Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

LUẬN VĂN: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.6 KB, 36 trang )








LUẬN VĂN:

Vấn đề sở hữu trong nền kinh
tế thị trường









Lời nói đầu



Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị. Nó như là
một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lý
. gắn với một chế độ xã hội nhất định.

Chế độ sở hữu chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận động và phát triển
của xã hội loài người, là yếu tố chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Bản thân chế độ
sở hữu cũng là yếu tố động, luôn luôn biến đổi, luôn luôn có sự cải tiến. Khi chế độ sở hữu


thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội và thay đổi toàn bộ chế
độ xã hội.

ở nước ta, Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế,
Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần dựa
trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi sở hữu vừa là
mục tiêu vừa là phương tiện vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là
phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu thành
của xã hội nhất định. Chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ
sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ sở hữu đó.

Nghiên cứu vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa quan trọng và cấp
bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và
đặc biệt đối với thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Vấn đề nghiên cứu rất sâu và phức tạp. Nó đòi hỏi, một kiến thức sâu và rộng về kinh
tế. Bản thân em là một sinh viên do kiến thức hiểu biết còn hạn chế, trong phạm vi bài viết
này em chỉ đưa ra một phần nào đó của vấn đề nhưng em rất muốn bài viết của mình có ý
nghĩa trong lý luận về chế độ sở hữu .


Chương I: Lý luận về phạm trù sở hữu

I. Khái niệm về phạm trù sở hữu và các khái niệm khác có liên quan

1.Chiếm hữu
a.Khái niệm

Chiếm hữu là một phạm trù khách quan là điều kiện trước tiên của hoạt động
sản xuất. Nó thể hiện việc giữ lấy những đối tượng vật chất cần thiết nhằm thoả mãn

mục đích con người. Sự chiếm hữu được thể hiện thông qua những hình thái giao tiếp
vật chất tương ứng với một sự phát triển của sản xuất, mà cụ thể là ở sự phân công
lao động.

Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng ( trước hết là giới tự nhiên
) để tiến hành sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, sự chiếm hữu
mang tính chất tự nhiên, vì không có sự chiếm hữu thì không có sản xuất. Sự chiếm
hữu đêm lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Những quyền hạn này trên thực tế thường
xuyên bị xâm phạm và lạm dụng, là nguồn gốc gây ra sự tranh chấp trong xã hội. Sản
xuất càng phát triển, lĩnh vực chiếm hữu càng được mở rộng. Những quy định về
quyền được thiết chế tập trung vào một tổ chức để bảo vệ và tiếp tục sự chiếm hữu
một cách có hiệu quả. Tổ chức đó chính là nhà nước và quyền được thiết chế thành
luật.

Quyền chiếm hưũ là quyền giữ lấy đối tượng sở hữu về mình bao gồm quyền
chiếm hữu hợp pháp và chiếm hữu bất hợp pháp.




Sở hữu được bắt đầu từ sự chiếm hữu giới tự nhiên mang tính chất cộng đồng,
hình thái đầu tiên của quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, đến hình tháI chiếm
hữu tự nhiên mang tính cá nhân, đối lập với cộng đồng và dẫn đến sự tách biệt về sở
hữu. Đó là một quá trình diễn ra trong sự tác động trực tiếp của phân công lao động
xã hội. Sự phân công đã làm cho một số thành viên trong cộng đồng được tách ra để
tham gia hoạt động trong lĩnh vực sản xuất mới được mở rộng, làm thúc đẩy nên sự
hình thành các hình thức trao đổi khác nhau . Nhưng cũng chính sự phân công với tư
cách là sự tách rời của một số tế bào ra khỏi cơ thể kinh tế đã được hình thành này đã
dẫn đến sự suy giảm về năng lực sản xuất của chính cơ thể ấy. Hệ quả là xuất hiện`
một “ chế độ sở hữu tách riêng “ năng động bên cạnh chế độ sở hữu cộng đồng bảo

thủ, đang mất dần sức sống. Sự đối lập trong quan hệ giữa người với người về sự
chiếm hữu tự nhiên.

Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của
cảI vật chất của xã hội. Để sinh sống và tồn tại, để sản xuất và tái sản xuất ra của cải
vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng con người phải chiếm hữu chinh phục tự
nhiên. Do vậy chiếm hữu biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là hành
vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất
cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại

b.Các hình thức chiếm hữu

- Phân theo chủ thể: chiếm hữu cá nhân và chiếm hữu tập thể
- Phân theo đối tượng: Chiếm hữu tự nhiên và chiếm hữu xã hội
- Phân theo lịch sử: chiếm hữu tự nhiên, chiếm hữu nô lệ, chiếm hữu ruộng đất,
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất




2. Sở hữu

a. Khái niệm.

Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính lịch sử cụ thể của con người những
đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn
với vật dụng (vật chất hoặc tinh thần)-đối tượng của chiếm hữu. Đồng thời, sở hữu
không chỉ đơn thuần là vật dụng nó còn là quan hệ giữa con người với nhau. Vì
vậy,Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của chiếm hữu tư liệu sản xuất. Là
một phạm trù kinh tế, sở hữu biểu thị tổng thể quan hệ kinh tế xã hội và pháp lý gắn

với một chế độ xã hội nhất định.

Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt với nhau. ở
góc độ thứ nhất, nó được coi là một phạm trù kinh tế khách quan-với góc độ này, sở
hữu được định nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu về tư liệu
sản xuất. ậ góc độ thứ hai, sở hữu với tư cách là hình thức pháp lý-hình thức phản
ánh quan hệ sở hữu khách quan vào pháp luật. Để không dừng lại sở hữu về mặt hình
thức và điều kiện sản xuất, người ta gắn sở hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện
quyền sở hữu về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất với tư cách là kết
quả của quyến sở hữu-cái mà các chủ sở hữu phảI quan tâm.

Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội, tức là các quan
hệ của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm những
quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong
tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý. Quan
hệ sở hữu pháp lý là tổng hoà các mối quan hệ sở hữu, sử dụng và quản lý. Những



quan hệ này tạo ra và ghi nhận các quan hệ kinh tế thông qua các nguyên tấc, chuẩn
mực pháp lý.

Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu được thực hiện qua một
cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là sự thể chế hoá các quan hệ
sở hữu thành các quyền : sở hữu, sử dụng, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng trong
đó quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất. Đó là hai mặt vừa thống nhất
vừa mâu huẫn với nhau trong phạm trù sở hữu.

b, Đối tượng của sở hữu


Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong quá trình
đó, tượng của sở hữu cũng có sự biến đổi thích ứng. Trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ đối tượng của sở hữu là những cáI có sẵn trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội
nô lệ, cùng với sở hữu vật còn có sở hữu nô lệ. Xã hội phong kiến đối tượng của sở
hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ lao động.,). Trong xã hội tư bản chủ nghĩa,
đối tượng sở hữu không chỉ là hiên vật mà quan trọng hơn là giá trị và tiền tệ. Ngày
nay, cùng với sở hữu về mặt hiện vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú
trọng nhiều đến sở hữu trí tuệ, giáo dục

II, Sự hình thành phát triển và biến đổi của sở hữu về tư liệu sản xuất

1. Sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu về tư liệu sản xuất là quá
trình lịch sử tự nhiên




Như đã biết, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu
về tư liệu sản xuất, một nội dung chủ yếu trong hệ thống sản xuất. Hình thức, mức
độ, quy mô, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu không phảI do ý muốn chủ quan của
con người quyết định mà là một quá trình lịch sử tự nhiên. Sự xuất hiện, tồn tại, phát
triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình
độ phát triển của một lực lượng sản xuất tương ứng quyết định.

Nói cách khác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Chính vì thế C.Mac đã dùng quy luật này để lý giảI sự ra đời và phát triển của 5
phương thức sản xuất xã hội trong lịch sử và coi phương thức sản xuất xã hội là nhân
tố có ý nghĩa quyết định.


Với tư cách là người sáng lập ra trường phái kinh tế chính trị Mac xit, C.Mac và
F.Angghen không phải chỉ một lần bàn về vấn đề sở hữu. Đặc biệt, trong tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, ông đã nhấn mạnh : “ Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai
quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch
lao động của người khác “.” Tuyên ngôn đã chỉ ra rằng,chế độ sở hữu không cố định
mà luôn luôn vận động và phát triển, đã trải qua những thay đổi liên tiếp, những cải
biến liên tiếp trong lịch sử. Mỗi một hình tháI kinh tế xã hội có một chế độ sở hữu cơ
bản đặc trưng cho hình thái kinh tế xã hội đó. Hình thái kinh tế xã hội tiếp theo xoá
bỏ chế độ sở hữu cơ bản của xã hội trước đó và thiết lập một chế độ sở hữu mới phù
hợp với hình tháI kinh tế xã hội mơí.

Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá
trình lịch sử tự nhiên. F.Angghen khuyên rằng: “ không thể xoá bỏ ngay tư hữu và
thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất”.




2. Các hình thức sở hữu trong lịch sử.

Sở hữu không phải cái bất biến, cố định. Nó luôn luôn vận động, biến đổi một
cách khách quan theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Loài người đã lần lượt trảI
qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều hình thức
sở hữu, trong đó bao giờ cũng có một hình thức sở hữu đặc trưng.

a. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thuỷ.

Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc, phù hợp với giai đoạn chưa phát
triển của sản xuất. Khi sức phát triển đến một trình độ nhất định ( con người không
hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên ) thì xuất hiện hình thức sở hữu công xã về

ruộng đất, tiếp đó là hình thức sở hữu gia đình, cá thể về súc vật. ở thời kỳ đầu có
lịch sử thành văn, đất đai đã bị phân chia và chuyển hoá thành sở hữu tư nhân, tình
hình đó thích hợp cho nền sản xuất hàng hoá tương đối phát triển .Bên cạnh của cải
bằng hàng hoá đã xuất hiện của cảI bằng nô lệ, tiền, ruộng đất. Tuy nhiên, trong xã
hội cộng sản nguyên thuỷ, hình thức sở hữu đặc trưng vẫn là sở hữu công xã, sở hữu
bộ lạc

b. Hình thái kinh tễ xã hội chiếm hữu nô lệ.

Trong thời kỳ này, công cụ sản xuất có bước chuyển biến lớn, con người sản xuất
chủ yếu với những công cụ bằng kim loại làm tăng năng suất lao động. Sở hữu công
xã được thay thế bằng sở hữu tư nhân. Nhà nước nô lệ xuất hiện. Bên cạch sở hữu
công xã chưa mất hẳn đi là hình thức sở hữu nhà nước. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ



tù binh chiến tranh, nông dân, những người bị phá sản, là một lực lượng có thể tạo ra
sản phẩm thặng dư lớn, họ trở thành nô lệ bị coi là những công cụ biết nói và nhứng
gia súc, bị coi là những món hàng có thể trao đổi mua bán cả sức lao động cũng thế.
Như vậy hình thức chiếm hữu trong chế độ chiếm hữu nô lệ: sở hữu công xã, sở hữu
nhà nước, sở hữu tư nhân nhưng nét đặc trưng trong chế độ chiếm hữu nô lệ là chiếm
hữu về mặt thân thể người nô lệ.

c.Hình thái kinhtế xã hội phong kiến

Sở hữu công xã chưa mất đi mà vẫn tồn tại. Người nông nô chẳng những là những
người chủ mặc dầu đó là những người chủ phải nộp cống vật của những mảnh đất đó
thuộc về nhà ở của họ, mà họ là những người chủ chung của những đất đai của những
công xã nữa. Bên cạnh sở hữu công xã, còn có sở hữu nhỏ của người nông dân.
Người nông dân tự do làm chủ mảnh ruộng của mình. Trong xã hội phong kiến, sở

hữu ruộng đất gắn liền với sở hữu tư hữu C.Mac viết “ Nói chung sự thống trị của chế
độ tư hữu bắt đầu cùng với chế độ chiếm hữu ruộng đất là cơ sở của chế độ tư hữu”.
Cùng với sở hữu ruộng đất ở nông thôn thì ở thành thị cũng có sở hữu phường hội tức
là tổ chức phong kiến của tiểu thủ công nghiệp. Như vậy trong thời đại phong kiến
hình thức chủ yếu một mặt là sở hữu ruộng đất với lao động của nông nô đã bị cột
chặt vào nó, mặt khác là lao động của bản thân tiến hành với một tư bản nhỏ chi phối
lao động của thợ bạn.

d. Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa.

Nền sản xuất xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc. Phương thức sản xuất cũ tự
cung tự cấp của xã hội phong kiến bị nền sản xuất hàng hoá tư bản phá vỡ, công cụ
thủ công được thay thế bằng công cụ cơ khí một cách phổ biến. Những biến đổi to



lớn của công cụ sản xuất của nền sản xuất hàng hoá đã chi phối quá trình vận động
của các hình thức sở hữu. Chuyển lên chủ nghĩa tư bản, sở hữu công xã về ruộng đất
vẫn tiếp tục tồn tại thậm chí còn phổ biến ở nhiều nơi. Sở hữu ruộng đất dưới chủ
nghĩa tư bản tồn tại với tư cách là hàng hoá cho nên thường xuyên diễn ra sự canh
tranh giữa những người sở hữu ruộng đất, biến sở hữu nhỏ thành sơ hữu lớn của một
số ít người. Bên cạnh sự canh tranh, còn có sự tước đoạt ruộng đất, tư liệu sản xuất,
công cụ lao động của đông đảo quần chúng lao động. Sự tước đoạt đó diễn ra theo
quy luật nội tại của bản thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá nên trong chủ
nghĩa tư bản đã xuất hiện một số hình thức sở hữu mới bên cạnh sở hữu tư nhân như :
sử hữu cổ phần, sở hữu tư bản nhà nước “Trong công nghiệp lớn và cạnh tranh, tất
cả các điều kiện tồn tại của các nhân đIều hoà trong hai hình thức đơn giản nhất : sở
hữu tư nhân và lao động “. Vì vậy, trong chủ nghĩa tư bản hình thức sở hữu đặc trưng

là sở hữu tư nhân.

Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sở hữu tư nhân vẫn giữ vai trò chủ đạo,
nhưng xuất hiện nhiều hình thức mới như cônh nhân có sở hữu trong các công ty cổ
phần của tư bản, và xuất hiện các xí nghiệp công quản.


III. Sự tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng và quyền quản lý

Quy luật phát triển của nền kinh tế dã cho thấy các quyền gắn liền với phạm
trù đã có sự biến đổi rất đáng kể.ở thời kỳ đầu quyền sở hữu , quyền quản lý và
quyền sử dụng thống nhất với nhau trong cùng một người chủ sở hữu về mặt pháp
lý. Sự xuất hiện của tư bản cho vay đã làm cho hai quyền sở hữu và sử dụng tách rời



nhau “ tư bản sở hữu tách rời tư bản sử dụng “ Tài sản và vốn chỉ sinh lợi khi đưa vào
sử dụng trong kinh doanh một cách hợp lí. Người có quyền sở hữu thông qua việc
giao quyền sử dụng cho ngườ khác để thực hiện lợi ích kinh tế của mình, nếu có
quyền sở hữu mà không đạt lợi ích kinh tế thì quyền đó trở thành vô nghĩa. Mặt khác,
người sử dụng cần thiết phảI dựa vào và tôn trọng quyền sở hữu của người khác mới
được sử dụng tư liệu sản xuất cần thiết. Người sử dụng phảI đạt được lợi ích của
mình thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, quan hệ lợi ích phải đảm
bảo lợi ích cho cả chủ sở hữu và người sử dụng,làm tách biệt quyền quản lý và quyền
sử dụng. Sự ra đời của công ty cổ phần và khi lao động quản lý trở thành một nghề đã
dẫn đến sự tách rời giữa quyền quản lý và quyền sử hữu.

Tất nhiên sự tách rời này chỉ có ý nghĩa tương đối vì giám đốc khi tực hiện các
chức năng quản lý phảI dựa vào các chiến lược sản xuất kinh doanh, kỹ thiật và công
nghệ do Hội Đồng Quản Trị, với tư cách là người đại diện cho quyền sở hữu, đề ra.

Vì vậy, quyền sở hữu vẫn giữ vai trò quyết định, nhưng quyền quản lý và phân phối
không vì thế mà không còn giá trị.

Chương II: Cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ ở nước ta

I.Vấn đề sở hưũ trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung
Trong những năm nền kinh tế vận hành trong cơ chế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp, khi giảI quyết vấn đề sở hữu chúng ta đã mắc phảI khuyết đIểm khá
trầm trọng. Chúng ta đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu xã hội chủ nghĩa và
quan niệm rằng chỉ có chế độ công hữu mới bảo đảm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu
xã hội, mới thúc đẩy sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Chúng ta coi chế độ công hữu



là mục tiêu, là tiêu chí số một để đánh giá mức độ đạt được của quá trình tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thậm chí được coi là tiêu thức để đánh giá mức độ lập trường giai cấp.

ĐIều đó dẫn tới một sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức là hợp tác xã càng
lớn, càng có nhiều “ hợp tác xã cấp cao “, xí nghiệp có quy mô ngày càng lớn thì
chất chủ nghĩa xã hội càng nhiều, càng tiến gần đến chủ nghĩa xã hội hơn. Chúng ta
đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí còn coi đó là hình thức
sở hữu đối lập với xã hội chủ nghĩa, là mầm mống khôI phục lại chế độ người bóc lột
ngươI lao động.

Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Song
“sở hữu toàn dân” thực tế là “sở hữu nhà nước”, nhà nước đại diện cho người lao
động thực hiên quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chứ không phải người lao
động là các chủ sở hữu trực tiếp, không được bảo đảm bằng cơ sở kinh tế trực tiếp.

Còn “sở hữu tập thể” (trong hợp tác xã) được vân hành theo cơ chế cũ, tự nhiên biến
thành sở hữu của ban quản lý hợp tác xã, còn xã viên thì như người đi làm thuê. Thực
tế trên đã cho thấy người dân chỉ là chủ sở hữu hình thức, các quan hệ lợi ích chưa
được tạo ra nhằm thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, năng suất lao động
thấp, hiệu quả kinh tế rất thấp, hàng hoá thiếu thốn, đời sống nhân dân rất khó
khăn.Tình trạng bao cấp ỷ lại vào Nhà nước kéo dài và ngày càng nặng nề.

