Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Luận văn thạc sĩ VNU LS pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 132 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân và gia đình là những hiện tượng phát sinh trong quá trình phát
triển của lồi người. Lịch sử phát triển của xã hội lồi người gắn liền với q
trình phát sinh, thay đổi những hình thái hơn nhân gia đình. Cùng với sự hình
thành của Nhà nước việc kết hơn đã trở thành sự kiện pháp lý làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ pháp luật.
Ở Việt Nam, pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền hôn nhân hợp pháp của
công dân Việt Nam với công dân Việt Nam và công dân Việt Nam với người
nước ngồi trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, khơng vi phạm pháp luật và đạo đức
xã hội. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi
năm 2001, tại Điều 64 quy định “ Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ
hơn nhân và gia đình. Hơn nhân theo ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ,
một chồng, vợ chồng bình đẳng”.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước
trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập khu vực, vấn đề kết hôn giữa cơng dân
Việt Nam với người nước ngồi ngày càng phát triển nhanh chóng. Theo báo
cáo của Ban chỉ đạo 130/CP về Sơ kết chương trình hành động phịng chống tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em ngày 22/12/2006, từ năm 1988 đến tháng 12 năm
2006, trong cả nước đã có 136.000 phụ nữ Việt Nam kết hơn với người nước
ngồi, trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có cơng dân kết hôn với phụ nữ Việt
Nam [51]. Sự gia tăng của các quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với
người nước ngồi đã thể hiện chính sách đối ngoại rộng mở và quan điểm nhân
đạo, tôn trọng tự do hôn nhân giữa người Việt Nam với người nước ngồi.
Tuy nhiên thực trạng kết hơn với người nước ngoài đã và đang phát sinh
nhiều vấn đề phức tạp, trong đó dư luận xã hội đặc biệt quan tâm đến vấn đề

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



phụ nữ Việt Nam kết hơn với người nước ngồi, chủ yếu là người Đài Loan,
Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác trong khu vực. Nhiều cuộc hôn
nhân đã khơng xuất phát từ tình u, sự hiểu biết và gắn bó giữa những người
kết hơn, mà xuất phát từ những nguyên nhân kinh tế và nhiều nguyên nhân trục
lợi khác đặt lợi ích vật chất cao hơn mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, đi
ngược lại ngun tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ của chúng ta. Phần lớn các
trường hợp kết hơn đều khơng qua tìm hiểu, các cô dâu Việt Nam chấp nhận
những cuộc hôn nhân “xứ người” trong khi khơng có thơng tin, hiểu biết về luật
pháp cũng như phong tục, tập quán của nước mà mình sẽ đến làm dâu, khơng
biết gì về bản thân chú rể và gia đình chồng. Sự bất đồng về ngôn ngữ là một
cản trở lớn đối với các cô dâu Việt Nam, đa số những người kết hơn khơng hiểu
biết ngơn ngữ của nhau, thậm chí cho đến lúc đăng ký kết hôn mọi sự liên hệ
giữa cô dâu và chú rể đều phải thông qua người môi giới hoặc phiên dịch [91].
Những trường hợp kết hôn như vậy “hứa hẹn” những cuộc hơn nhân đầy khó
khăn bất trắc cho người phụ nữ Việt Nam ở nơi đất khách quê người. Trong
thực tế đã có nhiều phụ nữ bị lừa, khi sang đến nước ngoài đã bị đối xử tồi tệ,
khinh rẻ, buộc phải chấp nhận cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả, thậm chí bị
hành hạ, đánh đập hoặc bị xô đẩy vào con đường mại dâm và khơng có lối thốt
trở lại Việt Nam.
Hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này đã có những quy định cụ
thể, rõ ràng tạo hành lang pháp lý cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi công dân, đặc biệt là phụ nữ trong các quan hệ hơn nhân và gia đình
(HNGĐ). Những quy định của Hiến pháp về vấn đề này đã được cụ thể hóa
trong Luật Hơn nhân gia đình Việt Nam (LHNGĐ) năm 2000, Bộ Luật Dân sự (
LDS) năm 2005, Nghị định 68/2002/NĐ-CP của chính phủ ngày 10/7/2002 quy
định chi tiết thi hành một số điều LHNGĐ về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngồi, Nghị Định số 87/2001/NĐ- CP của Chính phủ ngày 27/3/2001 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hơn nhân gia đình, Chỉ thị số 03/2005/CT2


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


TTg ngày 25/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý Nhà
nước đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi và các Hiệp định tương trợ
tư pháp (HĐTTTP) liên quan đến vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngồi, Nghị
định số 69/2006/NĐ- CP ngày 21/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định định số 68/2002/NĐ- CP. Các văn bản pháp
luật này đã từng bước được hoàn thiện nâng cao hiệu quả trong việc điều chỉnh
các quan hệ HNGĐ nói chung cũng như quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài.
Tuy vậy, một số tổ chức và cá nhân đã lợi dụng những kẻ hở trong chính
sách của Nhà nước để tổ chức môi giới hôn nhân, kinh doanh trục lợi hoặc các
hoạt động bất hợp pháp khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm của những người phụ nữ Việt, gây nên sự bất
bình trong dư luận. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này thời
gian qua đã bộc lộ một số điểm hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
các quan hệ hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngồi trong giai đoạn hiện nay.
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu cấp thiết, cơ bản và lâu dài đòi hỏi phải
nghiên cứu nghiêm túc, sửa đổi hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề kết
hơn với người nước ngồi và quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi, bảo vệ
quyền và lợi ích của phụ nữ, quyền tự do kết hôn của công dân Viêt Nam. Việc
xem xét và đánh giá thực trạng pháp luật điểu chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố
nước ngồi ở Việt Nam cùng với nghiên cứu thực tiễn kết hôn giữa phụ nữ Việt
Nam với người nước ngồi để từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp thiết
thực, hữu hiệu nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam đáp ứng ngày càng cao các
yêu cầu của công cuộc mở cửa, hội nhập thế giới là một đòi hỏi khách quan.
Với những lý‎ do trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Pháp luật về kết hơn
có yếu tố nước ngồi của Việt Nam, thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu.


