Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

(TIỂU LUẬN) sự LÃNH đạo ĐÚNG đắn của ĐẢNG là NHÂN tố HÀNG đầu QUYẾT ĐỊNH THẮNG lợi của CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.67 KB, 14 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
-----***-----

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT
ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM – SỨ MỆNH TIẾP NỐI
TRUYỀN THỐNG VẺ VANG CỦA ĐẢNG CỦA THẾ HỆ SINH VIÊN VIỆT
NAM

Giảng viên :
Sinh viên thực hiện

:

Lớp :
MSSV :

TS. Bùi Thị Hồng Thúy

Đoàn Hà Trang
CT46B
CT46B- 051- 1923

Hà Nội - 2021


MỤC LỤC


Mở đầu……………………………………………………………………………….…...1
Chương I. Khái quát chung: Sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam mang ý
nghĩa to lớn với sự nghiệp cách mạng dân
tộc…………………………………………………2
Chương II. Sự lãnh đạo của Đảng- Nhân tố quyết định tới mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam …………………………………………………………………………..2
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1930- 1954)

….2
1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình đấu tranh giành chính quyền (19301945)………………………………………………………………………………………………….2
1.2. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945- 1954............................................3
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và xây

dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc (1954- 1975)………………………………………….4
2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai miền Nam- Bắc (1954- 1965)
……4
2.2. Sự lãnh đạo cách mạng cả nước của Đảng (1965- 1975)
……………………….5
3. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành Đổi mới…..

….6
3.1. Giai đoạn hoàn thiện thống nhất về nhà nước và thời kỳ Đổi mới.......................7
3.2. Thời kỳ Đổi mới đến nay......................................................................................7
Chương III. Vận dụng thực tiễn: Sứ mệnh tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đảng
của mỗi sinh viên…………………………………………………………………….…...8


Kết luận………………………………………………………………………………….10
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………………..11


Mở đầu
Suốt chặng dài của lịch sử dân tộc, đất nước ta đã trải qua biết bao những thăng
trầm, biến động, biết bao nhiêu máu, mồ hôi, nước mắt của những thế hệ đi trước đã đổ
xuống để đổi lấy một nụ cười, một niềm vui và sự độc lập. Và hơn cả, thành cơng mà ta
có được chính là nhờ vào cơng lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn chín thập
kỷ trôi qua, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được độc lập, tự do từ
tay những đế quốc xâm lược hùng mạnh nhất và không ngừng phát triển trên con đường
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quả thực, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội qn tiên phong, có vai trị quan trọng
trong sự nghiệp chung của dân tộc. Hiển nhiên, là thế hệ tương lai của đất nước, mỗi sinh
viên phải sâu sắc ý thức được trách nhiệm của mình với tổ quốc và tiếp nối những thành
tựu mà Đảng đã làm được để góp phần đưa đất nước phát triển. Bởi vậy, với đề tài “Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Sinh viên cần làm gì để tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đảng”, tác giả thực
hiện bài nghiên cứu nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt và xuất sắc của Đảng
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cũng đồng thời, chỉ ra nhiệm vụ, trách nhiệm của
mỗi sinh viên, thế hệ thanh niên với sứ mệnh kế thừa những thành quả cách mạng mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được trong suốt những năm tháng lãnh đạo và dẫn dắt
đất nước.
Để thực hiện bài nghiên cứu, tác giả đã tham khảo những bài viết, báo cáo về
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời, tham khảo, nghiên cứu
các tài liệu, văn kiện của các kì Đại hội. Từ đó, đưa ra các luận giải phù hợp, đúng đắn và
chính xác nhằm chứng minh sáng rõ vai trị của Đảng đối với mọi thắng lợi cách mạng
1


của đất nước, cũng như khẳng định trách nhiệm nối tiếp truyền thống của mỗi sinh viên
Việt Nam.
Để đáp ứng nhiệm vụ trên, bài nghiên cứu có cấu trúc 3 phần lớn như sau:

1. Khái quát chung về Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của việc thành lập
Đảng
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
3. Vận dụng: Sứ mệnh tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đảng của mỗi sinh viên

