Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHỮNG NHẬN ĐỊNH về tác GIẢ và tác PHẨM văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.56 KB, 16 trang )

NHỮNG NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. NHẬN ĐỊNH VỀ "MỘ "(CHIỀU TỐI):
-"HCM rất Đường mà khơng Đường 1 tí nào. Với 1 chữ 'hồng', Bác
đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự
uể oải, sự vội vã,sự nặng nề đã diễn tả trong 3 câu đầu, đã làm
sáng rực lên khuôn mặt của cco em sau khi xay ngô tối. Chữ
'hồng'trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là "con mắt" thơ
(thi nhã hoặc nhãn tự), nó bùng sáng lên, nó cân lại chỉ 1 chữ thơi
với 27 chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa.
- Với chữ 'hồng' đó có ai cịn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhạc
nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả
thân hình lao động của cơ gái đáng u kia. Đó là màu đỏ của tình
cảm Bác" (Nguyễn Trung Thơng) - "Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu thơ
đầu thì thơ HCM khơng khác gì thơ Liễu Tơng Ngun đời Đường:
Thiên sơn điêu phi tận Vạn kính nhân tơng diệt Cơ thuyền xuy lạp
ơng Độc điếu hàn giang tuyết (Nghìn non chim bay hết Muôn nẻo
dấu người mất Trên thuyền cô độc lão già Một mình cầu sơng
tuyết lạnh) (Hồi Thanh)
2. Về “TUN NGƠN ĐỘC LẬP”:
- Bác có nói: ”Tơi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo được bài
viết hữu ích như lần này”
- Đồng chí Trường Chinh nhận xét: ”Về văn phong, cách nói và
cách viết của Hồ Chủ Tịch có những nét rất độc đáo: Nội dung
khảng khái, thấm thía đi sâu vào tình cảm của con người, chinh
phục cả trái tim và khối óc con người ta: Hình thức sinh động, giản
dị, giàu tính dân tộc và tính nhân dân.”
3. NAM CAO
-Là nhà văn hiện thực lớn, cũng đã có biết bao nhà phê bình và
cũng đã tốn biết bao bút giấy để viết về ông. Nhân đây giới thiệu
với mọi người một vài nhận định về con người này và văn chương
của ông.


*Đây là những nhận định về con người Nam Cao:
- “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười
khó nhọc (…) thật ra mặt anh ta lạnh nhưng lòng anh ta sơi nổi”
(Nhận xét của nhà văn Tơ Hồi)
- "Con người Nam Cao mảnh khảnh,thư sinh,ăn nói ơn tồn nhiều
khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lịng một
sự phản kháng mãnh liệt"(Nguyễn Đình Thi)


- Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình ,tự đem mình
ra quat dưới than hồng "(Nguyễn Minh Châu)
- "Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm
nghiệm"(Nguyễn Minh Châu)
- "Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai,năm năm trung
thành với hướng đi không nghiêng ngả... năm năm cày xới để tự
biếm họa ,tự khẳng định,để có Nam Cao như hiện nay ta có"(GS
Phong Lê)
*Nhận xét về văn của Nam Cao:
- “Dù viết về đề tài nào ,truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư
tưởng chung:nổi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con
người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy
tới”(?)
- “Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã mạnh dạn
phân tích và mổ xẻ tất cả,không né tránh như Thạch Lam; không
cực đoan, phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi cị hóa
như Nhất Linh, Khái Hưng, ngịi bút của Nam Cao luôn luôn tỉnh
táo đúng mực” (Hà Minh Đức)
- “Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là khơng
đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả. Nhưng tài năng của ông đã
đem đến cho văn chương một lối văn mới sâu xa, chua chát và

tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của mình,
thiên chức của mình”(Hà Minh Đức)
- “Trong các trang truyện của Nam Cao ,trang nào cũng có những
nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với
đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình
ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi
đau khôn nguôi của con người” (Nguyễn Minh Châu)
- “Trong văn xi trước cách mạng, chưa có ai có được ngịi bút
sắc sảo, gân guốc soi mói như của Nam Cao”( Nhà văn Lê Định
Kỵ)
4. NHỮNG NHẬN XÉT VỀ THƠ XUÂN QUỲNH
- "Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ
nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ... Thế giới thơ
ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt
và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khơn cùng
của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn
báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhòai giữa biến động và yên
định, bão tố và bình n, chiến tranh và hịa bình, thác lũ và êm


trơi, tình u và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu bạt và trụ
vững kiên gan, tổ ấm và dịng đời, sóng và bờ, thuyền và biển,
nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ
dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai,
ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm..." (Chu Văn Sơn)
- "Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự
thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã
hội và cả tình yêu. Chị khơng quanh co khơng giấu diếm một điều
gì. Mỗi dịng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một
suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị.

Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh" (Võ Văn Trực)

5. Về Vũ Trọng Phụng và ”Số đỏ”:
-Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: ”Trên trang
viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời VTP
càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy không giết quá một con
muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho
kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”
- Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: ”Đây là cái bi của
người chết, cái hài của xã hội, cái vơ phúc của gia đình giàu sang
lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”
6.Giá trị của đồng tiền trong Truyện Kiều: Đồng tiền lăn tròn
trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải, đen hố
trắng và người đàn bà gố phụ trở thành cơ dâu mới.
(Sheakespear)
*Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều: Lời văn tả ra hình như máu
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc
cũng thấm thía ngậm ngùi. (Mộng Liên Đường)
*Bình luận về tuổi trẻ Việt Nam: Một năm khởi đầu từ mùa
xuân.Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.
(Hồ Chí Minh)
*Hồi bão thời trai trẻ của cụ Phan Bội Châu:
Muốn vượt bể đơng theo chiều cánh gió
Mn trùng sóng bạc tiến ra khơi. (Phan Bội Châu)
*Ca ngợi mùa xuân: Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới, Bạn
đời ơi vui chút với trời hồng! Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa đơng.
(Tố Hữu)
*Ca ngợi tình bạn:
- Sống khơng có bạn là chết cơ đơn. (Giooc-giơ Hê –be)



- Mỗi người thêm nhiều con mắt Mỗi người thêm nhiều cảm rung
Trời cũng thêm nhiều màu sắc Đất cũng thêm chiều mênh mông.
(Trần Lê Văn – Bạn)
*Kết hợp giữa tài và đức: Có tài mà khơng có đức là người vơ
dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. (Hồ Chí
Minh)
*Tự hào về đất nước: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển
lúa, đâu trời đẹp hơn. (Nguyễn Đình Thi)
*Đặc điểm của ngơn ngữ:
- Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, cơng cụ chủ yếu của
nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất
liệu của Văn học.
- Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải
được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng 1
ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang
thế kỉ khác.
- Ngôn ngữ nhân là “tiếng nói ngun liệu“ cịn ngơn ngữ văn học
là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện. (Gorki)
*Sử dụng ngơn ngữ thơ để tạo hình: Nhịp điệu của câu thơ là nhịp
điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu náo nức xôn xao và biết
bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã ni
mình. (Tố Hữu)
*Tính chính xác của ngơn ngữ văn học: Đối tượng mà anh muốn
nói đến dù là cái gì cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó. (Mơpat xăng
- Pháp)
*Nhận xét về bài thơ Thu Vịnh: Trong ba bài thơ, bài này mang cái
hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ,
cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của
cảnh mùa thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. (Xuân Diệu)

*Nhận xét về Thu Điếu: Bài thơ Thu Vịnh có thần hơn hết nhưng ta
vẫn phải cơng nhận bài Thu điếu là điển hình ơn cả cho mùa thu
của làng cảnh Việt Nam. (Xuân Diệu)
*QUAN NIỆM VỀ VĂN CHƯƠNG
- Đối với tôi văn chương không phải là 1 cách đem đến cho người
đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là 1 thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi 1 cái
thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và
phong phú hơn.(Thạch Lam)


