Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích quan điểm của triết học mác lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.53 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

BÀI TẬP LỚN
Mơn: Triết học Mác – Lênin
Đề tài: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này
trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện nay (trong lựa chọn ngành học, định hướng
nghề nghiệp trong tình bạn, tình yêu…)

Giảng viên hướng dẫn:

TS. Nguyễn Thị Lê Thư

Họ và tên:

Trịnh Thùy Phương

Mã sinh viên:

11218992

Lớp:

LLNL1105(221)_35

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...........................................................................................................


I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC THEO QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN.......................

1.Vật chất .................................................

1.1.Quan niệ

1.2.Phương t

2.Ý thức ...................................................

2.1.Nguồn g

2.2.Bản chất

2.3.Kết cấu c
3.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất

4.Ý nghĩa phương pháp luận. .................
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG SINH VIÊN. ........
KẾT LUẬN .............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................


LỜI MỞ ĐẦU
Từ thực tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ
qua chế độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng
định: "Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim
chỉ nam cho hoạt động của Đảng". Tức là, chúng ta phải: dùng lập trường, quan

điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của
Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế
chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách mạng Việt
Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với tình hình nước ta.
Với tư cách là một sinh viên, một công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, em muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Triết học
Mác Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất với ý thức để từ đó vận dụng vào đời sống và ngày càng hồn
thiện bản thân nên em quyết định lựa chọn đề tài :"Phân tích quan điểm của triết
học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và
đánh giá việc giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn đời sống sinh viên hiện
nay (trong lựa chọn ngành học, định hướng nghề nghiệp trong tình bạn, tình
yêu…)".
Với kiến thức và kinh nghiệm bản thân cịn hạn chế, em tự thấy mình cịn nhiều
thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá, nhận xét và đóng góp ý kiến của cơ để
bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC THEO QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN.
1. Vật chất
1.1. Quan niệm của Triết học Mác - Lênin về vật chất:
Trong quá trình phát triển kéo dài, để phản bác lại chủ nghĩa duy tâm, thuyết
bất khả tri và chủ nghĩa duy vật siêu hình, C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin đã đưa ra
những tư tưởng rất quan trọng về vật chất.
Về phía C.Mác, ơng khơng đưa ra bất kì một định nghĩa cụ thể nào về vật chất

nhưng vẫn vận dụng đúng đắn quan điểm duy vật biện chứng để phân tích các vấn
đề chính trị - xã hội. Đặc biệt trong phân tích q trình sản xuất vật chất của xã hội,
ngồi ra cịn mở rộng quan điểm duy vật biện chứng về vật chất để phân tích tồn tại
xã hội và mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cịn theo Ăngghen, để có quan niệm đúng về vật chất thì cần phải có sự phân
biệt rõ ràng giữa vật chất với tư cách là một phạm trù của triết học với bản thân các
sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới vật chất. Vật chất với tính cách là vật chất,
một sáng tạo thuần túy của tư duy, và là một trửu tượng thuần túy, không có sự tồn
tại của cảm tính. Ơng cũng chỉ ra rằng bản thân phạm trù vật chất cũng không phải
sự sáng tạo tùy tiện của con người mà là kết quả của con đường trừu tượng hóa của
tư duy con người về các sự vật, hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác
quan. Đặc biệt, Ph.Ăngghen khẳng định rằng, về thực chất, nội hàm phạm trù vật
chất chẳng qua là sự tóm gọn, tập hợp theo những thuộc tính chung của tính phong
phú, mn vẻ nhưng có thể cảm biết được bằng các giác quan của các sự vật, hiện
tượng của thế giới vật chất.
Từ nghiên cứu lịch sử của C.Mác và Ph.Ăngghen rút ra được, vật chất trong xã
hội chính là sự tồn tại, tồn tại ở đây chính là bản thân con người cùng với những
điều kiện sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động vật chất và những quan hệ vật
chất giữa người với người.
2


Trên cơ sở tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học,
đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm hoặc xuyên tạc
hay mưu toan xóa bỏ những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về
vật chất, cũng như đã kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I Lênin
đã đưa ra định nghĩa về “vật chất”. V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm
phương pháp định nghĩa cho phạm trù này, với tư cách là một phạm trù triết học và
đem đối lập với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức luận cơ bản. V.I Lênin
cũng chỉ rõ: “không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức luận này một định

nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là
có trước”.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I
Lênin định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I Lênin bao gồm:
+

Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngồi ý

thức và khơng lệ thuộc vào ý thức.
+

Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem

lại cho con người cảm giác.
+

Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.

Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác –
Lênin:
Định nghĩa vật chất của V.I Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng; cung cấp nguyên tắc thế giới
quan và phương pháp luận khoa học để chống lại chủ nghĩa duy tâm, thuyết không
thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư
sản hiện đại về phạm trù này. Nó cịn tạo sợi dây liên kết giữa chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tạo thành một hệ thống lý luận thống
3



nhất, góp phần tạo nên nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy
vật biện chứng các vấn đề của duy vật lịch sử.
1.2. Phương thức tồn tại của vật chất
Phương thức tồn tại của vật chất là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật
chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vận động là cách thức tồn tại,
đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; khơng gian, thời gian là hình thức tồn tại
của vật chất.
a. Vận động
Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa chung nhất là mọi
sự biến đổi nói chung. Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất vì nó là thuộc tính cố hữu của vật
chất. Sự tồn tại của vật chất là bằng cách vận động, tức là vật chất ln trong q
trình biến đổi khơng ngừng. Thế giới vật chất, từ thiên thể khổng lồ đến những hạt
cơ bản vô cùng nhỏ, từ giới vô cơ đến hữu cơ, từ hiện tượng tự nhiên đến hiện
tượng xã hội, mọi thứ luôn ở trong trạng thái không ngừng vận động. Chúng (các
sự vật, hiện tượng) là một thể thống nhất, có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các
khuynh hướng, các bộ phận tương tác qua lại với nhau gây ra biến đổi. Vậy ra, vận
động của vật chất là tự thân nó tạo ra và tự nó mang tính phổ biến. Thơng qua vận
động, vật chất biểu hiện sự tồn tại của nó với các loại hình dạng phong phú, mn
vẻ, vơ tận. Do đó nên con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng
cách xem xét chúng trong quá trình vận động. Vận động là phương thức tồn tại của
vật chất, nó tồn tại vĩnh viễn, khơng thể tạo ra và cũng không thể bị triệt tiêu.

4



Những hình thức vận động cơ bản của vật chất: Hình thức vận động hết sức đa
dạng, được biểu hiện với quy mơ, trình độ và tính chất hết sức khác nhau.
Ph.Ăngghen dựa vào thành tựu khoa học thời đại mình, đã chia vận động của vật
chất thành năm hình thức cơ bản là: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Cơ
sở phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương ứng
với trình độ của tổ chức vật chất các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh
(hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của hình thức vận động thấp và bao
hàm cả hình thức vận động thấp); hình thức vận động cao khác về chất so với hình
thức vận động thấp và khơng thể quy về hình thức vận động thấp. Việc phân chia
như thế có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và xác định mối
liên hệ giữa các ngành khoa học, và vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương
quan giữa các hình thức vận động của vật chất. Các hình thức vận động tồn tại
trong mối liên hệ không thể tách rời nhau; giữa hình thức vận động cao và thấp
ln tồn tại một hình thức vận động trung gian (đây chính là mắt khâu chuyển tiếp
giữa các hình thức vận động). Kết cấu vật chất là nhất định và được đặc trưng bởi
một hình thức vận động riêng biệt của nó. Do đó, việc thấy rõ mối liên hệ giữa các
hình thức vận động là quan trọng nhưng cũng cần phải phân biệt sự khác nhau về
chất của chúng. Trong tương lai có thể sẽ có nhiều hình thức vận động mới được
tìm ra nhờ vào sự phát triển của trình độ tổ chức vật chất, tuy nhiên vẫn phải dựa
vào những nguyên tắc căn bản của sự phân loại. Việc nghiên cứu sự thống nhất và
khác nhau của các hình thức vận động của vật chất vừa có ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc; giúp con người đề phòng và khắc
phục sai lầm trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn xã hội.
Vận động và đứng im. Sự vận động không ngừng của vật chất khơng những
khơng bị loại trừ mà cịn bao hàm cả sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là một trạng thái ổn định về chất của sự vật,
hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự
5



tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển
hóa của vật chất. Đứng im có tính tạm thời, trong mối quan hệ nhất định, với một
hình thức vận động cụ thể. Đứng im còn là sự biểu hiện của một trạng thái vận
động – vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Mặc dù chỉ mang
tính tạm thời, nhưng nó lại "chứng thực" cho hình thức tồn tại thật sự của vật chất,
là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất. Nếu khơng có đứng im thì sự
ổn định của sự vật khơng tồn tại và con người cũng không bao giờ nhận thức được
chúng, và sự vật hiện tượng cũng không thể thực hiện được sự vận động chuyển
hóa tiếp theo. Vận động và đứng im tạo sự thống nhất biện chứng của các mặt đối
lập; vận động là tuyệt đối còn đứng im mang tính tương đối. Sự vật, hiện tượng
khác nhau, hoặc có thể trong cùng một sự vật, hiện tượng nhưng trong các mối
quan hệ khác nhau, ở các điều kiện khác nhau thì đứng im cũng khác nhau. Do vậy,
phải nghiên cứu vận động và đứng im của sự vật, hiện tượng theo quan điểm lịch
sử, cụ thể.
b. Không gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của khơng gian và thời gian, xem chúng là
hình thức tồn tại của vật chất vận động.
Khơng gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính; thời gian là
hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, là sự kế tiếp của
quá trình. Khơng có khơng gian và thời gian thuần túy tách rời vật chất vận động.
V.I Lênin viết: "Trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngồi khơng gian và thời gian".
Khơng gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động nhưng chúng không tách rời nhau. Khơng có sự vật, hiện tượng
nào tồn tại trong khơng gian mà lại khơng có một q trình diễn biến. Cũng không

6



thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà khơng có quảng tính. Khơng
gian và thời gian của vật chất nói chung là vơ tận, xét cả về phạm vi lẫn tính chất.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian, thời gian là cơ sở
lý luận khoa học để phản bác lại những quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời hai
phạm trù trên với vật chất vận động. Và quan niệm đó cũng qn triệt ngun tắc
phương pháp luận về tính lịch sử trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Theo C.Mác khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về ý thức: “ý niệm
chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó”.
Xét về nguồn gốc tự nhiên:
Theo V.I. Lênin khẳng định rằng: ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất. Tuy
nhiên, nó khơng phải của mọi dạng vật chất mà là thuộc tính của một dạng vật chất
sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động
bình thường và ý thức khơng thể tách rời bộ óc.
Ý

thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản

ánh cao nhất của thế giới vật chất. Từ giới tự nhiên vơ cơ có kết cấu vật chất đơn
giản với trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có định hướng cho đến giới tự
nhiên hữu sinh với kết cấu vật chất phức tạp, có trình độ phản ánh sinh học có tính
định hướng, lựa chọn; trình độ phản ánh được nâng cao, có bước tiến lớn trong
nhận thức.
Như vậy, với sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có
năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