Chương I. Khái quát chung: Sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam mang ý
nghĩa to lớn với sự nghiệp cách mạng dân tộc.
Năm 1958, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất
lực, khủng hoảng đã trực tiếp đẩy nước ta vào cảnh “một xứ thuộc địa, dân ta là vong
quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác” 1. Chứng kiến cảnh nước
mất nhà tan ấy, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã mang một khát khao giành lại độc
lập, tự do cho dân tộc, từ bến cảng Nhà Rồng đi sang các nước châu Âu, châu Phi, tham
gia các hoạt động của cách mạng quốc tế. Khi đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, Người đã tìm được hướng đi đúng đắn cho cách mạng nước nhà:
“không có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, xác định vai trị lãnh đạo của
đạo qn vơ sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực
lãnh đạo quần chúng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc về đường lối cách mạng, mở
ra một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc tiến bộ, trưởng thành hơn cho giai cấp
công nhân Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng cùng Cương lĩnh Chính trị đầu tiên đã khẳng định được Đảng
đã lựa chọn được con đường cách mạng đúng đắn là con đường cách mạng vơ sản, phù
hợp với tình hình thực tiễn của nước ta để đưa đất nước tiến lên “giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người”. Có thể nói, đây chính là bước ngoặt vĩ đại của
1 Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 401
2


cách mạng dân tộc, đã góp phần dẫn dắt nhân dân đi tới những thắng lợi rực rỡ trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chương II. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng- Nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1930- 1954)
1.1. Sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945)
Từ những ngày đầu thành lập, Đảng đã xác định lối đi phù hợp và đúng đắn cho
con đường giải phóng dân tộc nhờ vào bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(10/1930). Đảng đã chỉ ra: Phương hướng chiến lược “Tiến hành tư sản dân quyền cách
mạng, sau khi thắng lợi tiến tới phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa”; Nhiệm vụ của cách mạng là “Đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ mọi ách bóc lột, đánh đổ thực dân Pháp làm Đơng Dương hồn tồn độc
lập”, “trong đó vấn đề thổ địa là cái cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền”; Lực lượng
cách mạng lấy giai cấp công- nơng dân làm động lực chính của cách mạng; Phương pháp
cách mạng là “con đường võ trang bạo động” và “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”…
Mặc dù, Cương lĩnh vẫn còn tồn tại một số vấn đề như chưa vạch ra mâu thuẫn chủ yếu
trong xã hội, hay vấn đề liên minh dân tộc và giai cấp, cũng như chưa đánh giá đúng vai
trị vị trí của các tầng lớp giai cấp. Song, không thể phủ nhận rằng Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng thực sự là một cương lĩnh đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại mới
và thấm nhuần tinh thần dân tộc ta.
Dưới sự dẫn dắt của Đảng, cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra
mạnh mẽ, bài bản và có tổ chức, trong đó phải kể đến ba cao trào cách mạng có ý nghĩa
to lớn đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta: Cao trào
cách mạng 1930- 1931 mà đỉnh điểm là phong trào Xơ Viết Nghệ- Tĩnh; Cao trào cách
mạng địi dân sinh, dân chủ 1936- 1939 và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc
1939- 1945. Ba cao trào diễn ra liên tiếp này đã làm rung chuyển chế độ thống trị của

3


bọn thực dân Pháp và tay sai và tạo tiền đề để chúng ta đi tới thắng lợi oanh liệt của Cách
mạng tháng Tám 1945- dấu son rực rỡ của lịch sử dân tộc.

1.2. Sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945- 1954
Sau Cách mạng tháng Tám, nước ta rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”: Chính
quyền cách mạng non trẻ, phải đương đầu với “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”.
Đứng trước tình hình này, cùng với việc phải củng cố chính quyền cịn non trẻ, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra các biện
pháp đấu tranh theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vừa mềm dẻo vừa cứng
rắn để có thể vừa củng cố lực lượng, vừa tránh phải đối phó trước kẻ thù. Song, “chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần
nữa”2. Vậy nên, ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến và vào ngày 19/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến. Từ đây, Đảng đã quán triệt đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”, phát động chiến tranh tồn dân với tinh thần
“thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” 3. Cuộc kháng chiến
toàn quốc bùng nổ với tinh thần đoàn kết dân tộc được đề cao hơn bao giờ hết.

Như vậy, từ những ngày đầu gian khó tới chiến thắng đỉnh cao của trận Điện Biên
Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, sự lãnh đạo của Đảng đã giúp toàn dân,
toàn quân ta bảo vệ được thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám, giành được thắng
lợi có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Có thể nói, đường lối lãnh đạo tài ba, sáng suốt của Đảng đã mang lại ý nghĩa lịch
sử to lớn. Bởi lẽ, “lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời, cũng là một thắng lợi của các lực lượng hịa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa
2
3

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946
Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946