3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Xung quanh vấn đề kết hơn có yếu nước ngồi đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều luật gia Việt Nam với các đề tài, cơng trình nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước và sau khi LHNGĐ được ban hành, đã có
một số cơng trình khoa học, bài viết liên quan đến vấn đề kết hôn có yếu tố
nước ngồi: bài viết “ Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước
ngồi tại Việt Nam” đăng trên Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 4 năm 2000, một
số bài viết, bình luận về LHNGĐ đăng trên số chuyên đề 2/2000 của Bộ Tư
pháp “Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000”, tác giả Nguyễn Hồng Bắc với
cơng trình nghiên cứu “ Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước
ngồi ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”... Các bài viết, cơng trình nghiên cứu
làm sáng tỏ nhiều vấn đề về HNGĐ có yếu tố nước ngồi, tuy nhiên chưa có
cơng trình nghiên cứu khoa học nào tập trung đi sâu vào vấn đề kết hơn có yếu
tố nước ngồi nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi mà kết hơn với người
nước ngồi đang trở thành vấn đề nóng ở nhiều địa phương.
Trên các phương tiện thơng tin đại chúng thời gian vừa qua đã phản ánh
tình hình kết hơn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngồi dưới nhiều góc độ
khác nhau: Báo Phụ nữ Việt Nam, báo Lao động xã hội, Báo Sài Gòn Giải
phóng, Việt Nam net, các kênh truyền hình.... Vấn đề kết hơn với người nước
ngồi đã và đang thu hút sự quan tâm của dư luận. Đặc biệt trong tháng 4, tháng
5, tháng 6 năm 2006, trên nhiều trang báo đã nóng lên với những bài viết: “Bi
kịch từ cơn sốt lấy chồng Đài Loan” (Báo Vietnam net ngày 25/5/2006), phản
ứng của một số báo Báo Tuổi trẻ, Báo Phụ nữ Việt Nam về bài viết “ các cô
Việt Nam đến Hàn Quốc - mảnh đất của hy vọng” đăng trên báo Chosun- Hàn
Quốc tháng 4/2006, và trong tháng 14/12/2006, Star online đã đăng một số

thơng tin về tình trạng tìm vợ Việt Nam trên các tờ rơi tại các quán cà phê ở
thành phố Qualalămpua- Malaixia.., các bài trả lời phỏng vấn của lãnh đạo Hội
Liên hiệp phụ nữ ( Hội LHPN) Việt Nam xung quanh vấn đề phụ nữ Việt Nam

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


lấy chồng nước ngồi, một số cơng trình nghiên cứu về kết hơn với người Đài
Loan của Viện Gia đình và Giới: “ Kết hơn với người nước ngồi qua môi giới
hôn nhân ở Việt Nam hiện nay”- tác giả Trần Thị Hồng, “Phụ nữ Việt Nam kết
hôn với người Đài” của Phùng Thị Kim Giang...
Hội LLHPN Việt Nam là một tổ chức chính trị xã hội đã có nhiều động
thái tích cực nhằm ngăn ngừa các vi phạm và cải thiện tình hình kết hơn giữa
phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Hội đã tiến hành một nghiên cứu về
“Thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan” tại các tỉnh
Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang năm 2004, tổ chức hội thảo quốc gia về vấn đề
“Phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngồi” tại thành phố Hồ Chí Minh
tháng 6/2006 nhằm tìm giải pháp về vấn đề phụ nữ kết hơn với người nước
ngoài cùng nhiều hội thảo, diễn đàn cấp Trung ương và địa phương liên quan
đến vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Tuy nhiên những bài viết, hội thảo trên mới chỉ dừng lại ở việc tiếp cận
vấn đề, cung cấp thông tin, tuyên truyền, phổ biến mang tính chất cảnh báo về
thực trạng kết hơn diễn ra khá rầm rộ và tiềm ẩn nhiều nguy cơ mà chưa được
nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ pháp lý để hoàn thiện các quy định
của pháp luật về hơn nhân có yếu tố nước ngồi nói chung và kết hơn có yếu tố
nước ngồi nói riêng.
3. Mục đích của đề tài:
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn kết hơn có yếu tố nước ngồi, luận văn đánh giá

thực trạng và xu hướng kết hôn với người nước ngồi tại Việt Nam với mục đích:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về pháp luật điều
chỉnh kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Đánh giá thực trạng tình hình kết hơn của phụ nữ Việt Nam với người nước
ngoài.

5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề kết hơn có yếu tố nước
ngồi, sự phù hợp giữa pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết có liên quan. Từ đó đưa ra những kiến
nghị nhằm hồn thiện pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Trong khuôn khổ của đề tài, Luận văn khơng có tham vọng đề cập tất cả các
vấn đề về kết hơn có yếu tố nước ngồi mà chỉ tập trung vào một số nội dung chính:
Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của luật pháp về vấn đề kết hơn
có yếu tố nước ngồi.
Khái niệm kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Cơng ước CEDAW và một số HĐTTTP trong lĩnh vực kết hơn có yếu tố
nước ngồi.
Thực trạng kết hơn giữa người Việt Nam và người nước ngoài tại Việt
Nam, đặc biệt là kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan, Trung
Quốc, Hàn Quốc.
Phân tích, đánh giá thực tiễn và pháp luật hiện hành về đề kết hơn có yếu
tố nước ngoài.
Đề xuất giải pháp, kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật về kết hơn có yếu

tố nước ngồi.
5. Cơ sở khoa học của đề tài:
Cơ sở lý‎luận:
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề kết hơn có
yếu tố nước ngồi. Các nghị qu‎yết Đại hội Đảng toàn quốc VI, VII, VIII, IX và X.
Các văn bản pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Cơ sở thực tiễn:
Thực trạng tình hình kết hơn giữa người Việt Nam và người nước ngoài.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể:
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phân tích, so sánh.
- Phân tích số liệu.
7. Điểm mới của luận văn.
Nghiên cứu các vấn đề pháp l‎‎ý mới có liên quan đến kết hơn có yếu tố nước
ngồi.
Đánh giá đúng, đầy đủ thực trạng bức tranh về tình hình kết hơn giữa phụ
nữ Việt Nam với người nước ngồi và các vấn đề nổi cộm.
Đề xuất giải pháp về mô hình hỗ trợ kết hơn giữa người Việt Nam với
người nước ngồi và phịng ngừa bn bán phụ nữ trẻ em qua hình thức kết hơn
với người nước ngồi.
8. Cơ cấu của luận văn:

Luận văn đựơc trình bày trong 3 phần: Phần mở đầu, ba chương, kết luận
và phần tài liệu tham khảo.

