sự tiến bộ và phồn vinh của văn hóa dân tộc.
Trong một thế giới rộng lớn và “phẳng” (hội nhập cao) như hiện nay,
sức mạnh của văn hóa cần được nhìn nhận nghiêm túc hơn. Những sản phẩm,
dịch vụ văn hóa có thể giúp tăng nhu cầu tìm hiểu những giá trị văn hóa đặc
thù của một vùng/quốc gia, vì thế nếu có những chính sách hợp lý và hiệu
quả, chúng ta có thể thúc đẩy những ngành công nghiệp khác như: du lịch,
giáo dục, văn hóa ẩm thực, thời trang…cùng phát triển.
3. Cơng nghiệp văn hố góp phần nâng cao sức cạnh tranh văn hố
Sức cạnh tranh văn hóa là bộ phận quan trọng tạo thành sức cạnh tranh
tổng hợp của mỗi quốc gia. Nhìn một cách tổng quát, sức cạnh tranh văn hóa

bao gồm bốn phương diện: 1- Sức cạnh tranh sản phẩm văn hóa; 2 - Sức cạnh
tranh của doanh nghiệp văn hóa; 3 - Sức cạnh tranh của thương hiệu sản phẩm
văn hóa; 4 - Sức cạnh tranh của hình ảnh văn hóa. Bốn phương diện này

5


khơng tách rời mà ln ln gắn bó và thúc đẩy lẫn nhau tạo nên hiệu quả
cạnh tranh của văn hóa.
Việc tăng cường hơn nữa sức cạnh tranh văn hóa là một trong những
yêu cầu cấp thiết của công cuộc hiện đại hóa đất nước. Để góp phần tạo nên
thế và lực mới cho đất nước, tăng cường hơn nữa sức cạnh tranh văn hóa cần
phải nhanh chóng trở thành nhận thức chung của tất cả chúng ta, vì nếu chậm
trễ, vơ hình trung chúng ta sẽ làm suy giảm tốc độ phát triển. Nhận thức trên
đây xuất phát từ ba yêu cầu của thực tiễn:
Thứ nhất, trong bối cảnh giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng, việc
nâng cao sức cạnh tranh văn hóa là mối quan tâm chung của tất cả các quốc
gia, vì văn hóa khơng chỉ là lĩnh vực tinh thần thuần túy mà cịn có khả năng
đem lại hiệu quả kinh tế, tạo ảnh hưởng khu vực và quốc tế. Tất nhiên, sức
cạnh tranh văn hóa cần đến hậu thuẫn quan trọng của cơng nghiệp văn hóa. So
với các nước phát triển, trình độ cơng nghiệp văn hóa của nước ta hiện nay
cịn yếu kém, vì thế, phải có chiến lược phát triển đúng đắn và có những bước
đi thích hợp để thúc đẩy mạnh mẽ ngành công nghiệp giàu tiềm năng này.
Thứ hai, nâng cao sức mạnh cạnh tranh văn hóa là yêu cầu của thời kỳ
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng để lại nhiều ảnh hưởng tiêu
cực, đó là sự xuất hiện và lan rộng của tâm lý hưởng thụ, tôn thờ vật chất, lối
sống ích kỷ, chạy theo tiền tài mà coi nhẹ các giá trị tinh thần, coi nhẹ văn
hóa. Bởi thế, phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa chính là hình thức cân bằng
sinh thái, tạo ra tâm lý thoải mái, yêu đời, lạc quan của mọi người, tạo động

lực phấn đấu và cống hiến cho tất cả các thành viên của xã hội.
Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh văn hóa là nhu cầu cần xây dựng tồn
diện xã hội dân chủ, công bằng, giàu mạnh. Xã hội giàu mạnh khơng những là
một khái niệm kinh tế mà cịn bao hàm cả nội hàm văn hóa. Văn hóa là sự thể

6


hiện tập trung của chính trị và kinh tế xã hội. Với tư cách là lĩnh vực kết tinh
sức sống, sức sáng tạo và sức đoàn kết của một dân tộc, văn hóa có khả năng
kiến tạo các chuẩn mực đạo đức, lối sống, cách ứng xử văn minh, phù hợp với
đạo lý của dân tộc và có khả năng thích ứng với những yêu cầu của xã hội
hiện đại.
Như vậy, phát triển văn hóa, như Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, là sự
nghiệp quan trọng, vì trong thời đại ngày nay, văn hóa chính là mục tiêu, đồng
thời cũng là động lực phát triển xã hội. Không thể có sự phát triển lành mạnh,
bền vững nếu sự phát triển ấy khơng gắn liền với văn hóa.