Sỡ dĩ chủ trương trên được thực hiện một cách như vậy là do chúng ta cho
rằng có thể và cần sử dụng tính chủ động của nền chuyên chính vô sản đưa quan hệ
sở hữu đI trước một bước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là quan
đIểm sai lầm nghiêm trọng, đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
một thời gian dài.




Đại hội VI đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong quá trình thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Đảng ta đã nhân thức được lực lượng sản xuất lac hậu không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố quan xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, trình độ xã
hội hoá còn thấp, muốn hoàn thành quá trình cảI tạo XHCN trong một thời gian ngắn,
đưa nhanh quan hệ sản xuất lên trình độ xã hội hoá cao, bỏ qua các hình thức trung
gian quá độ là thoát ly tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ
trương đó đã kìm hãm tiềm năng phát triển to lớn của nhân dân về vốn, sức lao động
và tay nghề để phát triển lực lượng sản suất. Hơn nữa, việc cải tạo quan hệ sản xuất
chủ yếu chỉ chú ý tới chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, coi quan hệ phấn phối và
quản lý. Tuy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là nền tảng cho quan hệ sản xuất
mới, nhưng khi chế độ quản lý và chế độ phân phối không phù hợp thì ngay cả các

đơn vị kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, được trang bị kỹ thuật cao hơn cũng làm ăn
kém hiệu quả.




II. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Qua những đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
chứng tỏ tính đúng đắn của đường đối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình
thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn cho



thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phảI bao gồm nhiều hình thức sở
hữu, không thể chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như trước đây. Hiện
nay chúng ta đang xây dựng và phát triển một cơ cấu sở hữu đa dạng với các hình
thức sở hữu : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư nhân tư bản
và sở hữu hỗn hợp.

1. Sở hữu nhà nước

Xét về bản chất, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là chế độ
công hữu. Mọi thành viên trong xã hội là chủ nhân của các tư liệu sản xuất và các tàI
nguyên quan trọng của nền kinh tế. Trong chế độ đó không ai có quyền chiếm đoạt tư
liệu sản xuất để làm phương tiện nô dịch lao động của người khác. Chế độ đó được
hình thành không phảI do áp đặt chủ quan mà là do kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất lao động. Phạm trù sở hữu toàn dân là để chỉ bản
chất của sở hữu xã hội chủ nghĩa còn sở hữu nhà nước xã hội chủ nghĩa là hình thức

thể hiện của sở hữu nói trên.

Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân dân sở
hữu những tài nguyên, tàI sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cảI của
đất nước.

Sở hữu nhà nước nghĩa là nhà nước là chủ sở hữu, còn quyền sử dụng giao cho
các đơn vị tổ chức kinh tế và các cá nhân để phát triển kinh tế một cách hiệu quả
nhất.Đó là sự tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng, chủ sở hữu với chủ kinh
doanh, làm cơ sở và đIều kiện để nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình, còn
doanh nghiệp được tính tự chủ của đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng hoá thực sự.
Tính đến sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng của



các chủ thể sản xuất kinh doanh và tính đến việc sử dụng theo nhiều mức độ khác
nhau về sự tách biệt nói trên là hai khuynh hướng rất cơ bản để hoàn thiện hình thức
sở hữu nhà nước xã hội chủ nghĩa theo sự tiến bộ, hiện đại của quản lý kinh tế xã hội.

Trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu, sở hữu nhà nước giữu vai trò chủ
đạo. Khái niệm sở hữu nhà nước có nội dung và phạm vi rộng lơn, trong đó có doanh
nghiệp nhà nước.Do vậy, không chỉ có doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
mà là kinh tế nhà nước trong đó doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận giữ vai trò
chủ đạo.

Sở hữu nhà nước có thể tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp 100% vốn của
nhà nước, hoặc dưới hình thức doanh nghiệp mà vốn của nhà nước chiếm đa số hay
nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc có cổ phần trong các hình thức doanh
nghiệp khác với hàm lượng chưa nhiều. Hiện nay, ở nước ta, sở hữu nhà nước đang
được củng cố và hoàn thiện dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú như : khoán

thuê, đấu thầu, hợp đồng, liên doanh về kinh tế và đang từng bước hình thành những
công ty cổ phần.

2.Sở hữu tập thể

Sở hữu tập thể là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động) tự
nguyện tham gia cùng hợp tác với nhau để tổ chức sản xuất kinh doanh.