7



Xét về nguồn gốc xã hội:
Sự phát triển của giới tự nhiên lên các cấp độ mới tạo ra tiền đề có năng lực
phản ánh, tuy thế nhưng nó chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Chỉ có từ thực tiễn,
cụ thể là hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định
sự ra đời của ý thức. Ý thức, ngay từ đầu, bản thân nó đã là một sản phẩm của xã
hội, và nó vẫn vậy chừng nào con người cịn tồn tại. Ý thức bao hàm trong nó cả từ
nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội, và là hiện tượng mang bản chất xã hội.
Để tồn tại, con người phải tạo ra những thứ vật phẩm nhằm thỏa mãn các nhu
cầu của mình. Ph.Ăngghen đã chỉ ra những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy ra
đời của ý thức: "Trước hết là lao động; sau lao động và cũng đồng thời với lao động
chính là ngơn ngữ". Ý thức hình thành khơng phải là q trình con người tiếp nhận
thụ động các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc mà chủ yếu từ hoạt động
thực tiễn. Thông qua hoạt động cải tạo thế giới khách quan mà con người từng
bước nhận thức được thế giới và có ý thức sâu sắc về nó.
Lao động mang tính xã hội, nó làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh
nghiệm. Từ đó, ngơn ngữ được hình thành; ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của ý
thức, và cũng là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm của xã hội.
Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó nếu khơng có ngơn ngữ thì ý thức
khơng thể được hình thành.
Như vậy, ý thức xuất hiện là kết quả của q trình lịch sử tiến hóa lâu dài của tự
nhiên, của lịch sử trái đất; đồng thời cũng là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội
- lịch sử của con người. Trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần; nguồn gốc
xã hội là điều kiện đủ. Nếu chỉ nhấn mạnh một trong hai nguồn gốc, dù là chỉ tự
nhiên hay chỉ xã hội thì sẽ dẫn đến quan niệm sai lầm, phiến diện mang hơi hướng
của chủ nghĩa duy tâm hoặc duy vật siêu hình; không thể hiểu được thực chất của
hiện tượng ý thức, của tinh thần lồi người nói chung. Nghiên cứu nguồn gốc của ý
thức là cách tiếp cận bản chất của ý thức, khẳng định bản chất xã hội của ý thức.
8



2.2. Bản chất của ý thức
Khác với chủ nghĩa duy tâm cường điệu hóa vai trị ý thức một cách thái q,
chủ nghĩa duy vật siêu hình tầm thường hóa vai trị của ý thức thì chủ nghĩa duy vật
biện chứng đã luận giải một cách khoa học nhất về bản chất của ý thức.
-

Vật chất và ý thức là hai hiện tượng, một mặt khác nhau về bản chất nhưng lại

mang tính chung nhất của thế giới hiện thực, ln có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Vì vậy, để tìm hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan
hệ với vật chất.
-

Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là q

trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
2.3. Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần tìm hiểu và xem xét ý thức ở nhiều
góc độ, khía cạnh; tiếp cận từ nhiều chiều sẽ đem lại tri thức nhiều mặt về cấu trúc
và cấp độ của ý thức.
-

Các lớp cấu trúc của ý thức: Muốn cải tạo được sự vật thì con người cần phải

có hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Dựa trên các lớp cấu trúc thì ý thức bao hàm trong
đó tri thức, tình cảm và ý chí.
-

Các cấp độ của ý thức:


+ Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ
với
ý thức về thế giới bên ngoài.
+
ý

Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngồi sự kiểm sốt của

thức.
+

Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm

ngồi phạm vi của lý trí mà ý thức khơng thể kiểm sốt được trong một lúc nào đó.


9


Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”:
Cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học công nghệ hiện đại đã phát triển
mạnh mẽ, tạo ra những máy móc, cơng cụ khơng chỉ thay thế lao động cơ bắp mà
cịn thay thế một phần lao động trí óc. Tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là máy
móc có ý thức như con người. Máy móc chỉ là kết cấu kỹ thuật do con người sáng
tạo ra, còn con người là thực thể xã hội được hình thành trong tiến trình lịch sử tiến
hóa lâu dài của giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy móc khơng thể tái tạo hiện
thực khách quan như con người, cho nên dù máy móc có hiện đại đến đâu chăng
nữa cũng khơng thể hồn thiện như bộ óc con người.
-


Con người là thực thể tự nhiên – xã hội có ý thức, là chủ thể sáng tạo ra mọi

giá trị vật chất và tinh thần, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con
người có vai trị to lớn trong đời sống hiện thực, là chủ thể có ý thức. Do vậy cần có
thái độ đúng đắn về con người để quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn
vẹn cả về thể chất và tinh thần, đặc biệt là thế hệ trẻ.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Chủ nghĩa duy vật siêu hình tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một
chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức dẫn đến nhiều sai lầm có tính ngun tắc bởi thái độ “khách
quan chủ nghĩa”, thụ động, ỷ lại, trông chờ, không đem lại hiệu quả trong hoạt động
thực tiễn.
Nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát, kịp thời khái quát những
thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu
hình để đưa ra những khái quát đúng đắn về hai lĩnh vực lớn là vật chất và ý thức.