7


Chương 2
Thực trạng về các ngành cơng nghiệp văn hóa hiện nay của nước ta

Cơng nghiệp văn hóa là thuật ngữ rất mới đối với Việt Nam nhưng
không xa lạ gì với nhiều nước trên thế giới. Lĩnh vực này phát triển đặc biệt
mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX trở lại đây. Những thành tựu về khoa học kỹ thuật,
nhất là sự ra đời của kỹ thuật số chính là những tiền đề vật chất quan trọng, đặt
nền móng cho việc hình thành và phát triển Cơng nghiệp văn hóa Thực trạng
về các ngành Cơng nghiệp văn hóa hiện nay của nước ta trong những năm gần

đây có nhiều chuyển biến cả tích cực và tồn tại nhiều điều bất cập sau:
3.1Những dấu hiệu tích cực
Thứ nhất: Sự chuyển biến, thay đổi đáng kể trong nhận thức của chúng ta
đối với văn hóa và sản phẩm văn hóa. Đặc biệt, khi ta nhìn nhận chúng dưới góc
độ là một sản phẩm hàng hóa thật sự. Đây chính là tiền đề quan trọng để ta phát
triển Cơng nghiệp văn hóa;
Thứ hai: Việc kinh doanh các sản phẩm văn hóa đã cởi mở hơn rất
nhiều. Đã có sự tham gia của các hãng phim, các sân khấu nghệ thuật thuộc
lĩnh vực tư nhân. Đây là bước tiến đáng chú ý để tiến hành việc xây dựng và
phát triển ngành Công nghiệp văn hóa nước ta;
Thứ ba: Cơng tác xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp văn hóa đang ngày
càng được thực hiện quyết liệt và triệt để hơn. Trên thực tế, cơng tác xã hội
hóa đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực;
Thứ tư: Bước đầu hành lang pháp lý để hổ trợ cho sự phát triển Cơng
nghiệp văn hóa đã hình thành với việc ra đời của luật sở hữu trí tuệ, các văn
bản qui phạm pháp luật khác trong việc qui định hoạt động tổ chức biểu diễn;
8


Thứ năm: Các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm văn hóa ln ra sức
tiếp thu, học hỏi những kinh nghiệm nước ngoài trong việc ứng dụng khoa
học kỹ thuật vào trong phát triển Cơng nghiệp văn hóa. Nhờ đó, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân trên khắp mọi miền đất nước có nhiều cải
thiện đáng kể. Ngày nay, khơng những mỗi gia đình có máy vơ tuyến, truyền
hình, Internet…mà sản phẩm của từng loại cũng ngày càng đa dạng, phong
phú. Việt Nam được xem là một trong những nước tỷ lệ người dân có các
phương tiện vơ tuyến, truyền thanh truyền hình phát triển nhanh nhất thế giới;
Thứ sáu: Nhà nước có những quan tâm đặc biệt nhằm tìm cách xây
dựng và phát triển Cơng nghiệp văn hóa. Biểu hiện cụ thể là năm 2003, Việt
Nam đã tham gia diễn đàn Văn Hóa Châu Á với chủ đề Cơng nghiệp văn hóa.

