Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học quản lý nhà nước, chính sách đầu tư đối với nguồn vốn ODA ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.2 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp cơng nghiệp hố (CNH), hiện đại hoá(HĐH) đất nước với mục
tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp đã
đi được một chặng đường khá dài. Nhìn lại chặng đường đã qua chúng ta có thể
thấy rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm đạt trên 7%, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng
cao và không những đạt được những thành tựu về mặt kinh tế mà các mặt của đời
sống văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế cũng được nâng cao rõ rệt, tình hình chính trị
ổn định, an ninh- quốc phòng được giữ vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế ngày
càng được mở rộng. Trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế, cùng sự bùng nổ của
khoa học và công nghệ, nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng tăng cao. Đặc biệt đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam thì nhu cầu này càng rõ nét. Nguồn, vốn đầu
tư phát triển xã hội được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: ngân sách nhà nước;
tín dụng nhà nước; đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI...), các khoản hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA). Trong đó các khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA trong thời
gian qua đã đóng góp một phần rất lớn vào tiến trình phát triển của đất nước. Thực
tế tiếp nhận, sử dụng nguồn vốn và thực hiện các dự án ODA thời gian qua cho thấy
ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, ODA
đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại,
phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng
kinh tế- xã hội tương đối hiện đại. Việt Nam-trong thời gian gần đây đã tiếp nhận,
sử dụng vốn và thực hiện các dự án ODA từ rất nhiều nhà tài trợ song phương, đa
phương, các tổ chứ phi chính phủ (NGO). Đứng đầu trong các tổ chức trên là Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB),
chiếm trên 80% tổng số vốn ODA đã cam kết. Theo thời gian, khối lượng vốn ODA
vào Việt Nam ngày càng tăng và góp phần khơng nhỏ vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở đất nước ta. Tuy nhiên, cũng có năm, chúng ta chưa quản lý hiệu quả và
sử dụng hết được nguồn vốn quý giá này. Giải ngân chậm là một vấn đề mà cả


Chính phủ và các nước đều quan tâm. Quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA vẫn còn


nhiều bất cập. Do đó, một câu hỏi được đặt ra là Việt Nam có thể thu hút được nhiều
hơn và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn ODA không? Điều này là có thể. Vậy phải
cần có những giải pháp nào để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ODA? Chính
vì để trả lời câu hỏi trên và nghiên cứu sâu thêm về ODA mà em đã chọn đề tài:
“Chính sách đầu tư đối với nguồn vốn ODA ở Việt Nam” để thực hiện chuyên đề
tự chọn của mình, với kinh nghiệm thực tế, kiến thức chun mơn cịn hạn chế, nội
dung Tiểu luận này không tránh khỏi những sai xót rất mong nhận được sự đóng
góp và hướng dẫn của các thầy cô trong Viện Kinh tế để em hoàn thành tốt hơn nữa
và ứng dụng vào trong thực tiễn sau này.. Em xin trân thành cảm ơn.


I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ODA
1. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ khơng hồn lại
và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ,
các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ
chức tài chính quốc té (IMF, ADB, WB...) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA
được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ
khơng hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của
OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho khơng phải đạt 25% trở lên), về
thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do
vậy
ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngồi.
*) ODA có các hình thức sau
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ.
Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng
hoặc vận chuyển hàng hố vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh tốn
hoặc có thể chuyển hố thành hỗ trợ ngân sách.
- Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả
dài) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hố có ràng buộc.

- Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt
được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho
một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một cách chính
xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
- Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thơng thường, các dự
án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia
nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định, nào đó hoặc để soạn thảo, xác
nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
- Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường
cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư.


Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao cơng nghệ như thường lệ nhưng quan
trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại,
hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội.
2. Phân loại ODA
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODA được xem có mấy loại:

2.1. Phân theo phương thức hồn trả: ODA có 3 loại
- Viện trợ khơng hồn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận
khơng phải hồn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả
thuận trước giữa các bên. Viện trợ khơng hồn lại thường được thực hiện dưới các
dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật.
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
- Viện trợ có hồn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ
theo một quy mơ và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ
thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).