7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chƣơng 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ‎LUẬN CHUNG VỀ KẾT HÔN CĨ YẾU TỐ
NƢỚC NGỒI VÀ THỰC TRẠNG KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ KẾT HƠN CĨ YẾU
TỐ NƯỚC NGỒI.
1.1.1. Khái niệm.
1.1.1.1 Hôn nhân
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội lồi người. Hơn nhân là cơ sở của gia đình, có mối liên hệ
biện chứng, chặt chẽ và trực tiếp với sự phát triển của kinh tế, xã hội. Trong tác
phẩm kinh điển về “ Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu của nhà nước” [33]
Anghen nhấn mạnh sự phát triển của hôn nhân và gia đình phụ thuộc vào quan
hệ sở hữu thống trị trong xã hội đó và sự chuyển đổi của bất kỳ hình thái kinh tế
xã hội nào đều được quyết định bởi sự thay đổi các điều kiện vật chất của xã hội
và quá trình này tác động đến sự phát triển các quan hệ HNGĐ. Trong tác phẩm
của mình, Anghen đã phân tích nguồn gốc sự phát triển của gia đình từ giai
8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



đoạn thấp nhất của xã hội loài người khi con người mới tách ra khỏi thiên nhiên
đến giai đoạn cao. Trong giai đoạn đầu con người vẫn sống theo bầy đàn, chưa
có sự phân cơng lao động, cuộc sống chủ yếu nhờ vào săn bắn, hái lượm những
thức ăn có sẵn trong tự nhiên, do đó chưa có HNGĐ. Trong giai đoạn này, xã
hội được tổ chức dưới hình thức bộ lạc, hôn nhân dưới dạng quần hôn, quan hệ
giữa đàn ơng và đàn bà là quan hệ tính giao bừa bãi. Thời kỳ này kéo dài hàng
nghìn năm và kết thúc bằng sự ra đời của chế độ quần hơn do có sự phân cơng
lao động trong xã hội và tương ứng với nó là hình thức gia đình quần hôn. Chế
độ quần hôn là kết quả của sự liên kết của nhiều người đàn ông và nhiều người
đàn bà. Chế độ này được hình thành phát triển qua hai giai đoạn đó là gia đình
huyết tộc và gia đình Pa-nu-lu-an [33]. Sau giai đoạn này là sự ra đời và phát
triển của hình thái hơn nhân đối ngẫu và hôn nhân một vợ một chồng. Như vậy,
từ xã hội ngun thuỷ, q trình lao động đã đưa lồi người tiến lên những bước
phát triển mới và gia đình xã hội chủ nghĩa với hình thức hơn nhân một vợ, một
chồng là hình thái gia đình cao nhất trong lịch sử, khác hẳn về chất so với các
hình thức gia đình của các chế độ xã hội trước đây.
Trong xã hội có giai cấp, hơn nhân và gia đình mang tính giai cấp sâu sắc,
mỗi hình thái hơn nhân gia đình phản ánh hình bản chất hình thái xã hội mà nó
đang tồn tại gắn liền với một hình thái xã hội nhất định. Chính vì vậy, sự tiến bộ
và phát triển của xã hội sẽ thể hiện rõ nét và cụ thể trong sự phát triển và tiến bộ
của chế độ hơn nhân và gia đình qua mỗi thời kỳ.
Hơn nhân theo giải thích của Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển - Nhà
xuất bản Khoa học xã hội năm 1994 thì khái niệm Hơn nhân được hiểu là : “ Việc
nam- nữ chính thức lấy nhau thành vợ, thành chồng” [89]. Theo giải thích của
Oxforrd Advanced Learner’s Dictionary xuất bản năm 1992 thì hơn nhân là sự liên
kết pháp lý giữa một người đàn ông và một người đàn bà như vợ chồng [104].

9


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội
thì “ Hơn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng theo điều kiện và trình tự luật định nhằm chung sống với
nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc, hồ thuận” [88].
Theo quy định tại khoản 6 và khoản 10, Điều 8 LHNGĐ Việt Nam năm
2000 thì “Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”.
1.1.1.2. Kết hơn.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì kết hơn là việc “nam và nữ
chính thức lấy nhau làm vợ, chồng theo quy định của pháp luật” [88].
Theo quy định tại khoản 2, Điều 8 LHNGĐ năm 2000: “Kết hôn là việc
nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng( lấy nhau thành vợ, thành chồng) theo quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn”. Dưới góc độ pháp
l‎ý, kết hơn trước hết là quyền con người và quyền được pháp luật bảo vệ trên cơ
sở các quy định của pháp luật. Để bảo vệ quyền kết hôn của con người, pháp
luật về HNGĐ của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận quyền được kết
hơn của mọi người khi có đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định đồng thời
việc tiến hành kết hôn phải theo đúng các quy định của pháp luật.
Kết hôn là quyền dân sự của cá nhân được quy định trong bộ LDS năm 2005 (
Điều 24, Điều 39) [11] theo đó nam và nữ có đủ điều kiện kết hơn theo quy định
của pháp luật về HNGĐ có quyền tự do kết hơn, không bên nào được ép buộc,
lừa dối bên nào, không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ hoặc cưỡng
ép kết hôn. Muốn kết hôn hai bên nam nữ phải thể hiện ‎ý chí của mình là mong
muốn được xác lập quan hệ vợ chồng. Sự bày tỏ ‎ý chí thể hiện trong việc xin
đăng ký kết hơn tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền trong đó thể hiện rõ rằng họ
hoàn toàn mong muốn được kết hơn với nhau. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký
kết hôn xem xét yêu cầu đăng ký kết hôn của nam nữ, nếu các bên chủ thể có đủ