4


trên thế giới”4. Dưới ngọn cờ của Đảng, quân và dân ta càng lúc càng mạnh mẽ bước trên
con đường đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho dân tộc.
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và xây

dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc (1954- 1975)
2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai miền Nam- Bắc (1954- 1965)
Phải khẳng định rằng, để cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đi
tới thắng lợi vẻ vang, đưa Việt Nam trở thành một đất nước độc lập, thống nhất thì vai trị
lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định. Một minh chứng điển hình cho sự thành
cơng trong cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng với cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ chính là Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 15 năm 1959- Nghị quyết lịch sử và quan trọng của dân tộc.
Trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã căn cứ vào tình hình thực tế đất nước để đề ra đường lối đúng đắn nhất đó là
làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc nhằm hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Tại Hội nghị Trung ương 15 khóa II (1/1959), Đảng ta đã đề ra phương pháp: “Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân”. Từ đây, Nghị quyết Trung ương 15 đã thắp lên ngọn lửa phong
trào Đồng khởi, sau đó nhanh chóng phát triển thành cao trào Đồng khởi của nhân dân
các tỉnh miền Nam. Với hướng phát triển mới mà Đảng chỉ ra là dùng bạo lực cách mạng,
chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang, phong trào Đồng khởi đã đưa cách mạng miền
Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đồng thời tạo cơ sở để Đảng ta
tiếp tục phát triển chiến tranh toàn dân, toàn diện và đánh bại các chiến lược của đế quốc
Mỹ.
Như vậy, Nghị quyết Trung ương 15/1959 chính là văn kiện mang tính lịch sử,
đánh dấu bước chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo đấu tranh cách mạng, cũng như sự

chuyển hướng mạnh mẽ về hình thức và phương pháp đấu tranh của cách mạng ta.
4

Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12, trang 410

5


2.2. Sự lãnh đạo cách mạng cả nước của Đảng (1965- 1975)
Từ năm 1964 đến năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sĩ
miền Nam càng phát triển và thu được nhiều thắng lợi quan trọng. Trước yêu cầu mới của
cách mạng, năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11
(3/1965) ra Nghị quyết về tình hình nhiệm vụ cấp bách trước mắt và Hội nghị lần thứ 12
(12/1965) với Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ mới. Hai Hội nghị Trung ương đã
đồng thời khẳng định quyết tâm đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
nhằm bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.
Trung ương Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là “Kịp thời chuyển
hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng
quốc phong cho phù hợp với tình hình mới”. Chỉ thị của Đảng cùng Lời kêu gọi của Bác
đã dấy lên cao trào vừa chiến đấu, vừa sản xuất ở miền Bắc như “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm
đang”. Mọi quyết tâm đều hướng về “miền Nam ruột thịt”.
Ở miền Nam, nhằm đối phó với chiến lược Chiến tranh cục bộ (1965- 1968), Hội

nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã thơng qua Nghị quyết Anh
dũng tiến lên, thực hiện tổng cơng kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định
cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Bộ Chính trị nhằm chuyển hướng cuộc chiến
tranh miền Nam sang thời kỳ mới, tiến hành “Tổng cơng kích- Tổng khởi nghĩa” vào tất
cả các đơ thị, dinh lũy của Mỹ- Ngụy trên toàn miền Nam. Phải nói rằng, đây là quyết
định chiến lược sáng tạo nhưng có phần táo bạo của Đảng trong hồn cảnh bấy giờ khi
đối phương đã leo thang cuộc chiến tranh đến đỉnh cao chuẩn bị đợt tiến công chiến lược

thứ ba hịng tìm diệt chủ lực của ta, giành lại quyền chủ động về chiến lược trong chiến
tranh. Dưới sự chỉ huy của Đảng và Bộ Chính trị, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1968 đã nổ ra và giành được thắng lợi huy hoàng.
Chiến thắng này đã làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và buộc chúng
phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Paris (1968- 1973). Sau khi Hiệp định
Paris được ký kết, tại Hội nghị Trung ương Đảng 21 (khóa III), Trung ương Đảng đã ra
Nghị quyết lịch sử Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm
6


vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, nhằm xác định “con đường của cách
mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực”. Từ đây, nhiều chiến dịch liên tiếp nổ
ra, quân ta đã đánh những trận chiến quyết định, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy, kết
thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Nam được giải phóng, nước nhà ta được thống
nhất trọn vẹn.
Có thể nói, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước là q trình Đảng đã khơng
ngừng phát triển, bổ sung, hồn chỉnh đường lối kháng chiến và xây dựng đất nước và áp
dụng sáng tạo tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, đưa đất
nước ta trở thành quốc gia thống nhất, độc lập, thực hiện được di nguyện “Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho Ngụy nhào” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3, Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành Đổi mới
3.1. Giai đoạn hoàn thiện thống nhất về nhà nước và thời kỳ Đổi mới
Sau khi đất nước được hồn tồn giải phóng, đất nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đã chỉ ra nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam lúc này chính là khôi phục, ổn định xây dựng và phát triển đất nước trong
điều kiện hịa bình. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Đảng đã đưa ra các chủ trương,
chính sách như “áp dụng rộng rãi khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người
lao động”, hay kế hoạch 5 năm từ 1981- 1985,… Song, các chính sách, biện pháp của
Đảng vẫn còn tồn tại những hạn chế, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức thiết mà xã
hội đặt ra, đặc biệt là những vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế, lực lượng sản xuất, quan hệ