+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm).
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm).
- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA khơng
hồn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác
kinh tế và phát triển.
2.2. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp: ODA có hai loại
- ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước
kia thơng qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF,
WB...) hay tổ chức khu vực (ADB, EU...) hoặc của một Chính phủ của một nước
dành cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thơng qua
các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc),
UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc) ... có thể khơng.


Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
2.3. Phân loại theo mục tiêu sử dụng: ODA có 4 loại
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân
sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực
tiếp cho nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hố).
- Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hố nhưng có kèm theo
điều kiện ràng buộc.
- Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện
trợ kế hiệp định cho một mục đích tổng qt mà khơng cần xác định tính chính xác
khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
- Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều
kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ

sử dụng ODA".
3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu

*) Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3
nguồn ODA chủ yếu:
- Liên xô cũ, Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
*) Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa
phương, và các tổ chức viện trợ song phương.
*) Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
+ Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP).
+ Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
+ Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO)
+ Chương trĩnh lương thực thế giới (WFP)
+ Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)


+ Tổ chức y tế thế giới (WHO)
+ Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO)
+ Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).
- Các tổ chức tài chính quốc tế:
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)
+ Ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
- Liên minh Châu Âu (EU).
- Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
- Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC)
- Quĩ Cô-Oét.

*) Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD).
- Các nước đang phát triển.
4. Quy trình thực hiện dự án ODA

Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều hành
nguồn vốn này. Dưới đây là một số nội dung về quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn
ODA.
4.1. Quy hoạch ODA

Bộ kế hoạch - Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; quy
hoạch tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ, các cơ quan
ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để nghiên cứu chủ trương và
phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy hoạch ODA và lập các danh mục
chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODA trình Chính phủ phê duyệt.
4.2. Vận động ODA
Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên sử
dụng ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với các cơ
quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA thông qua:


- Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm.
- Các hội nghị điều phối viện trợ ngành.
- Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát ừiển với các nhà tài trợ.
Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan cần phải
trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng và thế mạnh của
các nhà tài trợ liên quan.
4.3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA

Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các chương
trình, dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối tác tiến hành
chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA bao gồm lập đề án, lập báo cáo tiền
khả thi, báo cáo khả thi...
4.4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA
Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của Điều lệ
quản lý xây dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các văn bản hướng
dẫn thuộc lĩnh vực này).
- Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế... Bộ Kế
hoạch - Đầu tư chủ trì, phối họp với các cơ quan chức năng có liên quan tiến hành
thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trong q trình thẩm định có đề
cập tới ý kiến tham gia của các bên cung cấp ODA.
- Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số
80/CT ngày 28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính
phủ).
4.5. Đàm phán ký kết

Sau khi nội dung đàm phán với bên nước ngồi được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phịng Chính phủ,
Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên
quan tiến hành đàm phán với bên nước ngồi.
Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủ trì
đàm phán với các bên nước ngồi thì cơ quan này phải thống nhất ý kiến với Bộ Kế


hoạch - Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài chính về hạn mức và điều kiện
vay trả (nếu là ODA hoàn lại).
Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thoả thuận với bên nước ngồi thì cơ
quan chủ tri đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về nội dung làm việc, kết

quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan.
Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định
hoặc văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ tướng Chính phủ
chỉ định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung văn bản dự định ký
kết và các đề xuất người thay mặt Chính phủ ký các văn bản đó. Văn bản trình Thủ
tướng Chính phủ phải kèm theo ý kiến chính thức bằng văn bản của Bộ Ke hoạch và
Đầu tư (trường hợp cơ quan khác trình Thủ tướng Chính phủ), Bộ ngoại giao, Bộ
Tư pháp, Bộ Tài chính.
Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định, hoặc các văn bản khác về
ODA yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà nước Cơng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Bộ Kế hoạch - Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ chỉ định đàm phán)
phải báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt đầu đàm phán với bên
nước ngoài về nội dung các văn kiện dự định ký kết, đồng thời thực hiện các thủ tục
Quy định tại điều 6 khoản 3, điều 7 và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày
28/5/1992 của Chính phủ.
4.6. Quản lý thực hiện
Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối họp cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân sách nhà nước
và thực hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước Quốc tế về ODA đã ký và
các quyết định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn ODA. Đồng thời
có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện, xử lý những vấn đề liên quan
thuộc thẩm quyền trong quá trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem
xét và quyết định các biện pháp xử lý, báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các
chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.