10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


điều kiện kết hơn thì tiến hành đăng ký việc kết hôn, ghi vào sổ kết hôn và cấp
Giấy chứng nhận kết hôn cho nam nữ. Thông qua sự kiện đăng ký kết hôn Nhà
nước đã công nhận hôn nhân cho nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là cơ sở
pháp lý ghi nhận rằng hai bên nam nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng,
đồng thời là cơ sở pháp lý để xác định chủ thể các quan hệ giữa vợ và chồng và là
cơ sở để xác định thời điểm phát sinh các quan hệ đó.
Kết hôn là cơ sở, tiền đề cho việc tạo ra gia đình - tế bào của xã hội. Pháp
luật điều chỉnh kết hôn là tổng thể các quy phạm điều chỉnh việc liên kết giữa
nam và nữ và nhằm xác lập nên quan hệ vợ chồng. Ở bất kỳ xã hội có giai cấp
nào, pháp luật cũng ln là cơng cụ hữu hiệu điều chỉnh quan hệ kết hôn. Mặc
dù có sự khác nhau trong nội dung của các quy phạm pháp luật của các nước về
vấn đề kết hôn nhưng nhìn chung pháp luật về kết hơn tập trung vào hai vấn đề
pháp l‎ý cơ bản: điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn.
 Điều kiện kết hôn: Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì “ điều
kiện kết hôn” là điều kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của các bên nam
nữ [88], như vậy điều kiện kết hôn được hiểu là những đòi hỏi của pháp luật đặt
ra đối với các chủ thể khi kết hôn và chỉ khi các chủ thể đáp ứng được đầy đủ
các điều kiện đó thì việc kết hôn mới hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Trong
hệ thống pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới việc xác định tính hợp
pháp của các điều kiện kết hôn được đề cập tới các vấn đề: ‎ý chí, tuổi tác, sức
khỏe, tình trạng hơn nhân, quan hệ thân thuộc... của các bên.
 Nghi thức kết hơn
Nghi thức kết hơn là trình tự tiến hành chính thức nhằm thiết lập quan hệ
vợ chồng theo quy định của pháp luật. Tuỳ thuộc vào nền kinh tế, văn hoá và
các điều kiện xã hội mà pháp luật các nước khác nhau quy định nghi thức kết

hôn khác nhau: Nghi thức kết hôn tôn giáo, nghi thức kết hôn dân sự ... Nghi
thức kết hơn tơn giáo là hình thức kết hôn được tiến hành trước những người đại
11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


diện cho tôn giáo theo thủ tục và quy định của tơn giáo đó. Nghi thức kết hơn
dân sự là nghi thức được tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước.
Khi các bên có đủ điều kiện kết hơn thì cơ quan có thẩm quyền của nhà nước sẽ cấp
giấy đăng ký kết hôn cho các bên và ghi vào sổ đăng ký kết hôn. Nếu các bên chủ
thể khi đăng ký kết hôn không đáp ứng các yêu cầu về điều kiện kết hôn và nghi
thức kết hơn thì khơng được pháp luật cơng nhận và bảo vệ.
1.1.2. Kết hơn có yếu tố nƣớc ngồi.
1.1.2.1. Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 758 Bộ LDS năm 2005 “ Quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan,
tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các
quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát
sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi”. Việc
xác định đó là quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài là dựa vào yếu tố quốc
tịch, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Như vậy, xét về mặt bản chất, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngồi cũng
là loại quan hệ dân sự song nó khác cơ bản với các quan hệ dân sự thơng thường
là ln có yếu tố nước ngồi và khi phát sinh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước
ngồi ln dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật. Có thể thấy quan hệ HNGĐ
có yếu tố nước ngoài được quy định tại khoản 14 Điều 8 Luật HNGĐ năm 2000
là sự vận dụng Điều 758 Bộ LDS năm 2005 (Điều 826 của Bộ LDS năm 1996 )
và có thể hiểu: quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài là quan hệ HNGĐ phát

sinh giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi hoặc giữa người nước ngoài
với nhau thường trú tại Việt Nam hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà
căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài
sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.

12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Theo đó, quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngồi bao gồm các quan hệ:
-

Quan hệ kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng có yếu tố nước ngồi.

-

Quan hệ giữa cha, mẹ con có yếu tố nước ngồi.

-

Quan hệ giám hộ có yếu tố nước ngồi.

-

Quan hệ cấp dưỡng có yếu tố nước ngồi.

Yếu tố nước ngồi trong quan hệ hơn nhân và gia đình được hiểu:
Các bên chủ thể trong quan hệ hơn nhân có quốc tịch khác nhau (khoản
14(a) Điều 8 LHNGĐ năm 2000.

Các bên chủ thể cùng quốc tịch nhưng sự kiện pháp lý liên quan tới quan
hệ này xảy ra ở nước ngoài ( khoản b Điều 8), Khoản 14 (c) Điều 8
Tài sản liên quan đến quan hệ hơn nhân ở nước ngồi.
Như vậy quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngồi mang một phạm vi rộng
với nhiều nội dung trong đó kết hơn có yếu tố nước ngồi là một nội dung trong
quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi. Trong khn khổ nghiên cứu của Luận
văn, tác giả chỉ tập trung làm sáng tỏ vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi.
1.1.2.2. Kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Trong bối cảnh hiện nay, khi biên giới, chủ quyền quốc gia về mặt pháp
lý ngày càng bị thu hẹp do xu hướng hội nhập, tồn cầu hố phát triển mạnh mẽ
thì các quan hệ về dân sự nói chung, kết hơn có yếu tố nước ngồi nói riêng diễn ra
ngày càng mạnh mẽ. Điều này đặt ra nhu cầu cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp
luật các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam, Điều 103 LHNGĐ năm 2000 về kết
hơn có yếu tố nước ngồi:
“ Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên
phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hơn, nếu việc kết hơn được
tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngồi
cịn phải tn theo các quy định của LHNGĐ Việt Nam về điều kiện kết hôn.