Tiếp đến, tháng 8/2009, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam kết hợp với Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức hội thảo khoa học “Cơng nghiệp văn
hóa Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”.
3.2Những tồn tại trong việc phát triển ngành cơng nghiệp văn hóa
Chúng ta có tiềm năng nhưng chưa được nghiên cứu thấu đáo, định
hướng qui hoạch phát triển với những chiến lược lâu dài. Chưa xác định được
mũi nhọn phát triển. Đầu tư của Nhà nước cho văn hóa khá thấp (chỉ chiếm
khoảng 0,3% GDP);
Nhiều lĩnh vực trong ngành Cơng nghiệp văn hóa khả năng thu hồi vốn
chậm, lợi nhuận thấp, thị trường tiêu thụ không rõ ràng như: trung tâm sinh
hoạt văn hóa cho cộng đồng, bảo tồn văn hóa truyền thống, bảo tang, thư
viện…rất khó khăn tìm kiếm nhà đầu tư;
So với các nước trong khu vực, ngành Cơng nghiệp văn hóa nước ta
phát triển ở quy mô nhỏ. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực văn hóa cịn yếu và
thiếu. Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, lực lượng nghệ sĩ ở các đơn vị

9


nghệ thuật chuyên nghiệp có hơn 5.000 diễn viên nhưng lại chia mỏng cho 11
loại hình nghệ thuật: Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch nói, Kịch hát, Xiếc, Múa
rối, Ca, Múa, Nhạc, Kịch hát các dân tộc.
Cơ chế “xin cho” trong việc xét duyệt kinh phí văn hóa hằng năm ở
nhiều cơ quan, đơn vị là một rào cản làm hạn chế sự phát triển của một số lĩnh
vực trong ngành Cơng nghiệp văn hóa.
Nhận thức về vai trị của Cơng nghiệp văn hóa cịn hạn chế, thiếu hệ
thống chính sách đáp ứng yêu cầu phát triển mới và hệ thống hành lang pháp
lý chưa thống nhất và hợp lý đã làm cho ngành Cơng nghiệp văn hóa nước ta
khơng phát triển một cách bình thường. Nạn vi phạm bản quyền, sao chép hay
ăn cắp ý tưởng tràn ngập trên thị trường Cơng nghiệp văn hóa.

Cơng nghiệp văn hóa nước ta phát triển khơng đồng đều. Về phương
diện ngành nghề thì chủ yếu phát triển mạnh ở một số ngành trẻ như: thời
trang, kịch nói, điện ảnh… Về phương diện khu vực địa lý thì Cơng nghiệp
văn hóa chỉ phát triển mạnh ở một vài thành phố lớn như: Tp Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Đà Nẵng…
Do cơng tác quản lý cịn nhiều yếu kém, vì vậy một số ngành Cơng
nghiệp văn hóa đang có su hướng phát triển rất mạnh nhưng xuất hiện những
hiện tượng lệch lạc, biến tướng, phát triển khơng có qui hoạch đã gây ra nhiều
hệ lụy và hậu quả khó lường. Phong trào khơi phục lễ hội một cách tràn lang
và nạn mê tín dị đoan đang có chiều hướng phát triển là một ví dụ điển hình.
Bên cạnh đó, sự yếu kém trong cơng tác quản lý đã dẫn đến nhiều sản phẩm
Cơng nghiệp văn hóa phát triển đến mức khơng kiểm sốt được cả về chất
lượng lẫn số lượng như: Internet và các dịch vụ đi kèm, các trò chơi trực
tuyến với nội dung độc hại…
Thực tế cho thấy, nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ ngày càng cao nhưng
chưa có nhiều sản phẩm đạt yêu cầu cả chất lượng và số lượng, sự dễ dãi khi
“xuất xưởng” làm ảnh hưởng đến thị hiếu thẩm mỹ của một bộ phận lớn cộng
10


đồng xã hội, nhất là giới trẻ. Sự ra đời và phát triển của dịng nhạc thị trường,
phim “mì ăn liền” là kết quả của sự dễ dãi trong quá trình quản lý.
Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, lối sống lành mạnh, hành xử có văn hóa
chưa được coi trọng tại môi trường giáo dục từ các cấp. Nội dung giáo dục
cịn khơ cứng, thiếu sáng tạo, hấp dẫn, nặng lý thuyết, thiếu tính thực tiễn nên
khó tiếp cận và thu hút được giới trẻ-đối tượng khách hàng mục tiêu của
nhiều loại hình Cơng nghiệp văn hóa.