10


Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức cịn ý thức tác động tích cực trở lại
vật chất.
Từ quan điểm trên, ta xét mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
hai vấn đề:
a. Vật chất quyết định ý thức:
Vai trị này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra,

cho nên lẽ tất nhiên ý thức – một thuộc tính của bộ óc con người – cũng do giới tự
nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học hiện đại đã chứng minh rằng
giới tự nhiên có trước con người, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật
chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ
quan của thế giới vật chất. Vì vậy nội dung của ý thức là do vật chất quyết định nên
vật chất quyết định nội dung, hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý
thức. Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản
thân thế giới khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất
là nguồn gốc của ý thức.
Ví dụ: Ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa do thiếu máy móc cũng như
đội ngũ giáo viên nên trình độ học vấn và tin học của học sinh còn kém. Điều này
đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì cũng quyết định đến ý thức như thế
nào.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
Ý thức dưới bất kì hình thức nào đều là sự phản ánh hiện thực khách quan. Ý
thức chẳng qua là kết quả sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
11


người. Bởi cùng với sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều
sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội
dung tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, các thời đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như những sự vật, hiện
tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới
của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải
biến thế giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý
thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong
phản ánh.

Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức:
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Giống
như loài người từ khi xuất hiện đến nay đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển: từ
lối sống bầy đàn nguyên thủy, do sự biến đổi về sản xuất, xã hội mà khơng ngừng
tiến hóa lên các cấp cao hơn cùng với đó là sự biến đổi vượt trội về tư duy, tình
cảm, ý thức. Cịn trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất với ý thức
được biểu hiện ở vai trò của kinh tế với chính trị, đời sống vật chất với đời sống
tinh thần, tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế
quyết định sự phát triển của văn hóa, khi đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn
đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Được thể hiện ở 4 khía cạnh:
Thứ nhất, ý thức có tính độc lập tương đối ở chỗ: ý thức phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra nhưng khi đã ra đời thì ý thức
có đời sống của riêng nó, khơng lệ thuộc máy móc vào vật chất.

12


Thứ hai, sự tác động của ý thức với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
Thứ ba, vai trị của ý thức ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó quyết định rằng hành động đó đúng hay sai, thành cơng hay thất bại.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan:

Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ
các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những
đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ
vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế
hoạch mới có thể thành cơng.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà
khơng nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vật chất.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải ln chủ
động, phát huy khả năng của mình và ln tìm tịi, sáng tạo cái mới. Đồng thời phải
thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa
chừng, không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh sa vào lười suy
nghĩ, lười lao động.

Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan, còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan
hệ lợi ích, phải

13


biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, phải có động cơ
trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, khơng vụ lợi trong nhận thức và
hành động của mình.
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG SINH VIÊN.
Sinh viên được coi là một bộ phận ưu tú của xã hội vì đã được sàng lọc qua kì
thi tuyển sinh quốc gia, đồng thời đây cũng là lực lượng lao động nịng cốt trong
tương lai đóng một vai trị vơ cùng quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Trong môi trường đại học, lực lượng này được tập hợp một cách có tổ chức, quản lý

của nhà trường và các tổ chức đoàn thể như hội sinh viên, đồn thanh niên, do đó
dễ thống nhất hành động theo mục tiêu chung. Bên cạnh đó, sinh viên cịn là lớp
người có khả năng tiếp thu nhanh những cái mới, nhạy cảm với những biến đổi của
tình hình xã hội. Cuộc sống ở môi trường đại học làm nảy sinh ở họ những nhu cầu
như tìm hiểu, mở rộng kiến thức, nhu cầu tự học, tự đào tạo… ngày càng phong
phú theo định hướng nghề nghiệp trong quá trình học.
Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính
độc
lập tương đối và tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Bản thân ý thức không thể thay đổi hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại
hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người hoạt động
trong thực tế. Điều này cho thấy ý nghĩa vô cùng quan trọng của mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức với đời sống sinh viên.
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan. Đầu tiên, bản thân mỗi sinh viên
phải tự xác định được các điều kiện khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống và việc
học tập của mình. Ngay từ đầu khi lựa chọn ngành học và trường học, bản thân em
cũng như phần đa các sinh viên khác đều xem xét đến vấn đề tài chính ra đình liệu
14