- M.Gorki nói: văn học “giúp con người hiểu được bản thân mình,
nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người
khát vọng hướng tới chân lý.”
- Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau
khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than.(Nam Cao – Trăng sáng)
* Bút chiến với nhóm Tự lực văn đồn: Các ơng muốn tiểu thuyết
cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tơi muốn
tiểu thuyết là sự thực ở đời. (Vũ Trọng Phụng)
*Nhận định về ”chất thép”trong thơ Hồ Chí Minh: Khi Bác nói
trong thơ có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ.
Có lẽ phải hiểu 1 cách rất linh hoạt mới đúng. Khơng phải cứ nói
chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép.
* Ý kiến về văn chương: Văn chương có loại đáng thờ và loại
khơng đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn
chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn
văn Siêu)
* Vai trị quan trọng của tình cảm trong thơ:
- Thơ phát khởi trong lịng người ta.(Lê Q Đơn)

- Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngơ Thì Nhậm)
*Quan điểm nghệ thuật văn chương:
- Văn hố nghệ thuật là 1 mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy. (Hồ Chí Minh)
- Văn chương khơng cần đến những người thợ khéo tay làm theo 1
vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những cái gì chưa có. (Nam Cao - Đời thừa)

Nhận định, lời phê bình về các tác giả - tác phẩm văn học
Phần 1-XUÂN DIỆU
1. "Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc, độc đáo của nền thơ
hiện đại Việt Nam… cho tới nay và những năm tháng trước mắt
liệu có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình? Và khơng ai
có thể thay thế được Xuân Diệu"
(Tố Hữu)
2. Nhà thơ nữ lừng danh, bà Bra-gri-a-ma ở chân núi Vi-to-sa
(Bungari) khi tuyển thơ tình trên thế giới, bà đã khoe với các bạn
Việt Nam: "Tôi mở đầu tuyển tập hàng trăm tác giả này bằng nhà
thơ Nga Puskin và kết thúc bằng nhà thơ Xuân Diệu - Việt Nam,
Xuân Diệu là nhà thơ tình lớn của phương Đơng vậy!"


3."Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong anh"
(Chế Lan Viên)
4. "Nhà thơ Xuân Diệu mất đi, thấy có mang theo một mảng đời
văn tơi"
(Nguyễn Tn)
5. "Đau lòng thay! Mất một nhà thơ lớn. Mất một người bạn và về
thơ anh là bậc đàn anh của tơi"

(Hồng Trung Thông)
6. “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa lồi người.
Lầu thơ của ơng xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”
(Thế Lữ - Lời tựa cho tập "Thơ thơ")
7. Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất
trong các nhà thơ mới”.
8. "Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong thơ mới thơi, thì
gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu".
9. Nguyễn Đăng Mạnh: "Xuân Diệu không quan niệm tình yêu chỉ
là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn
mà đấy mới là cái khát vọng cao nhất, cái đích cao nhất trong tình
yêu".
10. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu,
nhưng rất dễ khơ khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm
say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân
bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc,
vừa thức người bằng ý. Chế Lan Viên-"Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố
Hữu"
11. Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa lồi người.
Lầu thơ cảu ơng xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian
( Thế Lữ )

II. Về "Việt Bắc" - Tố Hữu:
1. Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt
tôi, Việt Bắc ở trong tôi.
(Tố Hữu-"Nhà văn nói về tác phẩm")
2. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu,
nhưng rất dễ khơ khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm
say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân
bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc,

vừa thức người bằng ý.
(Chế Lan Viên-"Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu")
3. Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên.