Chương 3
Giải pháp để đẩy mạnh phát triển Cơng nghiệp văn hóa Việt Nam


11


a.Trước hết cần đổi mới tư duy, xây dựng quan niệm mới về phát
triển Cơng nghiệp văn hóa
Muốn xây dựng Cơng nghiệp văn hóa, trước hết phải đổi mới quan
niệm của chúng ta về lĩnh vực mới mẻ này. Một là, phải thay đổi tư tưởng coi
sự nghiệp văn hóa là ngành nghề phi sản xuất, không đem lại của cải cho xã
hội. Đổi mới tư duy là phải coi sự nghiệp văn hóa cũng là một ngành sản xuất,
có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Hai là, phải xem sản phẩm
văn hóa là một hàng hóa thực sự, có thị trường riêng. Khơng thể vì tồn tại
nhiều vấn đề phức tạp mà phủ định thị trường văn hóa, làm ảnh hưởng đến
việc tìm tịi xây dựng Cơng nghiệp văn hóa.
a. Cải tạo hệ thống chính sách và cơ chế quản lý văn hóa khoa học
Cơng nghiệp văn hóa là một ngành cơng nghiệp mang nhiều đặc thù
riêng. Vì thế, nó cần một hệ thống chính sách phù hợp. Trình độ quản lý hành
chính về văn hóa trực tiếp tác động vào sự phát triển của Cơng nghiệp văn
hóa. Trong tình hình mới, việc quản lý văn hóa địi hỏi phải có hành lang pháp
lý thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hóa. Đối tượng quản lý
chủ yếu phải là thị trường, cơ chế quản lý khoa học phải có khả năng kiểm
soát thị trường, thị trường dẫn dắt doanh nghiệp. Về phương pháp quản lý, lấy
quản lý vĩ mơ làm chính, quản lý vi mô làm phụ. Về biện pháp quản lý, vừa
tổng hợp cả những biện pháp về kinh tế và pháp luật, hành chính, giáo dục, dư
luận, tin tức…Cần đổi mới cơ cấu quản lý theo nguyên tắc thống nhất, tinh
giản, hiệu quả.Chính sách phát triển cơng nghiệp văn hóa vừa phải thể hiện
một tầm nhìn lâu dài, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu thực tiễn trước mắt.
Mới đây, chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06-052009 đã nhấn mạnh nhiệm vụ “tập trung xây dựng cơ chế, chính sách và mơi
trường kinh doanh để phát triển ngành cơng nghiệp văn hóa”. Để cơng nghiệp


12


văn hóa phát triển đúng hướng, địi hỏi pháp luật phải nghiêm minh, các luật
về văn hóa vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp các thông lệ và
cơng ước quốc tế. Cần nhanh chóng tiến hành việc nghiên cứu để đưa ra biện
pháp quản lý vốn phát triển cơng nghiệp văn hóa, Luật Bảo hộ di sản văn hóa,
Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh... Phải thơng qua những quy tắc thị trường phù
hợp, bảo đảm công bằng, hợp lý trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao cơng nghệ, thương hiệu, quản lý các loại ngành, nghề văn hóa
theo pháp luật.
b. Thúc đẩy cải cách các đơn vị sự nghiệp văn hóa
Nhiệm vụ cấp bách nhất và khó khăn nhất trong việc xây dựng Cơng
nghiệp văn hóa là xác lập vị trí của đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp văn hóa như
là chủ thể Cơng nghiệp văn hóa. Tình hình phát triển của chủ thể Cơng nghiệp
văn hóa trực tiếp quyết định trình độ phát triển của ngành Cơng nghiệp văn
hóa. Đối với các đơn vị văn hóa mang tính cơng ích như thư viện, nhà bảo
tàng công cộng và đơn vị làm nghệ thuật truyền thống, Nhà nước phải giúp đỡ
bẳng những chính sách cụ thể và hợp lý. Đối với đơn vị văn hóa có tính cơng
ích dùng vào các hạng mục kinh doanh phải thực hiện chính sách thuế ưu đãi.
Đối với đơn vị cơng nghiệp phi cơng ích (lợi nhuận) phải từng bước đưa họ
vào thị trường. Thông qua cạnh tranh thị trường để thúc đẩy họ phát triển. Có
thể áp dụng việc đầu tư tài chính giảm dần hàng năm cho tới khi hồn tồn
xóa bỏ sự hỗ trợ. Doanh nghiệp sau khi đổi mới cơ chế phải nâng cao trách
nhiệm kinh doanh, tăng cường quản lý nội bộ, thu hút mạnh mẽ vốn và cơng
nghệ hiện đại.
Hồn thiện chế độ doanh nghiệp, xây dựng mơ hình quản lý kinh doanh
hiện đại. Quản lý trong thời đại kinh tế tri thức cũng là sức sản xuất. Cạnh
tranh của công nghiệp văn hóa trên mức độ rất lớn là cạnh tranh chiến lược,

