LỜI NÓI ĐẦU
Gắn liền với công cuộc đổi mới & mở cửa của nước ta, có nhiều yêu cầu
cần giảI quyết cùng lúc như: vừa ổn định vừa phát triển KT trong nước,vừa mở
rộng giao lưu, quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài,nhu cầu mở rộng
lượng tiền cung ứng ngày càng lớn dẫn đến sự xác lập quan hệ cung-cầu mới về
tiền, trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định KT Vĩ mô với hạt nhân là ổn định
tiền tệ,tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
Ngày nay, không còn ai có thể phủ nhận rằng: bằng việc điều chỉnh tiền tệ
cho phù hợp với nhu cầu của nền KT, là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ
chức quản lý các hệ thống tiền tệ phải tuân thủ& chính sách tiền tệ phải theo
đuổi.
Sự bùng phát của lạm phát vào những tháng đầu năm 2008 ít nhất cũng
mang lại cho chúng ta một khía cạnh tích cực- làm cho nhiều người giật mình về
vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Lý thuyết được
thực tiễn làm sáng tỏ. Rõ ràng với chính sách tiền tệ không thể xem thường hay
thờ ơ với nó.
Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công
bằng XH, vì vậy việc lựa chọn giaỉ pháp nào để xây dựng &điêù hành chính
sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó khăn,phức tạp.
Qua quá trình học tập &rèn luyện môn Lý thuyết tài chính tiền tệ, được sự
hướng dẫn của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng tài chính, em xin mạnh dạn
trình bày Đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài “Chính sách tiền tệ
ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”.
Đề án này bao gồm các phần:
Phần I: Lý luận chung về chính sách tiền tệ& các công cụ của CSTT
Phần II: Thực trạng điều hành Chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
1
PhầnIII: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSTT
Vì điều kiện thời gian& kiến thức hạn chế, Em rất mong được sự đóng góp
của thầy cô trong tổ bộ môn Lý thuyết TCTT để Đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ CÁC CÔNG CỤ CỦA NÓ
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1. Khái niệm về CSTT&Vai trò của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền
nhằm mục đích:
- Cung ứng cho nền kinh tế phương tiện thanh toán cần thiết
- Tạo ra khuôn khổ tiền tệ cho mối quan hệ kinh tế trong và ngoài nước.
Tại mỗi một quốc gia, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống
tài chính& ngân hàng, NHTW là cơ quan chủ chốt, thiết kế và quyết định chính
sách tiền tệ. Dù với tên gọi khác nhau (NHTW, NHNN, Hệ thống dự trữ lên
bang...), nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy
quản lý Nhà nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn
định giá trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo đảm sự hoạt động an toàn, ổn định và
hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô của mỗi đất nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, là “linh
hồn” của NHNW trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW
trong nền kinh tế thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức
tín dụng vào thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm
bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW
thường không can thiệp và không ra lệnh trực tiếp vào các quyết địng tác nghiệp
của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu sử dụng các biện pháp tác động gián tiếp để
điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh của các tổ chức tín dụng
3
như: khả năng thanh toán, lãi suất chiết khấu, dự trữ, khối lượng tiền cung ứng,
tỷ giá... để thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ
thống công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho
NHTW khả năng tác động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức
tín dụng phải tự điều chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW
nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng
trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương
(NHTW) thông qua các hoat động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ
trong lưu thông nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong
một thời kì nhất định.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đồi với từng quốc gia thì việc đề ra chính
sách tiền tệ cũng có những điểm khác biệt. Xét về mặt tổng thể chính sách tiền
tệ của các quốc gia trên thế giới hướng vào các mục tiêu chủ yếu là:
a. Công ăn việc làm cao.
Mục tiêu của việc làm cao do đó không phai là một con số không thất
nghiệp mà là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầyđủ mà tại đó cầu
lao động bằng với cung lao động.Người ta gọi đó là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tăng
trưởng KT.Tuỳ theo tình hình đó mà NHTW phải vận dụng các công cụ của
mình góp phần tăng cường mở rộng đằu tư sản xuất kinh doanh,đồng thời tham
gia tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định,khống chế tỷ lệ thất nghiệp
không tăng quá mức tự nhiên.