(Xuân Diệu-"Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu")
4. Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là
vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ
chính cống, thật sự.
(Xn Diệu-"Tố Hữu với chúng tơi")
5. Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch
trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động
của Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu không phải là một trị tiêu khiển mà là một khí cụ đấu
tranh, một công tác vận động của người cách mạng.
Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng
quên cốt cách của nó là thi sĩ.
(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam
xuất bản, 1946)
6. Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn
hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên
từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.
Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc,
chính là người nơng dân nghèo khổ.
(Chặng đường mới của chúng ta, 1961, Hồng Trung Thơng)
7. Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc
sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca.
(Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)
8. Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình,
muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia cịn phung

phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc
thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà
đem xây dựng nó.
Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất
nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc.
… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập,
lấy cái tứ toàn bài là chính… Anh là một con chim vụ ở đường bay
hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp.
(Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 của Tố Hữu, Văn học,
1964, Chế Lan Viên)
9. Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy
thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc
hiện đại, đã cơng nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những
phương tiện tun truyền, khơng cịn có một năng khiếu về hình


tượng như thế nữa; khơng cịn suối nguồn ở bản thân mình nữa.
Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là
một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta
càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về
thơ.
(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre
Emmanuel)
10. Tập thơ Máu và hoa này xuất bản vào mùa thu năm 1975. tôi
tin rằng tạp chí Châu âu (Europe) sẽ đón chào nó như một sự kiện
văn học.
Jacques Gaucheron
Con đường của Tố Hữu
(trong tập Máu và hoa (Sang et Fleurs) EFR, Paris, 1975)
11. Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra

cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi,
nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng
tơi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa
khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao
khổ.
(Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)
12. Một tiếng nói u thương ln ln chan hịa ánh sáng, tự nó
cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc
một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng
giữa các dịng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ
Tố Hữu.
(Chuyện thơ, 1978, Hòai Thanh)
13. Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể
hiện thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô
sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những tư tưởng càng ngày
càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những con người
mới của thời đại.
(Bình luận văn học, 1964, Như Phong)
14. Vũ Trọng Phụng có nói : « Các ơng muốn tiểu thuyết cứ là tiểu
thuyết. Tơi và các nhà văn có cùng chí hướng như tơi, muốn tiểu
thuyết thực sự là ở đời (…). Các ông muốn theo tiểu thuyết tùy
thời, chỉ nói cái thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tơi
chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, tránh thành ra nguy hiểm vì sự
thật mất lịng ».

III. Về Vũ Trọng Phụng và "Số đỏ”:


1. Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: "Trên
trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời

VTP càng chân thành bấy nhiêu.Con người ấy khơng giết q một
con muỗi .Nhưng thật kì diệu,văn chương của con người ấy làm
cho kẻ trọc phú phải giật mình,kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”
2. Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: "Đây là cái bi của
người chết ,cái hài của xã hội ,cái vô phúc của gia đình giàu sang
lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”
3. Đáp lời báo Ngày nay, Vũ Trọng Phụng có nói: "Các ơng muốn
cuốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tơi và các nhà văn có cùng chí
hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời (...) Các ơng
muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái thiên hạ thích nghe,
nhât là sự giả dối. Chúng tơi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực,
thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lịng"
4. "Văn chương chỉ là một thứ tiêu khiển nếu nó than mây khốc
gió. Tôi quan niệm văn chương là phương tiện đấu tranh của
những người cầm bút muốn loại khỏi xã hội con người những bất
cơng, nhen lên trong lịng người nỗi xót thương đối với kẻ bị chà
đạp lên nhân phẩm, kẻ yêu, kẻ bị đày đoạ vào cảnh ngu tối, kẻ bị
bóc lột, mỗi ngày kiếm ra đủ bữa ăn tối để nhịn sáng hơm sau. Tơi
sẽ cố gắng nhìn và nỗi đau của xã hội, may ra tìm được những
thuốc khiến những cái ung đó có thể hàn miệng, lên da."
(Quan niệm của tơi về phóng sự và tiểu thuyết)
5. "Hắc ám, có! Vì tơi vốn là người bi quan, căm hờn cũng có vì tơi
cho rằng xã hội nước nhà mà không đáng căm hờn, mà lại cứ "vui
vẻ trẻ trung, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ..." như các ơng
chủ trương thì một là khơng muốn cải cách gì xã hội, hai là ích kỷ
một cách đáng sỉ nhục"
(Để đáp lời báo Ngày nay)