cạnh tranh sắc thái riêng, và cạnh tranh nhân tài... Tất cả những điều đó đều

13


liên quan sống cịn với trình độ và nghệ thuật quản lý. Ai có khả năng tạo đột
phá, giành được ưu thế về thể chế quản lý, người đó sẽ nắm được cơ may và
nhanh chóng đi tới thành cơng. Sự thành bại của doanh nghiệp cũng phụ
thuộc vào nỗ lực hoàn thiện chế độ doanh nghiệp hiện đại. Phải thiết lập một
hệ thống quy tắc khoa học có khả năng quy phạm hành vi doanh nghiệp, có
chính sách thực hành tiết kiệm hợp lý nhằm hạ giá thành sản phẩm. Phải phân
công và quy định trách nhiệm rõ ràng, có cơ chế khuyến khích, cơ chế trừng
phạt răn đe, khuyến khích tài năng, làm cho mỗi người hiểu được vị trí, nhiệm
vụ của mình, từ đó phát huy tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân trong doanh
nghiệp.
c. Có chính sách xây dựng Cơng nghiệp văn hóa
Căn cứ vào thực trạng văn hóa hiện nay của nước ta với trình độ phát
triển tổng thể của kinh tế quốc dân và tính cấp bách của xây dựng Cơng
nghiệp văn hóa, trước mắt, cần có sự nâng đỡ tích cực của Nhà nước đối với
sự nghiệp xây dựng Công nghiệp văn hóa.
Một là, định ra chính sách sử dụng tài ngun văn hóa, chính sách thuế
tài chính, chính sách bồi dưỡng nhân tài về văn hóa nghệ thuật, chính sách xã
hội hóa nhằm tạo mơi trường rộng thống cho sự phát triển Cơng nghiệp văn
hóa. Tối ưu hóa việc sử dụng và bố trí tài nguyên, xúc tiến việc thành lập tập
đồn cơng nghiệp lớn. Cơng nghiệp văn hóa muốn chiếm được một vị trí nhất
định nào đó trong cạnh tranh quốc tế gay gắt địi hỏi có sự huy động hợp lý về
tài ngun văn hóa và trình độ hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế. Trên thực tế
công nghiệp văn hóa thường lấy ngành du lịch làm khâu đột phá, mà du lịch
muốn có hiệu quả thì phải khai thác cả chiều rộng lẫn chiều sâu ưu thế văn
hóa. Hai là, định ra các chính sách về kết cấu Cơng nghiệp văn hóa, chính

sách tổ chức quản lý và chính sách phân bố khu vực, ngành nghề văn hóa.
Phải đặc biệt chú trọng chính sách phát triển khoa học kỹ thuật, dựa vào tiến