13

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Việc kết hơn của người nước ngồi với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của LHNGĐ về điều
kiện kết hôn”.
* Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Cơng dân Việt Nam Việt Nam khi tham gia vào quan hệ kết hơn có yếu tố

nước ngồi trước hết phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo
pháp luật Việt Nam và năng lực này được xác định trên cơ sở pháp luật dân sự
Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính pháp lý,
là đặc trưng không thể thiếu của chủ thể pháp luật.
Trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, ngồi chủ thể là cơng dân
Việt Nam, chủ thể tham gia quan hệ này có ít nhất một bên là người nước ngoài.
Khái niệm người nước ngoài đã được tiếp cận khá sớm trong khoa học pháp lý
ở nước ta. Trong Tuyên bố về chính sách của Chính phủ liên hiệp lâm thời ngày
l/1/1946, Hồ Chủ Tịch đã nêu rõ “Làm cho các nước công nhận nền độc lập của
Việt Nam, thân thiện với kiều dân ngoại quốc, nhất là Hoa Kiều”. Trong Quyết
định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với
người nước ngoài cư trú, làm ăn sinh sống tại Việt Nam Điều 1 quy định: “
Người nước ngoài (gọi tắt là ngoại kiều) là những người cư trú và làm ăn sinh
sống tại Việt Nam, có quốc tịch nước khác hoặc khơng có quốc tịch”. Khái
niệm người nước ngồi cũng đã được quy định trong các văn bản pháp luật tiếp
theo, Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam 28/6/1988, khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh
HNGĐ giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài [26]. Tại Điều 9, Nghị
định số 68/ 2002/NĐ- CP ngày 17/10/2000 về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngồi quy định ''Người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao
gồm cơng dân nước ngồi và người khơng quốc tịch'' [19]. Như vậy, người
nước ngồi trong trường hợp này phải được hiểu là người không có quốc tịch
Việt Nam, bao gồm người có một hoặc nhiều quốc tịch nước ngồi nhưng
khơng có quốc tịch của nước sở tại và người không quốc tịch. Để tham gia vào
14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, người nước ngồi phải có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự trước hết là theo pháp luật của nước mà người

đó là cơng dân. Khi xác lập quan hệ dân sự ở nước sở tại người có quốc tịch
nước ngồi sẽ được pháp luật của nước mình mang quốc tịch bảo hộ về mặt
ngoại giao. Theo Điều 761 Bộ LDS Việt Nam năm 2005 thì người nước ngồi có
năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam (trừ các trường hợp
ngoại lệ). Tuy nhiên, để người nước ngoài tham gia trực tiếp vào quan hệ kết hơn thì
họ phải có năng lực hành vi dân sự. Ở Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người
nước ngoài được quy định tại Điều 726 Bộ LDS Việt Nam.
* Thứ hai, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan
hệ dân sự xảy ra ở nước ngoài.
Trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngoài đều là người Việt Nam nhưng căn cứ pháp lý làm phát sinh sự kiện này
lại xảy ra ở nước ngồi thì vẫn được coi là quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi. Sự kiện pháp lý trong trường hợp này là việc kết hôn được tiến hành ở
nước ngoài. Yếu tố này được áp dụng trong các trường hợp các bên có cùng
quốc tịch nhưng kết hơn với nhau ở cơ quan có thẩm quyền của nước mà các
bên khơng mang quốc tịch. Ví dụ hai công dân Việt Nam lao động tại Hoa Kỳ
và kết hơn tại cơ quan có thẩm quyền của Mỹ, trong trường hợp này, tính chất
của yếu tố nước ngồi thể hiện ở sự xung đột pháp luật, việc xác định điều kiện
kết hôn phải căn cứ vào pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. Việc lựa
chọn hệ thống pháp luật nào để giải quyết vấn đề này chính là việc giải quyết
xung đột pháp luật trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Bên cạnh đó, một số quan hệ kết hôn tuy liên quan đến yếu tố nước ngồi,
nhưng thực chất lại khơng phải là quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi xét
dưới khía cạnh lý luận về giải quyết xung đột pháp luật. Ví dụ, cơng dân Việt
Nam cơng tác, học tập ở nước ngồi và tiến hành kết hơn với nhau tại Cơ quan

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngồi; cơng dân Việt
Nam đi học tập, lao động ở nước ngoài trong thời gian dài nhưng chưa được
định cư, về nước kết hôn với công dân Việt Nam trong nước, tuân theo các quy
định của pháp luật Việt Nam về kết hôn. Đây là các quan hệ hôn nhân giữa công
dân Việt Nam với nhau, không thuộc khái niệm hơn nhân có yếu tố nước ngồi
(theo khoản 14 Điều 8 của LHNGĐ năm 2000). Bởi lẽ, trong các trường hợp đó
khơng dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật mà luật áp dụng điều chỉnh quan
hệ này là LHNGĐ Việt Nam.
1.1.3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nƣớc ngồi.
Pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội
và có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với kinh tế, chính trị, đạo đức và Nhà
nước. Với tư cách là một thành tố của thượng tầng kiến trúc và là công cụ cơ
bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật mỗi quốc gia được quyết định
bởi các quan hệ kinh tế, chính trị xã hội, đạo đức, tôn giáo... và sự khác nhau về
kinh tế, xã hội, chính trị...đã tạo nên sự khác nhau về pháp luật giữa các quốc gia.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn là tổng hợp các nguyên tắc, các quy
phạm do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ kết hơn.
Quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngồi nói chung và kết hơn có yếu tố
nước ngồi nói riêng chịu sự tác động của hệ thống các quy phạm pháp luật do
Nhà nước đặt ra hoặc các quy định của Điều ước quốc tế do quốc gia ký kết.
Quan hệ kết hôn là một trong các loại quan hệ dân sự vì vậy trước hết nó được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật dân sự được chứa đựng trong các nguồn
pháp luật dân sự khác nhau nhưng trước hết là trong Bộ LDS. Bên cạnh đó,
quan hệ kết hơn cịn chịu sự điều chỉnh của các quy định trong pháp luật chuyên
ngành về HNGĐ đó là LHNGĐ và các quy định được ghi nhận trong các luật
khác có liên quan như Luật Hành chính, Luật Tố tụng dân sự.