sản xuất.
Đứng trước tình hình nguy cấp của đất nước tại thời điểm đó, Đại hội VI
(12/1986) của Đảng đã họp với tinh thần nghiêm khắc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đảng đã phân tích những sai lầm trong đường lối lãnh đạo
và đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một bước ngoặt quan trọng quyết
định sự phát triển của đất nước sau này. Đại hội nêu rõ “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu
tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình
7


kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”5. Từ đây, đất nước tiến vào công cuộc
Đổi mới trường kỳ và đạt được nhiều thành tựu nhất định.
Rõ ràng, trong q trình lãnh đạo đất nước, Đảng đã khơng ngừng tiếp thu kinh
nghiệm, dám nhìn thẳng vào sự thật và khắc phục kịp thời những khuyết điểm, đề ra
những đường lối, chính sách phù hợp để đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, Đại hội VI (12/1986) chính là Đại hội mang tính quyết định, định hướng đất
nước phát triển, không ngừng đổi mới để hoàn thiện những mục tiêu lâu dài của cả dân
tộc.
3.2. Thời kỳ Đổi mới đến nay
Sau 35 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã đạt được những
thành tựu có nghĩa quan trọng: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, tình hình chính
trị xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được củng cố. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó
“đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ
trong những năm tới; khẳng định đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử”6.
Trong thời kỳ đại dịch COVID- 19 hiện nay, Đảng đã phát huy xuất sắc vai trị
lãnh đạo của mình trong cơng tác phịng dịch và chống dịch, đồng thời, khắc phục những
hậu quả của dịch bệnh, càng lúc càng khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc

tế.
Như vậy, thực tiễn 90 năm đã giúp chúng ta minh chứng được rằng, sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng chính là nhân tố quan trọng, quyết định tới mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.

5
6

/>Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, 2016,
trang 66

8


Chương III. Vận dụng thực tiễn: Sứ mệnh tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đảng
của mỗi sinh viên
Với cương vị là thế hệ trẻ đứng dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, trách
nhiệm viết tiếp những truyền thống vẻ vang mà Đảng đã gây dựng trong quá trình bảo vệ,
xây dựng và đưa đất nước phát triển vững mạnh trên con đường xã hội chủ nghĩa đang
đặt lên vai những sinh viên, những Đảng viên tương lai của Đảng. Giờ đây, câu hỏi mà
thế hệ trẻ cần phải đặt ra là chúng ta cần làm gì và làm như thế nào để có thể phát huy
được những truyền thống hào hùng của Đảng trong suốt hơn 90 năm lãnh đạo đất nước?
Thứ nhất, mỗi sinh viên cần ý thức sâu sắc và rõ ràng trách nhiệm của mình với
Đảng và nhân dân. Bởi lẽ, ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặt vào thế hệ thanh niên một niềm tin rất lớn và ln đánh giá cao vai trị, sứ
mệnh của thanh niên trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Từ đây, mỗi
sinh viên- Những người có thể sẽ đứng trong hàng ngũ của Đảng cần có sự tự ý thức, tự
giác ngộ những lý tưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác- Lênin. Đồng thời,
hiểu rõ được vai trò lãnh đạo cũng như thành quả cách mạng của đất nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng trong chặng đường hơn 90 năm vừa qua. Để từ đó, mỗi sinh viên sẽ ý thức

được sứ mệnh tiếp nối những truyền thống, thành quả cách mạng của Đảng trong sự
nghiệp xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Thứ hai, mỗi thế hệ sinh viên cần sống có lý tưởng, giữ vững niềm tin vào Đảng,
vào chế độ, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức và tri thức, bồi đắp tinh thần yêu nước sâu
sắc. Đứng trước sự phát triển của thông tin hiện nay, mỗi sinh viên cũng đồng thời phải
kiên định trước những thông tin xuyên tác, bóp méo, phá hoại nền tảng tư tưởng của
Đảng và phải kiên quyết bảo vệ những thành quả của Đảng và nhân dân. Đặc biệt, trong
bối cảnh dịch bệnh COVID- 19 đang diễn ra phức tạp như ngày hôm nay, mỗi sinh viên
cần tỉnh táo trước các thông tin sai lệch nhằm bôi nhọ cố gắng của toàn Đảng và toàn
dân, đặt sự tin tưởng và nghiêm túc chấp hành những chỉ thị của Đảng và Nhà nước để cả
nước ta cùng chung tay chiến thắng dịch bệnh.