có đáp ứng đủ nhu cầu học tập ở mơi trường đại học hay không? Không thể phủ
nhận được tầm quan trọng của tiền bạc trong việc học tập cũng như cuộc sống bởi
nếu khơng có tiền chúng ta khơng thể chi trả cho nhu cầu thiết yếu nhất như ăn
uống chứ chưa nói tới học hành, vui chơi giải trí. Ví như những học sinh đến từ tỉnh
lẻ, mỗi tháng ngồi tiền học cịn rất nhiều khoản phải trang trải như tiền thuê nhà,
tiền điện nước, tiền ăn, chi phí đi lại… Những điều này đều có tác động đến suy
nghĩ của mỗi người và từ đó cũng khiến họ đưa ra những quyết định khác nhau
nhằm giải quyết vấn đề trên. Có người sẽ đi tìm việc làm thêm để phụ giúp gia
đình, có người lại chọn cách sống tiết kiệm để giảm các khoản phải chi tiêu. Nhưng

dù đó là biện pháp gì thì nó cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập theo
chiều hướng có cả tích cực và tiêu cực. Lựa chọn việc làm thêm phù hợp với ngành
học mình lựa chọn sẽ giúp gia tăng kĩ năng cần thiết cho công việc tương lai, mở
rộng mối quan hệ, được va chạm với mơi trường để hồn thiện năng lực và ngược
lại, cơng việc làm thêm khơng thích hợp chỉ làm lãng phí thời gian, công sức mà vô
bổ, gián tiếp làm giảm sút chất lượng học tập.
Tiếp theo là điều kiện cơ sở vật chất của môi trường học tập cũng ảnh hưởng tới
quyết định lựa chọn và sự phát triển của sinh viên. Một môi trường học lành mạnh,
năng động, cơ sở vật chất tiên tiến, đội ngũ giảng viên giỏi và tâm huyết, sinh viên
năng nổ tự tin thì bao giờ cũng thu hút chúng ta học tập hơn là một môi trường học
kém văn minh và thiếu thốn trang thiết bị phục vụ nhu cầu nghiên cứu, phát triển
của sinh viên. Ở trong một môi trường với điều kiện tốt sẽ thúc đẩy khả năng vươn
lên, giúp sinh viên thỏ sức bộc lộ tài năng và khám phá ra những khía cạnh mới của
bản thân.
Mặt khác, mỗi người cần chú ý tơn trọng tính khách quan và hành động theo
các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua việc tuân thủ theo thời khóa biểu
mà mỗi khoa, mỗi lớp đã giao để đi học đúng giờ, tham dự các tiết học đầy đủ đồng
thời tôn trọng và làm theo hướng dẫn của giảng viên trong tiết học. Môi trường
15


giảng đường khác với mơi trường học sinh, nó có tầm bao quát lớn hơn và cũng
phức tạp hơn, vì thế ta cần tuân thủ theo những nội quy, quy định do nhà trường đề
ra, chấp hành đúng kỷ luật đặc biệt là quy chế thi, tác phong trong qua trình học tập
tại trường. Trường học cũng như xã hội, ở đâu cũng có những nguyên tắc hoạt động
riêng và chúng ta phải thích nghi với chúng nếu khơng sẽ bị “đào thải”.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo, của ý
thức. Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là
phương thức vận động và tồn tại của ý thức. Chính vì vậy, sinh viên cần phải tích