IV. Về "Sóng" của Xuân Quỳnh:
1. "Xuân Quỳnh viết bài này "bợm" thật!".

(Nhà thơ Vũ Cao, Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội)
2. "Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ
hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát
vọng được sống hết mình trong tình u, muốn hóa thân vĩnh viễn
thành tình u mn thở".
(GS TS Trần Đăng Suyền)
3. "Ở mỗi tập thơ của Xuân Quỳnh, những bài viết của tình yêu
thường để lại nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu hết sức thơ


hết sức tự nhiên, bài "Sóng" thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi
hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian trn cách
trở, nhưng tình u bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng
hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ xa."
(Nhà thơ Việt Nam hiện đại, GS Phong Lê chủ biên)

V. "Chiều xuân" và Anh Thơ:
1. "Anh Thơ từ lâu chỉ chuyên lối tả cảnh mà lại tả những cảnh rất
tầm thường; Một phiên chợ, một đứa bé quyét sân, một mụ đàn
bà ngồi bắt chấy… có kẻ sẽ cho Anh Thơ là người vơ tình. Nhưng
có thiếu nữs nào 20 tuổi lại vơ tình?...Hẳn người đã tập luyện
nhiều lắm mới có thể đi đến cái thản nhiên, cái dửng dưng mà độc
giả Bức Tranh Quê ắt phải lấy làm lạ…’’
(Thi Nhân Việt Nam, Nhà phê bình cự phách Hồi Thanh)
2. Năm 1982, trong cuộc hội thảo Văn chương Việt Nam giữa hai
cuộc thế chiến tại trường Đại học Harvad (Hoa Kì), Hà Minh Đức
khẳng định tình yêu quê hương đất nước trong Thơ mới, ở đó
“Người ta có thể tìm thấy nhiều miền quê với những vẻ đẹp riêng.
Một làng biển trong thơ Tế Hanh, miền quê Hà Tĩnh trong thơ Huy
Cận; Nam Trân hay viết về xứ Huế; phong cảnh nên thơ ở đồng

quê miền Bắc trong thơ Nguyễn Nhược Pháp, Anh Thơ, Đồn Văn
Cừ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử…”. Sau đó, bài viết
của Hà Minh Đức được in trong cuốn Một thời đại thi ca – Về
phong trào thơ mới 1932 - 1945 [15; 82,86]. Anh Thơ được mệnh
danh là “nhà thơ đồng áng”.

VI. Nguyễn Bình và "Tương tư"

1. "Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như
thường".
(Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh )

VII. Nguyễn Tn và "Chữ người tử tù", "Người lái đị Sơng
Đà":
1. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn
Nguyễn Tn khơng phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.
(Vũ Ngọc Phan)
2. Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn
Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với
hai chữ viết hoa".
3. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bơng phèng, khi
thì thánh thót trầm bổng, khi thì xơ bồ bừa bãi như là ném ra


trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ
cũng rất đỗi tài hoa"
(Nguyễn Ðăng Mạnh)
4. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc
Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xi Việt Nam phát triển
thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một

thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời phong kiến suy tàn, thời
có những ơng Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc,
thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương
sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. [...] "Vang bóng
một thời", vì thế, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các
giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
5. Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của
phong cách nghệ thuật Nguyễn Tn có thể gói gọn trong một chữ
ngơng. Cái ngơng vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống
tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản
Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang
dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của
xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con
người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”
6. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng
Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu), Tinh thần
tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh
động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc
Việt Nam"(chữ dùng của Vũ Ngọ
7. Ðời chúng ta nằm trong vịng chữ tơi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề
sâu. Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,
ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng
động tiên đã khép, tình u khơng bền, điên cuồng rồi tỉnh, say
đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
(Hồi Thanh)
8. "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bơng phèng, khi
thì thánh thót trầm bổng, khi thì xơ bồ bừa bãi như là ném ra
trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ
cũng rất đỗi tài hoa." (Nguyễn Ðăng Mạnh)