14


bộ khoa học - kỹ thuật để nâng cao trình độ công nghiệp, nâng cao hiệu quả
kinh tế. Tổ chức và kết cấu của Cơng nghiệp văn hóa phải chủ yếu dựa vào thị
trường để điều tiết. Chính phủ phải tăng cường xây dựng các cơ chế, chính
sách để bù đắp cho sự thiếu hụt của điều tiết thị trường, thúc đẩy tổ chức và
bố cục hợp lý. Vậy nên phải căn cứ vào tính chất cạnh tranh thị trường, tạo
nên sự liên kết giữa các đơn vị kinh doanh văn hóa, lấy đơn vị kinh doanh có
nhiều nhân tài, có kỹ thuật hiện đại, có sản phẩm nhãn hiệu nổi tiếng, hiệu
quả kinh doanh xuất sắc làm đầu tàu, từng bước thúc đẩy sự phát triển của các
doanh nghiệp khác, từ đó, hình thành các tập đồn cơng nghiệp văn hóa quy
mơ lớn, có sức cạnh tranh mạnh mẽ.
Ba là, xây dựng hệ thống pháp lý nhằm bảo đảm thực hiện chính sách
Cơng nghiệp văn hóa. Chính sách Cơng nghiệp văn hóa một khi đã xây dựng
nên thì phải có hiệu lực pháp lý.
d. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên thị trường văn hóa
Cơng nghiệp hóa kiểu mới là loại hình cơng nghiệp tập trung tri thức và
vốn. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là yếu tố bảo đảm cho thị trường văn hóa
phát triển lành mạnh, trực tiếp quyết định sự tồn tại và phát triển của Cơng
nghiệp văn hóa. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là điều kiện tất yếu để phát
triển Cơng nghiệp văn hóa. Muốn thế phải hồn thiện hơn nữa luật sở hữu trí
tuệ nhằm khuyến khích sáng tạo văn hóa mới.
Thị trường văn hóa phát triển lành mạnh sẽ trực tiếp quyết định sự phát
triển của Cơng nghiệp văn hóa và ngược lại. Vì vậy tăng cường quản lý thị
trường văn hóa bằng hệ thống pháp luật về thị trường văn hóa chính là nhằm

tạo ra môi trường thuận lợi cho Công nghiệp văn hóa phát triển. Đẩy mạnh
việc xây dựng. kiên quyết đấu tranh với các hoạt động kinh doanh văn hóa phi
pháp, bảo đảm tính hợp pháp của chủ thể kinh doanh sản phẩm văn hóa.

15


e. Nâng cao nhận thức, trình độ thưởng thức cho người hưởng thụ
Đây là công tác mà các nhà quản lý, hoạch định chính sách phát triển
Cơng nghiệp văn hóa cần đặc biệt lưu tâm. Công tác giáo dục, nâng cao nhận
thức và trình độ thưởng thức cho người tiêu dùng sản phẩm văn hóa cần được
tiến hành sâu, rộng ở mọi tầng lớp, lứa tuổi trong xã hội. Tuy nhiên cần quan
tâm đặc biệt đến giới trẻ. Bởi lẽ, đây là đối tượng có nhiều điều kiện dễ dàng
tiếp cận các loại hình văn hóa khác nhau, song về thị yếu thẩm mỹ còn chưa
vững vàng, dễ bị thu hút bởi những sản phẩm văn hóa chỉ hấp dẫn về hình
thức, cịn nội dung thì chứa nhiều yếu tố độc hại.
Để làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, nhà quản lý cần dựa vào
sức mạnh của các đoàn thể, tổ chức như: Hội sinh viên, hội học sinh, nhà
trường và các thiết chế văn hóa xã hội khác. Về cách thức làm, cần thiết sự đa
dạng, phong phú và mang tính thực tiễn cao. Tránh tuyên truyền theo kiểu từ
chương mang nặng tính lý thuyết.
Tạo sự kết hợp chặt chẽ giữa thị trường với phát triển công nghiệp văn
hóa. Trong điều kiện kinh tế thị trường, để mở rộng tái sản xuất cơng nghiệp
văn hóa, nhất thiết phải lấy vốn làm hậu thuẫn. Ở đây, việc học tập kinh
nghiệm phát triển cơng nghiệp văn hóa của quốc gia phát triển để xây dựng
một thị trường năng động, hiệu quả cùng với sự hỗ trợ về chính sách thuế hợp
lý của chính phủ trở nên vơ cùng quan trọng. Để làm được điều đó, trước hết,
phải nhanh chóng xây dựng nhiều chủ thể thị trường cơng nghiệp văn hóa
hiện đại và chủ thể đầu tư lưu thông vốn phù hợp với yêu cầu tư bản thị
trường, có sức cạnh tranh. Chẳng hạn như thành lập công ty cổ phần kiểm

sốt cơng nghiệp văn hóa, cơng ty kinh doanh tài sản văn hóa, thành lập cơng
ty đầu tư cơng nghiệp văn hóa... Mặt khác, phải làm cho tài nguyên văn hóa
trở thành loại tài nguyên đầy sức sống, huy động và tổ chức các doanh nghiệp