cực trong học tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi học bài khơng q
phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó nên vận dụng trí óc để suy nghĩ những ý
tưởng mới, những cách thức của riêng mình. Ở đại học, chúng ta khơng cịn được
thầy cơ hướng dẫn chi tiết, cặn kẽ hay nhắc nhở phải làm cái này cái kia mà thầy cô
sẽ làm nhiệm vụ dẫn đường đưa ta đi khám phá vùng đất tri thức mà ở đó ta phải tự
đào sâu, khai thác thì mới tiếp cận và có được kiến thức mới để từ đấy ta cịn nhận
thêm được kĩ năng phục vụ cho cơng việc sau này, học không chỉ là thuộc con chữ
mà phải đưa tri thức ấy vận dụng vào nghề nghiệp, vào cuộc sống thì việc học mới
có ý nghĩa. Do đặc thù này, mỗi sinh viên phải tìm được phương pháp tự học phù
hợp với năng lực và sở thích của bản thân. Ví dụ sau mỗi tiết học chúng ta có thể
tìm đến kho tri thức của thư viện hoặc các tài liệu trong kho sách để trau dồi vốn
kiến thức chuyên ngành. Tuy nhiên những tri thức tiếp thu từ sách vở là chưa đủ, xã
hội ln địi hỏi ở lực lượng lao động vốn kỹ năng sống nhất định. Muốn như vậy
thì khơng chỉ lúc nào cũng cắm cúi học mà ta nên tham gia các hoạt động xã hội
như cơng việc tình nguyện, các cuộc thi học thuật,…Ở đây ta sẽ gặp được nhiều
người với nhiều tính cách khác nhau, trình độ khác nhau, được kết bạn giao lưu học
hỏi lẫn nhau. Cuộc sống không chỉ có học và học mà cịn có những mối quan hệ
xung quanh, sẽ thật đáng tiếc nếu như cuộc đời sinh viên khơng có những kỉ niệm
16


vui vẻ được học tập và chơi đùa với bạn bè, hay chí ít ta cũng nên có một người bạn
tâm giao để giải bày những lúc bế tắc, khó khăn.
Tình cảm là những rung động của con người trong các mối quan hệ với hiện
thực. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và sau đó trở thành hành động.
Nói cách khác, tình cảm là động lực to lớn thúc đẩy chúng ta đi đến thành cơng.
Đối với một sinh viên khoa tài chính doanh nghiệp như em, để đạt được thành tích
tốt trong học tập cũng như phát triển tốt trong tương lai, cần phải có niềm đam mê
đối với mỗi mơn học bất kể là môn chuyên ngành hay môn đại cương. Không chỉ
trong học tập mà khi làm bất kì việc gì cũng vậy, cần phải tạo được hứng thú và có

sự yêu thích, thoải mái vui vẻ thì làm việc mới hiệu quả. Suy nghĩ và cảm xúc có
tác động khơng nhỏ trong qua trình phát triển của mỗi người. Những lúc mệt mỏi,
mất định hướng, ta thường tìm về với gia đình, với những người thân yêu để được
động viên, an ủi và được nghe những lời khun. Và chính tình yêu với học cũng
tiếp thêm động lực cho bản thân vượt qua những khó khăn, thử thách để tiếp tục
trên con đường học tập.
Niềm tin cũng là động cơ tinh thần, định hướng cho những hoạt động của con
người. Là một sinh viên, ta cần phải biết đặt niềm tin đúng chỗ. Đầu tiên là cần phải
có niềm tin ở bản thân, phải biết đặt ra mục tiêu, phải có hồi bão, ước mơ bởi
người khơng có ước mơ giống như viên đạn lạc, khơng biết đời mình bay về đâu.
Nhưng mong ước thôi chưa đủ, ta cần phải hiện thực hóa nó bằng hành động cụ thể,
bằng những kế hoạch chắc chắn. Có niềm tin thì chắc chắn sẽ có độc lực để phấn
đấu, vươn lên nhằm đạt được những mục tiêu cao đẹp. Nếu ngay cả bản thân bạn
mà cịn khơng tin chính mình thì làm sao địi hỏi người khác có thể tin tưởng vào
năng lực làm việc của bạn để giao cho những trọng trách lớn hơn.
Ý chí cũng là một phần khơng thể thiếu trong ý thức, có ảnh hưởng lớn tới
vật
chất. Nó biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, độ bền bỉ khi đối mặt với
những trở ngại. Môi trường đại học là một xã hội thu nhỏ với biết bao cám dỗ mà
17