VIII. Huy Cận và "Tràng giang"
1. Ðời chúng ta nằm trong vịng chữ tơi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề
sâu. Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,


ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng
động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say
đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
(Hoài Thanh)
2. Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðơng Á,...đã khơi lại cái
mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này
(Hoài Thanh)
3. Xuân Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt,
bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi mình
chưa sống hết tuổi xuân, đang độ trẻ măng của đời người! Cái tiếc
sớm, cái thương ngừa áy chẳng qua là sự trá hình của lịng ham
đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.
4. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu
xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình"
4. NHỮNG NHẬN XÉT VỀ THƠ XUÂN QUỲNH
- "Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ
nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ... Thế giới thơ
ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt
và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khơn cùng
của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn
báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhòai giữa biến động và yên
định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hịa bình, thác lũ và êm
trơi, tình u và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu bạt và trụ

vững kiên gan, tổ ấm và dịng đời, sóng và bờ, thuyền và biển,
nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ
dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai,
ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm..." (Chu Văn Sơn)
- "Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự
thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã
hội và cả tình u. Chị khơng quanh co khơng giấu diếm một điều
gì. Mỗi dịng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một
suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị.
Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh" (Võ Văn Trực)
5. Về Vũ Trọng Phụng và ”Số đỏ”:
-Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: ”Trên trang
viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời VTP
càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy không giết quá một con


muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho
kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”
- Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: ”Đây là cái bi của
người chết, cái hài của xã hội, cái vơ phúc của gia đình giàu sang
lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”
6.Giá trị của đồng tiền trong Truyện Kiều: Đồng tiền lăn tròn trên
lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải, đen hoá trắng và
người đàn bà goá phụ trở thành cô dâu mới. (Sheakespear)
*Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều: Lời văn tả ra hình như máu
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc
cũng thấm thía ngậm ngùi. (Mộng Liên Đường)
*Bình luận về tuổi trẻ Việt Nam: Một năm khởi đầu từ mùa
xuân.Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.
(Hồ Chí Minh)

*Hồi bão thời trai trẻ của cụ Phan Bội Châu:
Muốn vượt bể đông theo chiều cánh gió
Mn trùng sóng bạc tiến ra khơi. (Phan Bội Châu)
*Ca ngợi mùa xuân: Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới, Bạn
đời ơi vui chút với trời hồng! Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa đơng.
(Tố Hữu)
*Ca ngợi tình bạn:
- Sống khơng có bạn là chết cơ đơn. (Giooc-giơ Hê –be)
- Mỗi người thêm nhiều con mắt Mỗi người thêm nhiều cảm rung
Trời cũng thêm nhiều màu sắc Đất cũng thêm chiều mênh mông.
(Trần Lê Văn – Bạn)
*Kết hợp giữa tài và đức: Có tài mà khơng có đức là người vơ
dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. (Hồ Chí
Minh)
*Tự hào về đất nước: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển
lúa, đâu trời đẹp hơn. (Nguyễn Đình Thi)
*Đặc điểm của ngơn ngữ:
- Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, cơng cụ chủ yếu của
nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất
liệu của Văn học.
- Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải
được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng 1
ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang
thế kỉ khác.