Bộ Tài chính được xác định là đại diện chính thức cho "người vay" hoặc là
Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều
ước quốc tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên
quan xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp phát, cho vay lại, thu hồi vốn...) đối với

các chương trình, dự án ODA.
Trong quá trình thực hiện, Ngân hàng nhà nước có ừách nhiệm phối hợp
với Bộ tài chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ quyền thực hiện việc
cho vay lại từ vốn ODA như đã nêu tại điểm điều khoản 3 điều 14 của Quy chế về
quản lý và sử dụng ODA ban hành kèm theo Nghị định 87/CP ngày 5/8/1997 của
Chính phủ, thu hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng thời tổng hợp theo định kỳ thơng báo
cho Bộ Tài chính và cơ quan liên quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh tốn...
thơng qua hệ thống tài khoản được mở tại ngân hàng của các chương trình, dự án sử
dụng vốn ODA.
Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA... tùy theo quy định và
thoả thuận với bên nước ngoài, các chủ trương, dự án chịu trách nhiệm tổ chức các
cuộc kiểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện của Bộ Kế - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, văn phịng Chính phủ là đại diện của
Chính phủ tại các cuộc kiểm điểm này.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương
và các chủ chương trình, dự án lập báo cáo 6 tháng và hàng năm về tình hình thực
hiện các chương trình và dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao và Văn phịng Chính phủ.
4.7. Đánh giá:
Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo về
tình hình thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác nhận của cơ
quan chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Văn phịng Chính phủ.


II. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA
1. Đặc điểm của ODA
Có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đối với các nước
đang và kém phát triển (Vốn ODA có thời gian cho vay (hồn trả vốn dài), có thời
gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là

40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ
dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển.
Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể
nhận được ODA là: Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội(GDP) bình quân
đầu người thấp. Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này
phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp và bên nhận ODA).
- Thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định (ODA có thể ràng buộc
(hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu.
Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều
khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn
ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật).
- Có khả năng gây nợ (Một số nước do khơng sử dụng hiệu quả ODA có thể
tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vịng nợ nần
do khơng có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA khơng có khả năng đầu tư
trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất
khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối
hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.)
2. Vai trò của ODA
Tất cả các quốc gia khi thực hiện Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đều cần
đến một lượng vốn đầu tư rất lớn và đây là thách thức đối với các nước đang phát
triển. Với nội lực cịn hạn chế thì vốn trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu
về vốn đầu tư, do đó việc huy động vốn từ nước ngồi trở nên tất yếu. Đặc biệt,


nguồn ODA tập trung đầu tư cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát
triển là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự thiếu vốn. Tại Việt Nam, khoảng
80% lượng vốn ODA được dành cho đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, số vốn này
chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho cơ sở hạ tầng.
- Tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến và phát triển

nguồn nhân lực. Thơng qua hình thức viện trợ kèm theo ràng buộc phải sử dụng
dịch vụ hay hàng hố của nhà tài trợ, nước nhận đầu tư có cơ hội được tiếp cận với
những công nghệ sản xuất hay quản lý tiên tiến. Nhận thấy vai trò then chốt của
phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế của một quốc gia nên các nhà tài
trợ rất chú trọng ưu tiên cho lĩnh vực này. Đào tạo nguồn nhân lực có thể được thực
hiện ở trong và ngoài nước nhận đầu tư. Đặc biệt, các nhà tài trợ thường quan tâm
đến việc đào tạo cho nhóm nhân sự tham gia vào quản lý nhà nước nhằm nâng cao
năng

lực

quản lý cho họ. Đầu tư cho nguồn nhân lực mang lại hiệu quả lâu dài trong
quá trình phát triển.
- Góp phần thu hút FDI và các nguồn vốn đầu tư khác. Đối với các nước
đang phát triển thì nguồn vốn ODA được sử dụng chủ yếu vào các lĩnh vực xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Đây là lĩnh vực có nhu cầu vốn đầu tư lớn
song khả năng sinh lời lại thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài. Với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ
quan tâm đến những nước có mơi trường đầu tư thuận lợi nhằm giảm chi phí. Vì
vậy, cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, mơi trường chính sách khơng thơng thống,
khơng ổn định sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư.
Một quốc gia đang phát triển nhận được nhiều và sử dụng có hiệu quả vốn
ODA đồng nghĩa với việc xây dựng được môi trường đầu tư thuận lợi và sẽ tạo điều
kiện cho các nguồn vốn khác như vốn FDI và vốn đầu tư trong nước phát huy hiệu
quả.


III. THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), cơng bố tại
buổi họp báo chun đề về chính sách vay lại vốn ODA do Bộ Tài chính tổ chức,

ngày 22/3/2016, trong giai đoạn 2005 - 2015, tổng số vốn ODA, vay ưu đãi được ký
kết khoảng 45 tỷ USD. Trong đó, 1/3 cho ngân sách Trung ương để cấp phát cho các
chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương; 1/3 dành cho
các chương trình, dự án của địa phương và chỉ có 1/3 để cho vay lại các dự án trọng
điểm của nhà nước. Trong 15 tỷ USD dành cho chương trình, dự án của địa phương,
tỷ trọng vốn cấp phát chiếm đến 92,2%; cho vay lại chỉ chiếm 7,8%. Đối với phần
vốn để cho vay lại các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước, cho đến nay, hầu hết
Chính phủ vẫn chịu tồn bộ các rủi ro tín dụng.
Trước năm 2010, Việt Nam vẫn là nước có thu nhập thấp, nên các khoản
vay thường ưu đãi nước ngồi có kỳ hạn dài. Tuy nhiên, từ đó tới nay, do Việt Nạm
trở thành nước thu nhập trung bình, nên nguồn vốn ưu đãi cũng giảm dần. Nếu như
giai đoạn trước năm 2010, thời hạn vay bình quân khoảng từ 30-40 năm, với chi phí
vay khoảng 0,7-0,8%/năm, bao gồm thời gian ân hạn thì trong giai đoạn 2011-2015,
thời hạn vay bình quân chỉ còn từ 10-25 năm, tùy theo từng đối tác và từng loại vay;
với chi phí vay khoảng 2%/năm trở lên. Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn
ODA sang nguồn vốn vay hỗn họp, vừa yốn tài trợ vừa vốn thương mại kèm theo
nhiều điều kiện ràng buộc khác. Đặc biệt, dự kiến đến tháng 7/2017, Ngân hàng Thế
giới sẽ tuyên bố chấm dứt ODA với Việt Nam, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng
nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Trong đó, nguồn vốn
ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ
2% - 3,5%.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của các Bộ, ngành và địa phương, tổng nhu cầu
huy động và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2016-2020 lên tới khoảng
39,5 tỷ USD. Căn cứ vào tiến độ thực hiện các chương trình và dự án đã ký kết,
tổng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi dự kiến giải ngân thời kỳ 2016 -2020 đạt


khoảng 25-30 tỷ USD, bình quân năm đạt 5 - 6 tỷ USD, tăng 14% so với thời kỳ
2011 - 2015 và chiếm khoảng 55% - 66% vốn đầu tư phát triển huy động từ bên
ngồi. Bên cạnh đó, tổng số vốn ODA và vốn vay ưu đãi chưa giải ngân của các