4
b. Tăng trưởng KT.
Mục tiêu tăng trưởng kt quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao.Các
chính sách có thể tập trung kích thích đầu tư vào sx kinh doanh.
Tăng trưởng KT là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách
tiền tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng& thanh toán trong nền kinh tế
quốc dân, NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
NHNN Việt Nam cần bằng mọi phương thức để có thể huy dộng được hầu hết
các nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoàI nước để phục vụ cho mục tiêu này.Mục
tiêu từ năm 2000 trở đi tốc độ tăng trưởng hàng năm phảI đạt từ 9-!0%. Đó là
mức tăng trưởng cao đòi hỏi sự gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tý USD.
c. Về ổn định giá cả,kiềm chế lạm phát.
Khi giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp thu nhập thực tế của người dân
được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, đầu tư cho nền KT cũng được
đảm bảo, tăng trưởng KT thực dương. Ngược lại, khi lạm phát ở mức cao,thu
nhập của người dân bấp bênh, nguy cơ khủng hoảng KT cao.Chính vì vậy mà
mục tiêu này được xem là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong
CSTT. Mục tiêu tăng trưởng KT luôn luôn gắn liền với mục tiêu ổn định giá cả
kiềm chế lạm phát.
d. Mục tiêu ổn định lãi suất:
Tất cả các quốc gia đều mong muốn một sự ổ định về lãi suất.Vì lãi suất có
ảnh hưởng lớn đến đầu tư và tăng trưởng,ảnh hưởng đến các luồng vốn,ngoại
tệ..Chính vì thế, ổn định lãi suất tạo ra thế ổn định cho các lĩnh vực như tín
dụng, đầu tư, sự di chuyển vốn..dẫn đến ổn định chung cho nền KT.
Lãi suất chính là một trong những công cụ quan trọng nhất của CSTT. Để
cho nền KT được ổn định đòi hỏi CSTT phải đưa ra một hệ thống lãi suất mềm
dẻo đúng đắn,phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
5
e. Về ổn định thị trường tài chính:
Việc toạ ra một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống NH& các tổ chức tín
dụng có thể hoạt động một cách có hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng
trưởng KT cao,lạm phát thấp, cũng như hạn chế những khuyết tật của hệ thống tàI
chính là mục tiêu chủ đạo của chính sách tiền tệ. NHTW phải điều hoà hoạt
động của hệ thống TC trong nước một cách gián tiếp,tăng cường hiệu quả cho nó.
Bản thân hệ thống TC cũng có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi
những mục tiêu này lại đối chọi với các mục tiêu chung của nền KT. Do đó vai
trò của CSTT là làm hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu trên,để phục vụ
tốt nhất cho lợi ích chung của nền KT mà không làm tổn hại hay hạn chế sự phát
triển của hệ thống TC.
f. Mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối:
Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia,NHTW thực hiện
các nhiệm vụ giao dịch về TC và Tiền tệ đối ngoại bằng các phương diện: quản
lý ngoại hối,lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện
các nghiệp vụ hối đoái. Tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, xây
dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước,tiến hành kinh doanh
ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc tế.Cần thiết lập mối quan hệ với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động
được(viện trợ,vay nợ,vay ưu đãi,thu hút đầu tư,thu hút kiều hối..).
Chính sách tiền tệ góp phần nhiều vào việc thực hiện các mục tiêu trên lại
mâu thuẫn nhau. cụ thể chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt
giảm nhất định đối với mục tiêu khác. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ
phải chấp nhận nạn thất nghiệp tăng lên... Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục
tiêu nào là chính mà người ta có thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định
giá cả, chính sách tạo việc làm, chính sách cân bằng cán cân thanh toán hay
chính sách tăng trưởng kinh tế.
6
Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ NHTW phải
xác định các mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTW sử dụng các mục tiêu trung gian
để có thể xét đoán nhanh chóng được tình hình hoạt đoọng của mình phục vụ
cho các mục tiêu cuối cùng, hơn là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng
của các mục tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi
phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng tiền.Tuỳ theo đIều kiện cụ thể của từng
nước mà các khối tiền tệ có thể là M1, M2, M3.
3. Nội dung của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng NHTW có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với
tình hình thực tiễn của nền kinh tế:
- Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuát tạo công ăn việc làm.