16


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Xuất phát từ đặc trưng của loại quan hệ này là có yếu tố nước ngồi nên
pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi vượt ra khỏi phạm vi
điều chỉnh của hệ thống pháp luật một quốc gia và luôn dẫn đến hiện tượng
xung đột pháp luật. Pháp luật được lựa chọn để điều chỉnh quan hệ kết hơn có
yếu tố nước ngồi có thể là pháp luật quốc gia hoặc là Điều ước quốc tế song
phương hoặc đa phương do các bên liên quan ký kết. Pháp luật này bao gồm
tổng thể các quy phạm xung đột và quy phạm pháp luật thực chất. Trong bối
cảnh phát triển mạnh mẽ quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngồi, quy phạm xung đột
ngày càng phát huy tác dụng điều chỉnh loại quan hệ này.
Hệ thống các quy phạm thực chất và quy phạm xung đột được lựa chọn
để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngồi có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Một quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi phát sinh nếu khơng có quy
phạm thực chất điều chỉnh thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng quy phạm
xung đột để chọn luật. Khi chọn luật theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột,
cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng quy phạm xung đột thống nhất theo nguyên
tắc tôn trọng cam kết quốc tế. Trong trường hợp quy phạm xung đột dẫn chiếu tới
một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực chất được áp dụng để giải
quyết quan hệ một cách dứt điểm, ở đây tính chất “song hành” giữa quy phạm
xung đột và quy phạm thực chất trong điều chỉnh pháp luật được thể hiện rõ nét.
Như vậy Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài là
tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất
với nhau để điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài.
1.1.4. Phƣơng pháp điều chỉnh.
Về phương diện lý luận, phương pháp điều chỉnh của pháp luật là phương
thức, cách thức tác động của pháp luật vào các quan hệ xã hội. Với mỗi quan hệ
xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật đều có phương pháp điều chỉnh nhất định
phù hợp với tính chất của ngành luật đó. Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn

17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


có yếu tố nước ngồi có các phương pháp điều chỉnh sau: phương pháp xung
đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hoà và
tác động tương hỗ với nhau nhằm đảm bảo một trật tự pháp lý dân sự quốc tế ổn
định, thúc đẩy sự giao lưu phát triển về dân sự giữa các quốc gia.
1.1.4.1. Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột có nguồn gốc từ thời La Mã. Thời kỳ đó, người ta
cho rằng, khi một yếu tố ngoại lai xuất hiện thì việc áp dụng đơn thuần pháp
luật quốc gia khơng giải quyết thoả đáng, vì vậy vấn đề xung đột pháp luật phải
được giải quyết bằng việc áp dụng hệ thống pháp luật nào đó trong những hệ
thống pháp luật có liên quan. Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh
dựa vào các quy tắc được ấn định để áp dụng pháp luật của một nước được chọn
nhằm giải quyết việc kết hơn có yếu tố nước ngồi phát sinh thông qua các quy
phạm xung đột pháp luật. Xét về bản chất, phương pháp xung đột khơng nhằm
mục đích trực tiếp quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể khi tham gia vào
quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, tức là khơng trực tiếp quy định quyền và
nghĩa vụ của chủ thể khi tham gia vào quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi mà
chỉ dẫn chiếu đến pháp luật của một trong các quốc gia liên quan để điều chỉnh
quan hệ đó [58].
Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ
thống các quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các
Điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Quy phạm xung đột là quy
phạm đặc thù nhằm chỉ ra hệ thống pháp luật của nước nào cần phải được áp
dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi trong một tình
huống thực tế. Như vậy, các quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngồi này sẽ được điều chỉnh cụ thể như thế nào, mà

chỉ quy định pháp luật của nước nào cần được áp dụng để điều chỉnh quan hệ cụ
thể đó, khơng quy định việc chọn một đạo luật hoặc một quy phạm pháp luật

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


riêng lẻ. Có thể nói, quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật ''dẫn chiếu”.
Theo sự ''dẫn chiếu'' của quy phạm xung đột, các cơ quan có thẩm quyền chọn
được hệ thống pháp luật tối ưu để điều chỉnh quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng)
có yếu tố nước ngoài. Quy phạm xung đột là một loại quy phạm pháp luật đặc biệt
có cơ cấu khác với cơ cấu thường gặp của quy phạm pháp luật chỉ gồm hai phần
cấu thành: phần phạm vi (tương tự phần “giả định”) và phần hệ thuộc (tương tự
phần quy định), không có quy phạm xung đột nào bao gồm cả phần “'chế tài”.
Để giải quyết các xung đột pháp luật trong lĩnh vực này, các nước thường
lựa chọn một số các hệ thuộc pháp luật cơ bản là: Luật nhân thân (lex
personalis) gồm hai biến dạng là luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi cư trú
(lex domicili); luật nơi thực hiện hành vi (lex loci astus) và luật toà án (lex fori):
Trong một quan hệ cụ thể, khi áp dụng quy tắc chọn luật nêu trên, các cơ quan
có thẩm quyền sẽ có được giải pháp tối ưu để điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu
tố nước ngồi.
Giống với nhiều nước trên thế giới, phương pháp xung đột được thể hiện
khá nhiều trong các văn bản pháp luật Việt Nam từ trước đến nay. Điều 52
LHNGĐ năm 1986 ( hết hiệu lực từ ngày 01/01/2001), Pháp lệnh HNGĐ giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993 (hết hiệu lực từ ngày
01/01/2001), Bộ LDS năm 2005, LHNGĐ năm 2000 dành hẳn một chương XI
quy định về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngồi, Nghị định số 68/2002/NĐCP ngày 10/7/2002, Nghị định số 69/2006/NĐ- CP cũng có nhiều quy phạm
điều chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng phương pháp xung đột. Ngồi ra, quy
phạm xung đột cịn được ghi nhận trong HĐTTTP Việt Nam đã ký kết với các

nước. Các Hiệp định này đều xây dựng các quy phạm xung đột thống nhất để điều
chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngồi.
Như vậy, phương pháp xung đột được áp dụng khá phổ biến để điều chỉnh
các quan hệ quan hệ HNGĐ có yếu nước ngồi.