chương trình, dự án đã ký kết chuyển tiếp từ thời kỳ 2011 - 2015 sang thời kỳ 2016
- 2020 còn khá lớn, khoảng gần 22 tỷ USD.
1. Nhu cầu vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam
Đất nước ta đang thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đề ra tại
đại hội Đảng lần thứ VIII với mục tiêu tăng mức thu nhập bình quân đầu người lên
mức 1500 USD vào năm 2020 tức là tăng gấp 7 lần so với mức năm 1995. Để thực
hiện được mục tiêu này mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm phải là 8%/năm.
về mặt lý thuyết, muốn đạt được mức tăng trưởng này vốn đầu tư phải tăng ít nhất là
20%/năm cho đến năm 2015 tức là mức đầu tư cho năm 2000 phải gấp 2,5 lần năm
1995, cho năm 2005 phải gấp 6,2 lần tức là giai đoạn 2001- 2005 vào khoảng 60 tỷ
USD. Trong đó vốn ODA khoảng 9 tỷ USD. Theo “Danh mục dự án đầu tư ưu
tiên vận động vốn ODA thời kì 2001- 2005”, chính phủ đã đưa ra hàng
trăm dự án trong từng lĩnh vực như sau:
Về năng lượng, có 9 dự án với tổng vốn ODA dự kiến trên 1,2 tỷ USD
trong đó lớn nhất là dự án thuỷ điện Đại Thi ở Tuyên Quang (360 triệu), nhà máy
nhiệt điện cẩm Phả (272 triệu), nhà máy thuỷ điện thượng Kon tum (l00triệuUSD).
Trong lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ có 33 dự án với trên 1,8 tỷ
USD. về cầu có 7 dự án với trên 150 triệu USD, lớn nhất là dự án cải tạo cầu Long
Biên (72 triệu USD), về đường biển có 10 dự án với số vốn 600 triệu USD lớn nhất
là xây dựng cảng tổng hợp Thị Vải (170 triệu USD). Đuờng sông có 4 dự án với
hơn 450 triệu USD lớn nhất là cải tạo giao thông thuỷ, kè chỉnh sửa Sông Hồng khu
vực Hà Nội (255 triệu USD). Đường sắt có 5 dự án với khoảng 1,4 tỷ USD trong đó
riêng riêng xây dựng 2 tuyến đường sắt trên cao Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội với
tổng
vốn 1,13 tỷ USD. Cấp nước và vệ sinh đơ thị có 50 dự án với trên 1 tỷ USD.

số


Về nơng nghiệp có 33 dự án cần triển khai từ nay đến 2005 với tổng

vốn ODA khoảng 700 triệu USD, trong đó có những dự án lớn như: Chương trình di
dân và kinh tế mới (300 triệu USD), Phát triển dâu tằm tơ (120 triệu USD). Thuỷ lợi
có 41 dự án với khoảng 1,5 tỷ USD, trong đó dự án quy mô lớn nhất là Thuỷ lợi
Cửa Đạt ở Thanh Hoá (200 triệu USD), Thuỷ lợi Tả Trạch ở Thừa Thiên Huế (170
triệu USD). Lâm Nghiệp có 15 dự án và khoảng trên 10 triệu USD, Thuỷ Sản có 15
dự án và khoảng 600 triệu USD. Giáo Dục - Đào tạo có 24 dự án với 400 triệu
USD, lớn nhất là trang bị Đại học Quốc Gia Hà Nội (75 triệu USD).
Lĩnh vực Y tế - xã hội có 42 dự án với khoảng 1 tỷ USD. Văn hoá thơng
tin có 11 dự án với khoảng 300 triệu USD lớn nhất là tháp truyền hình Hà Nội (135
triệu USD). Lĩnh vực khoa học - công nghệ - môi trường có 35 dự án với trên 1,5 tỷ
USD, lớn nhất là khu cơng nghệ cao Hồ Lạc (480 triệu USD). Trong Bưu chính
viễn thơng có 5 dự án với khoảng 450 triệu USD, lớn nhất là cáp quang biển trục
Bắc Nam (200 triệu USD). Ngồi ra cịn có hàng chục dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các
ngành, lĩnh vực với mức vốn bình quân mỗi dự án dưới 10 triệu USD.
Trên đây mới chỉ là số vốn cần thiết hỗ trợ từ chính phủ các nước và các tổ
chức quốc tế mà chưa kể số vốn đối ứng không nhỏ trong nước. Những dự án trên
liệu có được thực hiện hay khơng? Câu trả lời chính là từ chúng ta. Thực hiện được
điều này thể hiện khả năng về khai thác, phối hợp các nguồn lực của chúng ta và
điều quan trọng là giúp chúng ta thực hiện được những mục tiêu đề ra.
2. Quá trình giải ngân vốn ODA tại Việt Nam
Những năm qua, mặc dù Việt Nam được nhận viện trợ rất lớn tuy nhiên
những thực trạng giải ngân vốn ODA lại có dấu hiệu giảm dần. Chẳng hạn, theo số
liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn ODA giải ngân sau hai năm 2013 - 2014 đạt
mức kỷ lục, tương ứng trên 5,1 tỷ USD và 5,65 tỷ USD, đã giảm xuống chỉ còn 2,7
tỷ USD vào cuối quý 2/2016 và 2,1 tỷ USD vào cuối quý 2 /2017. Đây là minh
chứng cho thấy tốc độ giải ngân nguồn vốn này đang giảm. Trong khi nước ta sắp
bước qua giai đoạn “thu nhập trung bình” vì thế từ 01/7/2017, Worldbank sẽ ngừng
cung cấp viện trợ từ nguồn IDA (nguồn vốn ODA ưu đãi nhất của WB) cho Việt