Chính sách này được đưa ra trong trường hợp nền KT trì trệ,tăng trưởng
thấp.Nó tạo ra không khí tiêu dùng mạnh mẽ kích thích đầu tư và tăng trưởng KT.
- Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và
kiềm chế lạm phát. Chính sách này được đưa ra nhằm ngăn trặn tình trạng phát
triển quá nóng của nền KT. Nó tạo ra sự khan hiếm về tiền, sự đắt đỏ về chi phí,
làm giảm tốc độ tăng trưởng quá nhanh, tạo ra một sự phát triển bền vững.
Trong nền KT thị trường, CSTT bao gồm 4 thành phần cơ bản gắn liền với
4 kênh dẫn nhập tiền vào lưu thông. Đó là:
+Chính sách cung ứng tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ
+Chính sách tín dụng
+Chính sách ngoại hối
+Chính sách đối với ngân sách nhà nước
a. Chính sách cung ứng tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ:
7
Việc vạch và thực thi CSTT phảI khống chế sao cho khối lượng tiền tệ cung ứng
trong một thời kỳ nhất định phảI cân với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh
nghĩa và vòng quay tiền tệ trong thời kỳ đó.
b. Chính sách tín dụng:
Thực chất CSTD là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc
dân, thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập
từ các nguồn tiền gửi của XH và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp
với sự vận động của cơ chế thị trường.
c. Chính sách ngoại hối:
Nhằm đảm bảo việc sử dụng co hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán
đối ngoạiphục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng KT bền vững và
gia tăng việc làm trong xã hội,đảm bảo chủ quyền tiềntệ của đất nước.
d. Chính sách đối với ngân sách nhà nước:
Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hợp
Ngân sách nhà nước bị thiếu hụt. Phương thức tối ưu là NHTW cho ngân sách
nhà nước vay theokỳ hạn nhất định, Dần dần tiến tới loạI bỏ hoàn toàn phát
hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Ngân sách nhà nước có thể ở ba trạng thái,đó là thâm hụt ngân sách, cân
bằng ngân sách & thặng dư ngân sách.
II. CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA
NÓ.
a. Công cụ tái cấp vốn.
TáI cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp
một khoản tín dụng cho NHTM một mặt NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng,
mặt khác tạo cơ sở cho NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực
thanh toán cho họ.Các hình thức tái cấp vốn ngoài tái chiết khấu bao gồm:
8
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác.
- Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp, các chứng từ có giá ngắn hạn.
- Cho vay trong thanh toán bù trừ.
- Cho vay theo hình thức chỉ định.
- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
Qua công cụ táI cấp vốn, NHTM là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất
lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được
khống chế để kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế.Đối với các
NHTM, với tư cách là người đI vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe dọa thì
NHTW là chỗ dựa, là vị cứu tinh của họ.Tuy nhiên vì quyền quyết định vay hay
không vay là của NHTM nên NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự
điều tiết.
b. Lãi suất tín dụng
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong việc điều
khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, nó không trực tiếp làm tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng có thể kích thích hoặc kìm hãm sản
xuất,vì vậy nó là một công cụ rất lợi hại.Với công cụ này có thể áp dụng cơ chế
điều hành gián tiếp hoặc trực tiếp.
Cơ chế điều hành gián tiếp: Thông qua cơ chế táI cấp vốn của NHTW đối
với các tổ choc tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãI suất cho vay của
các NHTM đối với nền kinh tế.Cơ chế điều hành lãI suất này được áp dụng phổ
biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển.
Cơ chế điều hành trực tiếp: Thông qua các hình thức quản lý lãI suất của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãI suất về tiền
gửi, cho vay, khung lãI suất,trần lãI suất cho vay, biên độ chênh lệch lãI suất
bình quân. Nhìn chung trong các nền kinh tế phát triển, lãI suất ngày càng được
9
tự do hoá, còn các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định
mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là
ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
c. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp
mang tính hành chính của NHTW, được sử dụng để khống chế tổng lượng tiền
đẻ cung ứng cho nền kinh tế, mang tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống
ngan hàng.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng,NHTW nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền
của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt
chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng
phương tiện trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ khác tỏ ra kém hiệu quả.
Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt.
d. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là khoản tiền gửi của các NHTM ở NHTW, mức tiền gửi
này do pháp luật qui định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản nợ của ngân
hàng. Thông qua việc thay đổi mức dự trữ bắt buộc NHTW tác động tới việc
cung cấp tiện tệ cho nền kinh tế quốc dân. Nếu NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
lên thì khả năng tín dụng của NHTM sẽ giảm xuống. Mặt khác, để bù lại phần
lãi suất đó ( do quỹ tiền gửi NHTW không được tính lãi ) các ngân hàng phải
tăng lãi suất tín dụng do vậy mức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế sẽ giảm
xuống. Việc tăng lên hay giảm xuống quỹ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hoặc tăng
lương tiền cung ứng cho nền kinh tế qua cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân hàng.
Vì vậy đó là một công cụ tiềm tàng của chính sách tiền tệ. Ngoài ra dự trữ bắt
buộc còn đảm bảo việc thanh toán thường xuyên của các NHTM.
10
Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng
như nhau và có tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự
trữ bắt buộc không được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có
thể dẫn đến hiện tượng phi trung gian hoá. Mặt khác bự trữ bắt buộc thiếu tính
mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng
tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc
sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ
bắt buộc cói thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của các NHTM,
gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hành. Chính vì vậy công cụ dự trữ
bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng.
e. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua và bán các giấy tờ có giá (như
cổ phiếu, trái khoán, công trái...) do NHNN trên thị trường tiền tệ và trong
chừng mực hạn chế nhất định cả trên thị trường vốn. Đây là môt trong những
công cụ rất quan trọng được nhiều NHNN của các nước sử dụng có hiệu quả
CSTT.
Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi suất hấp dẫn,
NHTW thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả
năng cho vay của các NHTM cũng giảm và già trị tín dụng tăng lên. Ngược lại,
Bằng việc mua các giấy tờ có giá, NHTW cung cấp tiền cho các NHTM để cho
vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là
thời hạn cuả các giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ
yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ,
trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng
thanh toán của các NHTM.
Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có
những ưu điểm hơn hẳn so với các công cụ khác:
11
- Phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHNN trong đó NHNN hoàn toàn
kiểm soát được khối lượng giao dịch.
- Là công cụ linh hoạt và có tính chính xác cao giúp NHNN luôn luôn thay
đổi được tình thế của mình khi mắc phải sai lầm.
- Nghiệp vụ này có thể sử dụng được ở bất kì một mức độ nào khi có yêu
cầu căn cứ vào khối lượng các loại giấy tờ có giá bán ra.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm
trễ về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên, khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải
phụ thuộc vào người mua bán ( các NHTM ). Và để sử dụng được nghiệp vụ này
thì phải có sự phát triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt,
tiền trong lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị
trường tài chính phải tương đối phát triển.Hay nói cách khác, nghiệp vụ thi
trường mở chỉ đạt được hiệu quả trong điều kiện có một thị trường chứng khoán
thứ cấp sôi động,một thị trường liên NH, thị trường tiền tệ hoạt động sôi động.
f. Tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bénvà hết sức mạnh mẽ đến sản
xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ , cán cân thanh toán
quốc tế, thu huts vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.Về thực chất, tỷ giá không phảI
là công cụ của chính sách tiền tệ bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng
tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có
nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi,lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ quan
trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.