9


Thứ ba, mỗi người trẻ cần học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Điều này thể hiện ở việc mỗi Đoàn viên, Đảng viên trẻ tuổi tích cực tham gia
vào các cuộc vận động, phong trào thi đua: “Tìm hiểu 90 năm lịch sử vẻ vang của Đảng
Cộng sản Việt Nam”… Bằng cách này, mỗi người trẻ sẽ là một tuyên truyền viên xứng
đáng, góp phần tun truyền hình ảnh, tư tưởng cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với đất nước đến với mọi người xung quanh cũng như bạn bè quốc tế.
Thứ tư, trong bối cảnh thế giới đang không ngừng mở rộng hội nhập hóa, tồn cầu
hóa, là thế hệ tương lai của đất nước, mỗi sinh viên cần trau dồi kiến thức, năng lực cũng
như phẩm chất để có thể thích nghi và gia nhập q trình hội nhập quốc tế, hướng tới trở
thành những cơng dân tồn cầu. Điều này khơng chỉ có ý nghĩa với mỗi cá nhân, mà hơn
cả, đây cũng chính là động lực để củng cố hình ảnh đất nước, góp phần giúp Việt Nam
phát huy được ưu thế, vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, thực hiện được nguyện
vọng đưa đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuối cùng, mỗi sinh viên cần phải có ý thức tự kiểm điểm, tự nhìn nhận đúng đắn
những khuyết điểm của bản thân và đồng thời phải có ý thức sửa đổi. Có như vậy, chúng

ta mới có thể góp phần tạo nên thế hệ trong sạch, thanh liêm cho tương lai đất nước.
Kết luận
Trong suốt hơn 90 năm dẫn dắt, lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa dân tộc đi từ thắng lợi này đến những thắng lợi khác. Dưới lá cờ Đảng, quân và dân
ta đã chiến thắng được những đế quốc “sừng sỏ” nhất như Pháp, Mỹ, Nhật. Và dưới lá cờ
Đảng, đất nước ta đã giành được độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, từng bước
vững chắc tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Phải nói rằng, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam không
ngừng rút kinh nghiệm, thay đổi và sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, cũng
như đáp ứng được nguyện vọng của toàn Đảng và quần chúng nhân dân. Điều này được
thể hiện ngay từ những ngày đầu thành lập cho đến nay, Đảng đã không ngừng tự kiểm
điểm và sửa chữa khuyết điểm trong mỗi kỳ Đại hội để có thể tiếp tục đưa sự nghiệp cách
10


mạng phát triển, vì một mục tiêu“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Là sinh viên trưởng thành trong môi trường mang đậm tinh thần của Đảng và tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta càng thêm tự hào với những thắng lợi vẻ vang mà Đảng đã
đạt được trong sự nghiệp 90 năm lãnh đạo cách mạng. Đồng thời, mỗi người phải tự nhận
thức rõ ràng trách nhiệm của bản thân đối với đất nước, với Đảng và nhân dân là cống
hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành
quả của Đảng và nhân dân đã đạt được, và kiên trung với lý tưởng của Đảng và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Từ đây, chúng ta càng phải ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức, đồng thời
kiên quyết lên án, phê bình những đối tượng trẻ tuổi bị xói mịn đạo đức, chống phá cách
mạng và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố quyết định tới
sự thắng lợi của mọi cuộc cách mạng Việt Nam. Và là sinh viên dưới lá cờ Đảng, chúng
ta cần thiết phải nắm chắc vai trò tiếp nối những truyền thống vẻ vang của Đảng, góp
phần đưa đất nước phát triển và khẳng định được vị thế trên trường quốc tế.

Tiểu luận có thể vẫn tồn tại nhiều thiếu sót, song, tác giả hi vọng những nghiên
cứu của mình sẽ góp phần nhỏ vào sứ mệnh tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đảng và
dân tộc.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện, tư liệu
(1) Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 401
(2) Hồ Chí Minh Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12, trang 410
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB

Chính trị quốc gia, 2016, trang 66
(4) Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946

2. Bài viết
(1) Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
11


/>
12



×