- Ngơn ngữ nhân là “tiếng nói ngun liệu“ cịn ngơn ngữ văn học
là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện. (Gorki)
*Sử dụng ngôn ngữ thơ để tạo hình: Nhịp điệu của câu thơ là nhịp
điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu náo nức xơn xao và biết

bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về q cũ, nơi đã ni
mình. (Tố Hữu)
*Tính chính xác của ngơn ngữ văn học: Đối tượng mà anh muốn
nói đến dù là cái gì cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó. (Mơpat xăng
- Pháp)
*Nhận xét về bài thơ Thu Vịnh: Trong ba bài thơ, bài này mang cái
hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ,
cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của
cảnh mùa thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. (Xuân Diệu)
*Nhận xét về Thu Điếu: Bài thơ Thu Vịnh có thần hơn hết nhưng ta
vẫn phải công nhận bài Thu điếu là điển hình ơn cả cho mùa thu
của làng cảnh Việt Nam. (Xuân Diệu)
X. Hồ Chí Minh và "Nhật kí trong tù"
1. "Nhật kí trong tù"
- "...Thơ thiên nhiên trong tập Ngục trung nhật kí thật sự có những
bài viết rất hay. Có những phác học sơ sài, chân thực và đậm đà,
càng nhìn càng thú vị, như 1 bức tranh thủy mặc cổ điển. Có
những cảnh lộng lẫy sinh động như những tấm thảm thêu nền
gấm chữ vàng. Cũng có những bài thơ làm cho người đọc nghĩ tới
những bức sơn mài thâm trầm, rộn rịp..."
(Đặng Thai Mai)
- "...Tồn bộ tập thơ đó là 1 tun ngơn về tự do viết với tấm lòng
yêu thương, tinh thần kiên quyết, với khí phách anh hùng của 1
người cộng sản vĩ đại"
(Hồng Trung Thơng)
- "Trong thơ Bác, trữ tình và tự sự, lãng mạn và hiện thực, cổ động
và giáo dục,phản ánh và triết lí... đã kết hợp với nhau thật chặt
chẽ, 1 cách nghệ thuật"
(Hồng Trung Thơng)
- "... Điều quan trọng là, với tất cả phẩm chất của một nghệ thuật

lớn, "Nhật kí trong tù" đã sống cuộc sống xứng đáng của nó, đã
gieo trồng được những giá trị văn minh và nhân đạo cao nhất vào
đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam. Biết bao người, trong
đó có khơng ít nhà văn hóa lớn, hoặc nghệ sĩ tên tuổi ở trong nước
và trên thế giới đã nói về giá trị lớn của tập thơ.."


(Phong Lê)
Nội, 1996, trang 375)

XI. Nam Cao và "Chí Phèo", "Đời thừa"
1. - “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ
cười khó nhọc(…)thật ra mặt anh ta lạnh nhưng lịng anh ta sơi
nổi”
(Nhận xét của nhà văn Tơ Hồi)
- "Con người Nam Cao mảnh khảnh, thư sinh, ăn nói ơn tồn nhiều
khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lịng một
sự phản kháng mãnh liệt"
(Nguyễn Đình Thi)
- Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình, tự đem mình
ra quạt dưới than hồng "
(Nguyễn Minh Châu)
- "Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm"
(Nguyễn Minh Châu)
- "Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai, năm năm trung
thành với hướng đi không nghiêng ngả... năm năm cày xới để tự
biếm họa, tự khẳng định, để có Nam Cao như hiện nay ta có"
(GS Phong Lê)
2. - “Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một
tư tưởng chung: nổi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con

người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới” “Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã mạnh dạn
phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam; không
cực đoan, phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi vị hóa
như Nhất Linh, Khái Hưng, ngịi bút của Nam Cao luôn luôn tỉnh
táo đúng mực”
( Hà Minh Đức)
- “Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là khơng
đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả. Nhưng tài năng của ông đã
đem đến cho văn chương một lối văn mới sâu xa, chua chát và
tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của mình,
thiên chức của mình”
(Hà Minh Đức)
- “Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những
nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với
đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình


ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi
đau khôn nguôi của con người”
(Nguyễn Minh Châu)
-“Trong văn xi trước cách mạng, chưa có ai có được ngịi bút sắc
sảo, gân guốc soi mói như của Nam Cao”
( Nhà văn Lê Định Kỵ)



×