Các phương pháp điều hành tỷ giá gồm có chính sách hối đoái, quỹ dự trữ
bình quân hối đoái, phá giá tiền tệ, nâng giá tiền tệ, chính sách lãi suất chiết
khấu
12
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở VIỆT NAM
1. Tình hình kinh tế Việt Nam
Năm 2008, trước sự suy thoái của nền kinh tế thế giới và cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát tăng cao, không nền kinh tế nào không bị tác
động, chỉ nhiều hay ít, sớm hay muộn mà thôi, Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động không ít và bắt đầu thực sự bước vào giai
đoạn khó khăn. Trong quý I năm 2008 với mục tiêu tăng trưởng GDP 9% nhưng
đã giảm còn 6,5%; biên độ giá của các mặt hàng dao động mạnh, lãi suất ngân
hàng liên tục thay đổi, giá dầu giảm ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua,…tất
cả những biến đổi đó tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và
doanh nghiệp nói riêng. Nhìn lại diễn biến nền kinh tế Việt Nam năm 2008, các
nhà phân tích chia nền kinh tế ra ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc trưng về
mục tiêu và chính sách kinh tế khá rõ nét. Cụ thế:
Giai đoạn 1: Cỗ xe kinh tế phi nước đại và ủ bệnh: Năm 2007, Việt Nam đạt
được những thành tựu kinh tế ấn tượng. Theo Tổng cục Thống kê ngày 31/12/2007,
tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 8,48% so với năm 2006, đạt kế
hoạch đề ra (8,2-8,5%). Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007
theo giá thực tế ước đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% GDP (đạt kế hoạch đề ra
40% GDP) và tăng 15,8% so với năm 2006. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp
tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và
vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD. Nền
kinh tế Việt Nam năm 2007 có sự tăng trưởng toàn diện trong hầu hết các lĩnh vực.
Tuy nhiên đây là dấu hiệu của nền kinh tế tăng trưởng nóng. Trước những thay đổi
mạnh mẽ về luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, Chính phủ đã triển khai các
biện pháp và các công trình để đạt các mục tiêu đề ra: việc phân cấp quá mức cho
chính quyền địa phương cấp tỉnh về đầu tư (trong nước và ngoài nước), việc cấp
13
đất, mở khu công nghiệp... đã tạo ra những chồng chéo và dư thừa về quá nhiều
công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy lọc dầu lớn
nhỏ. Các tập đoàn kinh tế nhà nước đã nhanh chóng đa dạng hóa đầu tư sang các
lĩnh vực như chứng khoán, đầu tư tài chính, bất động sản, thậm chí cả tham gia lập
các ngân hàng thương mại. Chưa bao giờ trong một thời gian ngắn các tập đoàn lại
đua nhau thành lập nhiều công ty con, công ty cháu, công ty liên kết nhanh đến như
vậy. Tương tự, các công ty đầu tư tài chính, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư
chứng khoán cũng xuất hiện một cách ồ ạt như thế. Điều tất yếu phải đến đã đến là
cung tín dụng tiếp tục tăng trên 50%, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt
quá mức an toàn, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất
động sản bị vỡ.
Giai đoạn 2: Cỗ xe kinh tế bị thắng gấp và phát bệnh: Theo nhận định của
các chuyên gia kinh tế, 5 tháng đầu năm 2008,lạm phát chính là vấn đề nổi cộm
nhất đối với kinh tế Việt Nam. Chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp
nhằm kiềm chế lạm phát. Lãi suất cơ bản được nâng lên, dự trữ bắt buộc với lãi
suất rất thấp được áp đặt, tín phiếu bắt buộc được phân bổ, biện pháp hạn chế tín
dụng hà khắc được áp đặt lên các ngân hàng thương mại, cắt giảm đầu tư... Tất
cả biện pháp này gây ra gánh nặng lớn cho các ngân hàng thương mại cũng như
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nguyên nhân năm 2007, tổng dư nợ cho vay tăng tới
53,8%, cao gấp rưỡi tốc độ tăng vốn huy động và cao gấp trên 6 lần tốc độ tăng
GDP. Năm tháng đầu năm 2008, dư nợ cho vay tăng 18%, cao gấp trên 4 lần tốc
độ tăng vốn huy động và cao gấp khoảng 2,5 lần tốc độ tăng GDP. Vào thời
điểm này, các ngân hàng thương mại phải đối mặt với vấn đề thanh khoản, dẫn
đến cuộc chạy đua lãi suất diễn ra quyết liệt giữa các ngân hàng. Các quan hệ thị
trường bị thu hẹp rõ rệt bởi sự can thiệp hành chính, đặc biệt là các quyết định
về tăng, giảm thuế nhập khẩu, về hạn ngạch, về giá xăng dầu... liên tục được đưa
ra (có thời kỳ đạt tốc độ bình quân sáu quyết định lớn, nhỏ một tuần).
Giai đoạn 3: Tập trung chữa bệnh:Bắt đầu từ quí 3/2008, một sự cộng hưởng
ngoài ý muốn giữa hiệu lực của các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ
14