Đảm bảo tính tự nguyện của người lao động là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc
hình thành và hoàn thiện hình thức sở hữu tập thể. Người lao động chỉ thực sự tự



nguyện xây dựng và bảo vệ sở hữu tập thể khi có những hình thức tổ chức quản lý
sản xuất phân phối sản phẩm bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng của họ.

Sở hữu tập thể biểu hiện ở sở hữu tập thể của các hợp tác xã trong nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng vận tải ở các nhóm, tổ đội trong các công ty cổ phần. Sự
chuyển đổi từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế thị truờng có sự quản lý của
nhà nước đang thúc đẩy sự ra đời của nhiều hình thức hợp tác kiểu mới.

Trong hình thức sở hữu tập thể sở hữu cá thể vẫn tồn tại và được bảo đảm tôn
trọng là cơ sở để mỗi hộ thành viên vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, nhưng lại gắn
bó và phát triển trong cộng đồng. Mặt khác nó là một trong nhũng cơ sở để phân phối
lợi ích cho mỗi thành viên. Sở hữu tập thể một phần bảo vệ lợi ích, quyền lợi của
những người lao động nghèo thường bị yếu thế trong hoạt động của kinh tế thị trường
vì nếu chỉ có một mình thì họ thường chỉ có số vốn ít ỏi, lực không đủ mạnh nên họ
thường bị yếu thế trong cạnh trạnh.

3. Sở hữu cá thể


Sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân
người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cà thể, thợ thủ công, tiểu
thuơng Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. Với quy mô và phạm vi
rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có lao động.

Trong thời kỳ quá độ, sự tồn tại của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất không đối
lập với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, bởi vì nó là sở hữu của những người lao



động.” Với tư cách là sở hữu của người sản xuất trực tiếp thì tư liệu sản xuất và tư
liệu sing hoạt không phải là tư bản”.

“Sở hữu tư nhân là hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất Hình thức giao tiếp đó không thể bị xoá bỏ và là đIều kiện
cần thiết cho sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, chừng nào chưa tạo ra được
những lực lượng sản xuất mà đối với chúng sở hữu tư nhân trở thành xiềng xích hoặc
trở ngại.” (C.Mac)

Sở hữu tư nhân cá thể tận dụng và phát huy một cách tối đa tiềm lực sẵn có trong
nhân dân, trong từng hộ gia đình, giảI quyết những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống
của nhân dân.Đối với đất nước ta, nến kinh tế còn lạc hậu, việc khuyến khích phát
triển kinh tế cá thể, tiểu chủ là đIều kiện cần thiết để giải phóng lực lượng sản xuất,
thông qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế.

Cần xác định quyền tư hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất của mình là
cơ sở của nền sản xuất nhỏ, mà nền sản xuất nhỏ là đIều kiện tất yếu để phát triển
nền sản xuất xã hội và cá tính tự do của bản thân người lao động. Có quyến sở hữu và
được tự do là những tiền đề quan trọng để biến người nông dân trong nền nông

nghiệp tự cấp tự túc thành người tiểu chủ trong nền sản xuất hàng hoá. Quá trình náy
là một tất yếu khách quan. Nó khơI dậy động lực của sự phát triển, kích thích người
lao động phát huy năng lực sáng tạo, tính tích cực và tinh thần trách nhiệm trong hoạt
động sản xuất.


4. Sở hữu tư nhân tư bản




Sở hữu tư nhân tư bản là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các ngành,lĩnh
vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.

Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại ở một mức độ nhất định trong
thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, trong thời kày quá độ, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta chỉ hoạt
động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoà nhiều thành
phần, được “ bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp “. Xét về thực chất, đây là
quan hệ tư hữu mang tính chất bóc lột. Tuy nhiên nó vẫn có cơ sở kinh tế để tồn tại
một cách khách quan. Vấn đề quan trọng là sử dụng hình thức sở hữu này làm sao có
lợi đối với nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần có
chính sách, biện pháp thích hợp để hạn chế mặt tiêu cực của nó, để hướng nó đI theo
quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội bằng những hình thức : hợp tác, liên doanh, liên kết,
chủ nghĩa tư bản nhà nước, công ty cổ phần

Hiện nay, so với yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản
xuất công, nông nghiệp và so với tiềm năng có thể huy động được còn thấp chưa
tương xứng. Điều này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chưa đánh giá
đúng mức vai trò của nó và còn có sự phân biệt đối xử giữa nó với các thánh phần

kinh tế khác cũng như với chủ đầu tư nước ngoài. Qua thực tiễn đã cho thấy hình
thức sở hữu tư nhân tồn tại với tư cách là một động lực có tác dụng không nhỏ đối
với sự phát triển kinh tế.

5. Sở hữu hỗn hợp




Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác
nhau về tính chất.