nếu khơng có ý chí vững vàng, sinh viên dễ mắc những thói hư tật xấu, sa đà vào tệ
nạn xã hội. Cuộc sống tự lập khi khơng có bố mẹ bên cạnh đòi hỏi sinh viên chúng
ta phải lập ra những quy tắc cho riêng bản thân để giữ vững lập trường của mình
trước những cạm bẫy trước mắt như: tránh tụ tập nhậu nhẹt hàng qn, khơng vì
lười biếng mà cúp học, chưa hoàn thành bài tập mà đã lên giường đi ngủ, bỏ học đi
chơi, không nên chạy theo những xa hoa vật chất mà đánh mất bản thân, khơng vì
những cơng việc sinh ra lợi ích tức thời mà bỏ bê việc học, đặt ra quyết tâm phải tốt
nghiệp ra trường loại giỏi trở lên bằng cách lập ra thời gian biểu cụ thể với một

phương pháp học đúng đắn. Ý chí quyết tâm này sẽ thôi thúc ta học tập để đạt được
mục tiêu. Và nên học theo tinh thần câu nói của Lênin: “Học, học nữa, học mãi”.
Thứ ba, ý thức cần phải phản ánh đúng hiện thực để có thể tiên đốn chính xác
cho hiện thức cũng giống như chúng ta cần có cái nhìn sát sao với cuộc sống, có
nhận thức đúng đắn về điều kiện khách quan của mình ví dụ như nhìn rõ năng lực,
khả năng để lựa chọn ngành học phù hợp, không nên thấy người khác chọn học thì
mình cũng chọn theo dù bản thân khơng biết gì về chuyên ngành đó. Khi làm việc
nhóm để giải quyết một cơng việc cũng như vậy, phải có cái nhìn bao qt về vấn
đề từ nhiều khía cạnh, sau đó nên lắng nghe ý kiến của mọi người xung quanh
nhưng cần tiếp thu những ý kiến tốt, loại bỏ những cái chưa phù hợp, suy nghĩ ra
hướng giải quyết sáng tạo, đột phá; không nên bảo thủ giữ cái thiếu sót của mình và
cũng khơng nên q cầu tồn dẫn tới nhận thức sai về vấn đề.
Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến điều kiện vật chất lẫn
yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan và yếu tố chủ quan. Khi đăng ký học phần,
chúng ta cần tính đến năng lực học của bản thân, điều kiện tài chính gia đình, cân
nhắc quỹ thời gian, không đăng ký một cách tràn lan với mục đích tốt nghiệp sớm
tránh trường hợp học theo khơng kịp, dẫn đến hao phí tiền bạc, thời gian, cơng sức
mà kết quả lại không như mong muốn.

18


KẾT LUẬN
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó, vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức
nhưng ý thức khơng thụ động mà có tính tương đối, có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động của con người. Trên cơ sở lý luận này, chúng ta đã có tiền đề
nhất định để vận dụng vào trong đời sống, nhất là với sinh viên. Nó là động lực
thúc đẩy lớp người trẻ như chúng ta không ngừng học tập rèn luyện để có thái độ
sống tích cực, tăng khả năng tự giác, chủ động tìm tịi sáng tạo, nghiên cứu. Sinh

viên phải có cho mình những phương pháp nhìn nhận và tiếp thu tri thức mới của
thời đại, nhất là trong bối cảnh thế giới đang khơng ngừng biến đổi. Để từ đó vận
dụng những kiến thức đó vào trong cuộc sống, cơng việc, trong phát triển mối quan
hệ với gia đình, bạn bè; đặc biệt là để góp phần xây dựng xã hội ngày càng văn
minh tốt đẹp. Ngồi ra sinh viên cũng cần tích cực tham gia các hoạt động xã hội
thúc đẩy kĩ năng mềm, trau dồi năng lực chuyên môn khi ra trường, đáp ứng những
yêu cầu của thị trường về chuyên mơn và nghiệp vụ. Có được những phẩm chất
trên, sinh viên mới có thể trở thành người lao động mới với đầy đủ năng lực và
phẩm chất để thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng mạnh mẽ, sánh vai với các
cường quốc trên thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
19



×