16


văn hóa quay vịng vốn liên tục, thúc đẩy lưu thông, liên tiếp sản sinh giá trị
mới, tạo sự tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ khi nào tạo được sự gắn kết như trên,
cơng nghiệp văn hóa mới đủ sức phát huy tối đa khả năng của nó.
f. Đổi mới chế độ giao dịch quốc tế, thúc đẩy công nghiệp văn hóa
nước ta tiến ra thế giới.
Cơng nghiệp văn hóa là hình thái sáng tạo của cải mới, vì thế, phát triển
cơng nghiệp văn hóa phải nhằm tới mục đích “kép”: thứ nhất, đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân trong nước; thứ hai, thông qua sự mở
rộng thị trường thương mại, xuất khẩu văn hóa, quảng bá văn hóa Việt Nam ra
nước ngồi. Tất nhiên, khơng chỉ có ý nghĩa phổ biến các giá trị văn hóa tinh
thần, cơng nghiệp văn hóa cịn có khả năng tạo nên hiệu quả kinh tế, nhất là
du lịch sinh thái và việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa mang đậm bản sắc
dân tộc. Sự hợp tác, giao lưu văn hóa cịn góp phần kích thích tăng trưởng
cơng nghiệp văn hóa, và thơng qua sự tăng trưởng này mà mở rộng “biên
giới” và tầm ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam đối với thế giới.

17


PHẦN KẾT LUẬN

Cơng nghiệp văn hóa đã phát triển ở nhiều nước, đặc biệt mạnh mẽ vào
giữa thế kỷ XX, và trở thành ngành trụ cột trong nhiều nền kinh tế. Phát triển

cơng nghiệp văn hóa có tác động lớn đối với kinh tế, văn hóa và xã hội của
một đất nước. Trên phạm vi quốc gia, sự phát triển cơng nghiệp văn hóa có
khả năng đóng góp to lớn cho các chỉ tiêu thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc
làm... Mặt khác, phát triển cơng nghiệp văn hóa tạo nên hệ thống sản xuất và
phục vụ văn hóa nhiều chủng loại, cấp độ, nhiều loại hình, đáp ứng yêu cầu
về số lượng, chất lượng văn hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao và
đa dạng của nhân dân. Lợi nhuận khổng lồ của công nghiệp văn hóa đã khiến
rất nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới đua nhau tham gia.
Việt Nam có một vốn văn hóa dày dặn (danh lam thắng cảnh, những di
sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các truyền thống văn hóa tộc người của 54
dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam...). Nếu biết cách phát huy các di sản đó bằng
những phương thức quảng bá hiện đại thì chúng sẽ trở thành những đặc sản
du lịch văn hóa.

18


Tài liệu tham khảo

1.Đề tài khoa học cấp bộ của PGS.TS Nguyễn Thị Hương- Viện văn
hóa và phát triển- Học viện Chính trị- hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2.Chiến lược phát triển Văn hoá đến năm 2020. (Ban hành kèm theo
Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính
phủ)
3. Các Nghị quyết V,VI,VII,VIII,IX của Đảng, các báo cáo của Bộ Văn
hóa Thơng tin về tài chính, kế hoạch, chương trình quốc gia, xã hội hố các
hoạt động Văn hóa Thơng tin,...

19



4. Hội thảo khoa học “Cơng nghiệp văn hóa Việt Nam, thực trạng và giải
pháp”, Hà Nội, tháng 8/2009.

20


MỤC LỤC

21



×