Sở hữu hỗn hợp là hình thức phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thờ kỳ quá độ.
Mỗi chủ thể kinh tế có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế, khi thấy
có lợi. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối liên hệ nội tại và tác
động qua lại lẫn nhau, nó là kế quả của công cuộc cảI tạo và xây dựng kinh tế theo
định hướng xa hội chủ nghĩa.

Có thể nói, đây là một loại hình kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa các
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, thường
có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác
nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể nhà nước, tập thể và tư nhân để tạo
nên các dạng sở hữu sinh động như : nhà nước và nhân dân; nhà nước và tập thể; nhà
nước, tập thể và tư nhân; tập thể và tư nhân Thực chất, đây cũng là các xí nghiệp (
hoặc công ty ) cổ phần, chỉ có sự khác biệt ở chỗ các chủ thể không đồng nhất về tính
chất. Đó là hình thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào
– hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dưới dạng công ty, xí nghiệp cổ phần
hùn vốn liên doanh hai bên và nhiều bên ở trong nước với nước ngoài.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hióa nhiều thành phần,

chúng ta càn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, hay hình thức kinh tế tư bản
nhà nước làm phương tiện cứu cánh để phát triển. Bởi chủ nghĩa tư bản nhà nước là
một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự tồn tại của nó là thực sự cần thiết.
Đây là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó có cổ phần tham dự của nhà nước và tư
nhân với nhiều hình thức cụ thể, trên mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tín
dụng.




Hiện nay, ở nước ta, kinh tế tư bản nhà nước bao gồm nhiều hình thức hợp tác liên
doanh kinh tế giữa tư bản tư nhân trong nước và hợp tác kinh tế giữa nhà nước với tư
bản nước ngoài. Nó có ưu thế mạnh hơn tư bản tư nhân ở chỗ, nó đã kết hợp được
sức mạnh tổng hợp của hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn nhất trong thời kỳ quá
độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nước ta là cáI có khả năng thực hiện tập
trung hoá, chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, có sức
mạnh cạnh tranh lớn trên thị trường trong nước và ngoài nước.

Để cho “ chủ nghĩa tư bản nhà nước “ có những đóng góp thực sự cho việc phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướn xã hội chủ nghĩa, chúng
ta cần phải tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của nó.
Hiện nay, chúng ta đang chủ trương cổ phần hoá dong nghiệp nhà nước, đó chính là
một giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư bản nhà nước, đa dạng hoá các hình thức sở
hữu. Tuy nhiên vấn đề này còn hết sức mới mẻ, cần phảI nhận thức một cách đầy đủ
và áp dụng từng bước.



III. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa


1. Mối quan hệ giữa vấn đề sở hữu và các hình thức kinh tế.





Có thể nói, đặc đIểm rõ nét nhất trong đường lối phát triển của chúng ta là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.

Vấn đề sở hữu có liên quan đến thành phần kinh tế, vì nó là cơ sở kinh tế-một căn
cứ để xác định thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tễ có những đặc trưng riêng
có của nó về tính chất xã hội hoá lao động, trình độ phát triển lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế Trong đó quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất quyết định bản chất của các thành phần kinh tế đó. Quan hệ sở hữu
quyết định sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế. Còn các thành phần
kinh tế là biểu hiện của quan hệ sở hữu. Mỗi thành phần kinh tế biểu hiện ra ở bề mặt
cuộc sống dưới dạng các hình thức kinh tế cụ thể.

Trong thực tiễn, các thành phần kinh tế không tách biệt nhau, mà quan hệ với
nhau, tác động lấn nhau, đan kết với nhau dưới nhiều hình thức kinh tế. Tuy thế
không có nghĩa là bản chất của chúng đã bị hoà tan không còn xác định được nữa.
Các hình thức kinh tế bao giờ cũng là sự biểu hiện ra bên ngoàI của các quan hệ sở
hữu khác nhau.

Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, chúng không
tồn tại biệt lập mà đan xen với nhau, và quyết định sự hình thành các tổ chức kinh tế
đa dạng. Mối quan hệ giữa sở hữu và các hình thức kinh tế là mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức. Nội dung và hình thức phảI phù hợp nhau. Sự tác động lẫn nhau

giữa quan hệ sở hữu và hình thức kinh tế được thể hiện thông qua lợi ích kinh tế. Lợi
ích kinh tế là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự vận động và phát triển của
xã hội.