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.1.4.2. Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất (hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh trực tiếp)
là phương pháp điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói chung
và quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi nói riêng thơng qua việc áp dụng các
quy phạm thực chất ( quy phạm pháp luật trong nước hoặc quy phạm pháp luật
quốc tế)[59]. Quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các Điều ước
quốc tế gọi là các quy phạm thực chất thống nhất. Quy phạm thực chất trực tiếp
quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên, kể cả các biện pháp chế tài, qua đó
thẩm phán sẽ thấy rõ hậu quả của việc áp dụng pháp luật là phù hợp hay trái với
các nguyên tắc tôn trọng trật tự công cộng của quốc gia mình. Việc áp dụng các
quy phạm thực chất sẽ loại trừ vấn đề chọn luật và cả vấn đề áp dụng pháp luật
nước ngoài. Các quy phạm thực chất thống nhất tạo ra khả năng nhất định để
đảm bảo áp dụng thống nhất nội dung các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
cùng một quan hệ cụ thể ở các nước khác nhau tránh việc đơn phương áp dụng
ở từng nước, tạo điều kiện cho việc điều chỉnh các quan hệ được thích nghi hơn,
phù hợp với bản chất của các quan hệ dân sự quốc tế. Đồng thời việc áp dụng này
sẽ giúp các chủ thể của quan hệ dân sự quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết vụ việc một cách nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Như vậy, việc tăng cường vai trị của phương pháp điều chỉnh bằng quy
phạm thực chất thống nhất thông qua việc ký kết điều ước quốc tế đã tạo điều

kiện thuận lợi cho sự phát triển của giao lưu dân sự quốc tế.
Tuy nhiên, hệ thống các quy phạm thực chất thống nhất trong các Điều ước
quốc tế không phải là “luật pháp” đứng trên luật quốc gia, bởi lẽ chính các quốc
gia xây dựng nên các quy phạm đó. Các quốc gia khi áp dụng quy phạm này đã
chứng tỏ rõ khả năng thuận tiện và hữu hiệu trong việc điều chỉnh các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi. Hiện nay, các nước thường tăng cường ký kết các

20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Điều ước quốc tế, trong đó xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất để điều
chỉnh các quan dân sự quốc tế.
1.1.5. Đặc trƣng của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nƣớc
ngồi
1.1.5.1. Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi ln gắn
với chính sách đối ngoại, vấn đề đổi mới và hội nhập quốc tế.
Sự phát triển các quan hệ HNGĐ nói chung và kết hơn có yếu tố nước ngồi
nói riêng ln gắn liền và phản ánh chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta. Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập khu vực, quan hệ bang giao giữa
các quốc gia ngày càng mở rộng và phát triển đa chiều đã tạo điều kiện cho các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi phát triển mạnh mẽ. Pháp luật điều chỉnh
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngồi trong mỗi giai đoạn khác nhau cần thiết
và đã thể hiện được xu hướng phát triển chung của xã hội cũng như thể hiện
quan điểm và chính sách đối ngoại, quan điểm và lập trường của Đảng, Nhà
nước ta.
Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nhà nước ta từ khi thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hồ đến nay cho thấy, chính sách và pháp luật về kết
hơn có yếu tố nước ngồi của Việt Nam đã có sự phát triển ngày càng phù hợp

với sự phát triển của chính sách đối ngoại của nhà nước qua các thời kỳ [37].
Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 khẳng định sự ra đời của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nền độc lập của tồn dân tộc chưa được bao lâu thì
cuối năm 1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Cuộc
kháng chiến chống Pháp bùng nổ trong tồn quốc. Trong bối cảnh “ ngàn cân
treo sợi tóc” thù trong giặc ngồi, mặc dù chúng ta chưa có điều kiện để ban
hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ HNGĐ có yếu tố nước
ngồi, nhưng với đường lối đối ngoại hồ bình, chính sách pháp luật của Nhà
nước dân chủ non trẻ đã thể hiện tư tưởng bảo vệ các quyền tự do dân chủ cơ
21

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


bản của con người, vì vậy các quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi về
ngun tắc vẫn được Nhà nước bảo hộ. Điều này được thể hiện tại Sắc lệnh số
53/SL ngày 20/10/1945, tại Điều 5 quy định “Đàn bà ngoại quốc lấy chồng Việt
Nam muốn trở nên cơng dân Việt Nam, thì lúc làm giá thú phải khai ‎muốn như
thế ”. Điều 6 quy định đàn bà Việt Nam lấy chồng ngoại quốc thì theo quốc tịch
của người chồng. Như vậy, đây là sự thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của các
quan hệ HNGĐ giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi đã được xác lập
từ trước. Ngày 14/1/1950 Hồ Chủ Tịch thay mặt Chính phủ đã tuyên bố với
chính phủ các nước là sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với bất kỳ nước nào, trên
cơ sở bình đẳng, tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau. Sau một thời gian ngắn, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, các
nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao
với nước ta. Trong thời kỳ này, quan hệ HNGĐ phát sinh chủ yếu giữa công dân
nước ta với công dân các nước trong hệ thống XHCN. Do vậy, Nhà nước ta ban
hành một số văn bản dưới luật để điều chỉnh quan hệ HNGĐ phát sinh trong các
mối quan hệ này. Do hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ nên các văn bản pháp luật đó

chỉ điều chỉnh quan hệ HNGĐ phát sinh ở Việt Nam. Ví dụ, Điều lệ đăng ký hộ
tịch năm 1961 chỉ giải quyết đang ký hộ tịch cho người nước ngoài ở Việt Nam.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất
nước được độc lập thống nhất và cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Trong thời kỳ này, quan hệ HNGĐ
phát sinh giữa công dân nước ta với công dân các nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN ) và một số nước ngoài hệ thống XHCN. Để phù hợp với thực tế đó, Nhà
nước ta đã ký kết HĐTTIP với các nước trong hệ thống XHCN. Các HĐTTTP là cơ
sở pháp lý quan trọng để cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc gia đình phát
sinh giữa công dân các nước ký kết [31].