Tuy nhiên, cần phân biệt sở hữu, thành phần kinh tế với các hình thức doanh
nghiệp.Với cơ chế cũ chúng ta vô tình hay hữu ý đã đồng nhất chế độ sở hữu và
thành phần kinh tế. Khi đó chúng ta thừa nhận có ba thành phần kinh tế : quốc doanh,
hợp tác xã, kinh tế cá thể. Trong đó kinh tế cá thể được coi là “ phi xã hội chủ nghĩa
“. Ngoài ra, kinh tế quốc doanh – vốn là sở hữu nhà nứơc, lại đồng nhất với sở hữu
toàn dân. Với cách giảI thích nhà nước là đại diện cho toàn dân đãlàm giảm nhẹ trách
nhiệm của nhà nước, khiến chúng ta rơi vào tình trạng không xác định rõ chủ sở hữu
gắn liền với trách nhiệm.

Chế độ sở hữu chỉ xét về quan hệ với những tư liệu sản xuất chủ yếu, còn thành
phần kinh tế lại là những tác nhân kinh tế, là nguồn tạo ra những giá trị sản xuất dịch
vụ cho xã hội. Cũng là sở hữu tư nhân nhưng các tác nhân kinh tế có thể là người sản
xuất các thể, tiểu chủ hay tư sản tư nhân. Chủ nghĩa tư bản chỉ có hai hình thức sở
hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Chúng ta mong muốn xây dựng một chế
độ sở hữu duy nhất là sở hữu toàn dân. Nhưng để đi tới đó, loài người phải đi một
bước quá độ là xây dựng chủ nghĩa xã hội với hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể.Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, một mặt chế
độ sở hữu đã được đa dạng hoá, xuất hiện hình thức đan xen về chế độ sở hữu, mặt
khác cũng thấy rõ nét xuất hiện 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Rõ
ràng, chúng ta đã có một sự điều chỉnh có thể gọi là điều chỉnh quan hệ sản xuất cho
phù hơn với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất nhằm giải phóng sức sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Chính nhờ việc phát

triển nền kinh tế nhiều thành phần công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta đã nhanh
chóng đạt được những kết quả quan trọng.

2.Các thành phần kinh tế




a.Kinh tế nhà nước.

Thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh
doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà
nước , hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế.

Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước ( kinh tế quốc doanh), các
tàI sản thuộc sở hữu nhà nước.

Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc
hạch toàn kinh tế, thực hiện phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đổi mới và phát triển kinh tế nhà
nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế-xã hội. Cần hoàn thiện chế độ chính sách,
luật pháp bảo đảm doanh nghiệp nhà nước thật sự là một đơn vị sản xuất hàng hoá có
tư cách pháp nhân. Phân định rõ quyền sơ hữu nhà nước với quyền đại diện chủ sở
hữu nhà nước; quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng quyền quản lý. Tách bạch
chức năng quản lý kinh tế với quản lý tàI sản nhà nước và quản lý kinh doanh của
doanh nghiệp.

b.Kinh tế hợp tác.

Kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các

hình thức đa dạng phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia.

Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tác xã. Kinh tế hợp tác xã là
những hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ theo những nguyên tắc, có tổ



chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng.Kinh tế hợp tác xã được phát triển dưới
nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng
có lợi.

Nhà nước cần xây dựng và thực hiện cò hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối
với nông nghiệp, nông dân, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất
đời sống, chính sách thị trường để từng bước đưa kinh tế hợp tác đưa kinh tế hợp tác
xã cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

c.Kinh tế tư bản nhà nước.

Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động
của các đơn vị tổ chức kinh tế tư bản trong và ngoài nước.

Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất
kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước, nhằm sử
dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát, giúp
đỡ của nhà nước.

Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động, sử dụng vốn,
kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của nhà tư bản. Cần đa dạng hoá
các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty nước ngoài, nâng dần tỷ
lệ đầu tư của phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh

giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp
trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác với nước ngoài. Cải thiện môi



trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ
quyền lợi của người lao động.

d.Kinh tế cá thể.

Kinh tế cá thể của tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán,
dịch vụ cà thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh
doanh phân tán, trình độ kỹ thuật thủ công. Mục đích chủ yếu là nuôI sống mình, còn
tiểu chủ bản thân vừa lao động vừa thuê một số ít lao động.

Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ phát huy nhanh có hiệu quả tiền vốn, sức lao
động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế, nó có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội. Do những ưu thế của nó, Nhà
nước và các thành phần kinh tế không thể không tạo điều kiện, hướng dẫn thành phần
kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, kỹ thuật, công nghệ,tiêu thụ sản phẩm để từng bước
tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho các doanh
nghiệp của nền kinh tế.

e. Kinh tế tư bản tư nhân.

Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản
trong nước hoặc nước ngoài đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ.

Nét nổi bật của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp,

thuê và bóc lột sức lao động làm thuê, thường đầu tư vào những ngành vốn ít, lãI cao.

×