22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nước ta bước sang thời kỳ mới.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện qua các Nghị quyết
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VIl, VIII và IX. Theo các Nghị quyết này,
phương châm chung trong chính sách đối ngoại của Nhà nước ta là đa dạng hoá
và đa phương hoá trong quan hệ quốc tế, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tuy
nhiên, phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá trong quan hệ quốc tế phải
đảm bảo tính độc lập, tự chủ của Nhà nước Việt Nam. Vì vậy Nhà nước ta vừa
hợp tác với các nước, các tổ chức trên thế giới vừa phải đấu tranh để bảo vệ lợi
ích của dân tộc. Sự hợp tác và giao lưu quốc tế phải trên cơ sở của pháp luật
quốc tế là tôn trọng độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào
cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Phù hợp với chính sách
đối ngoại rộng mở của Nhà nước ta hiện nay, pháp luật điều chỉnh quan hệ
HNGĐ có yếu tố nước ngồi có nước phát triển hơn bao giờ hết. Nhà nước ta đã

xây dựng được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh hầu hết
quan hệ HNGĐ phát sinh trên thực tế. Hiệu lực của các văn bản pháp luật có giá
trị pháp lý cao, nếu như trước đây quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngồi chỉ
được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật thì hiện nay các quan hệ đó được
điều chỉnh bằng các văn bản có giá trị pháp lý rất cao (LHNGĐ năm 1986, năm
2000). Nghiên cứu nội dung của các văn bản này cho thấy, pháp luật nước ta
khơng có sự phân biệt và hạn chế nào đối với người nước ngoài khi tham gia
vào quan hệ hơn nhân (QHHN) nói chung và việc kết hơn có yếu tố nước ngồi
nói riêng. Nhìn chung, người nước ngoài được Nhà nước ta cho hưởng chế độ
đối xử quốc gia trong QHHN có yếu tố nước ngoài. Các điều ước quốc tế mà
nước ta ký kết điều chỉnh QHHN có yếu tố nước ngồi ngày càng gia tăng về số
lượng. Các Điều ước quốc tế và văn bản pháp luật trong nước đã tạo ra cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc điều chỉnh QHHN có yếu tố nước ngồi trong điều
kiện đổi mới và hội nhập kinh tếquốc tế của Nhà nước ta.
23

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.1.5.2. Thể hiện tư tưởng tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trước
hết là bảo vệ quyền của phụ nữ và chú ý đến yếu tố giới.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 đã
khẳng định “ Đàn bàn ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”, HP 1959,
HP 1980 tiếp tục khẳng định quan điểm này và HP nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa (CHXHCN) Việt Nam năm 1992, tại Điều 50 quy định: ''Ở nước CHXNCN
Việt Nam này các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội được tơn
trọng''. Có thể nói, quyền con người là giá trị nhân văn cao cả với nội dung
rộng lớn, phức tạp và hết sức nhạy cảm mà mỗi bước phát triển của quyền con
người đều gắn liền với cuộc đấu tranh không ngừng của các lực lượng tiến bộ
và của toàn nhân loại. Quyền con người cũng không đương nhiên được thừa

nhận mà phải trải qua quá trình phát triển và đấu tranh khơng ngừng của nhiều
dân tộc trên thế giới. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai đến nay, quyền con
người đã trở thành khái niệm pháp lý quan trọng thể hiện trong các tuyên ngôn
nhân quyền và HP của nhiều nước, đồng thời là khái niệm trọng yếu trong pháp
luật quốc tế. Điều này thể hiện rõ trong Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền (1948), hai Công ước (CƯ) quốc tế (1966): CƯ quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, CƯ quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị và nhiều cơng ước khác: CƯ quốc tế về chống mọi hình thức phân biệt đối xử
đối với phụ nữ ( CEDAW), CƯ quyền trẻ em (CRC)...
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ là nhiệm vụ trọng tâm, là mục
tiêu trong phong trào đấu tranh vì tiến bộ của nhân loại nói chung và đấu tranh
giải phóng phụ nữ nói riêng. Nhận thức về vai trò của người phụ nữ và đặt ra
vấn đề bảo vệ quyền lợi của họ đã xuất hiện từ rất sớm nhưng nó chỉ thực sự
được coi như một trách nhiệm, một yêu cầu cấp thiết khi Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền ra đời (1948). Tuyên ngôn đã nhấn mạnh ''bà mẹ và trẻ em được
đảm bảo chăm sóc và giúp đỡ dặc biệt'' (khoản 2 Điều 25) [91]. Tiếp sau Tuyên

24

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ngôn nhân quyền, một số các công ước khác cũng thể hiện điều này, đặc biệt là
CƯ CEDAW ngày 3/9/1981 đã thể hiện rõ hơn sự quan tâm của nhân loại đối
với phụ nữ và việc bảo vệ quyền lợi của họ [30]....Tuy vậy, quyền của người
phụ nữ có được thực hiện một cách triệt để hay khơng cịn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố trong đó có vai trị quan trọng của pháp luật. CƯ CEDAW được đánh giá
là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên thông qua hệ thống các quy định của mình
khẳng định ngun tắc khơng chấp nhận sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới
tính, và bảo đẳm sự bình đẳng của phụ nữ trên nhiều lĩnh vực trong đó có vấn

đề HNGĐ. Điều 16 CƯ khẳng định: “ Các nước tham gia cơng ước phải áp
dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong
tất cả các vấn đề có liên quan đến hơn nhân và quan hệ gia đình”, Cơng ước nêu
rõ các nguyên tắc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc xác lập các
quyền tự do hôn nhân.
Việt Nam đã ký kết, tham gia một số CƯ quốc tế quan trọng về quyền con
người nói trên. Để các cơng ước quốc tế mà Việt Nam ký kết phát huy hiệu lực
trên thực tế và để thực hiện đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia,
Nhà nước ta đã “nội luật hoá” các Điều ước quốc tế thông qua việc ban hành,
sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật trong nước: LHNGĐ năm 2000, Nghị
định số 68/2002/NĐ- CP và Ngị định số 69/2006/NĐ- CP bổ sung một số điều
của Nghị định số 68/2002/NĐ- CP.
Pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngồi cũng thể hiện rõ yếu tố giới với
các quy định hợp lý tạo điều kiện cho phụ nữ được phát triển mọi mặt, vươn lên
khẳng định vị trí của mình trong gia đình cũng như xã hội, rút ngắn khoảng cách
bất bình đẳng về giới. Trên thực tế phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới trong nhiều
thập kỷ qua vẫn là vấn đề nhức nhối không chỉ trong lĩnh vực HNGĐ, khơng chỉ
ở Việt Nam mà cịn là vấn đề chung của nhiều nước trên thế giới. Thực hiện
bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân, cụ thể hơn là trong vấn đề kết

25

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×