Nam và từ 01/01/2019, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) chính thức khơng hỗ
trợ Việt Nam bằng nguồn ODA ưu đãi nhất là ADF. Các nhà tài trợ song phương
khác như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang giảm dần mức ưu đãi cho Việt Nam. Như
vậy, Việt Nam sẽ phải vay với thời gian vay ngắn hơn, lãi suất cao hơn và xuất hiện
một số loại phí như phí cam kết. Do vậy, việc giải ngân chậm ảnh hưởng lớn tới chi
phí bỏ ra. Theo thơng tin ADB cơng bố, nếu chậm thực hiện dự án sẽ làm tăng chi
phí 17,6% mỗi năm, trong đó có 6,5% do lạm phát đối với hạng mục chính và
11,1% chi phí do lợi ích của dự án bị mất đi, tính trung bình nếu chậm trễ 2-3 năm
sẽ làm tăng chi phí lên 50%. Gần đây nhất là dự án Metro Bến Thành - Suối Tiên tại
Tp HCM, từ quy mô vốn 17 ngàn tỷ đồng đã đội lên thành 47 ngàn tỷ đồng. Có
nhiều lý do để “ bao biện” cho sự lãng phí này, tuy nhiên nguyên nhân chính vẫn là
quá

trình

sử

dụng

vốn.

Thực tế quá trình sử dụng nguồn vốn ODA đã phát sinh nhiều bất cập,
nhiều lỗ hỏng gây thất thoát, lãng phí, tham nhũng đã ảnh hưởng đến chất
lượng cơng trình, làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam. Điều này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân như: công tác chuẩn bị danh mục, pháp lý, quá
Trình thẩm định, phê duyệt, kiểm soát chưa hiệu quả, tư duy và trách nhiệm
chưa tốt,...đã ảnh hưởng đến quá trình giải ngân cũng như hiệu quả từng
đồng vốn.
IV. THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM.

- Hồn thiện mơi trường pháp lý và cơ chế chính sách: Kể từ năm 1993 đến
nay, Chính phủ đã khơng ngừng hồn thiện khung pháp lý cho việc quản lý và sử
dụng nguồn vốn ODA. Song vẫn còn tồn tại những vấn đề như thiếu một số hướng
dẫn thực thi các văn bản cụ thể, họăc chưa có những nghị định phù hợp về quản lý
tài chính, hoặc cong những khác biệt giữa quy định của chính phủ với quy định của
nhà tài trợ…Do đó, trong thời gian tới chính phủ cần xúc tiến rà sốt lại hệ thống
các văn bản Pháp quy có liên quan đến quản lý vốn ODA nhằm bổ sụng những quy


phạm mới mà thực tế đòi hỏi, đồng thời chỉnh sửa những bất cập trong các văn bản
đã ban hành. Cần sớm ban hành nghị định mới về tái định cư và giải phóng mặt
bằng nhằm giải quyết cơ bản những vấn đề vướng mắc này.
Chính phủ cần tiếp tục làm hài hòa thủ tục tiếp nhận và thực hiện chương
trình, dự án ODA giữa Vịêt Nam và các nhà tài trợ thơng qua việc hài hịa khn
khổ thể chế, pháp lý và tổ chức hội nghị liên quan đến việc quản lý, sử dụng ODA
để xác định và tháo gỡ những vấn đề vướng mắc trong quá trình tổ chức, thực hiện
chương trình dự án. Để khn khổ pháp lý về ODA có tính ổn định cao và có khả
năng điều chỉnh tốt đối với hoạt động quản lý và sử dụng ODA cần quán triệt một số
yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải thiết lập được chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của
người ra quyết định đầu tư. Các chế tài này phải rõ ràng cụ thể tới mức: Người
quyết định đầu tư sai, gây lãng phí, thất thoát phải bị xử lý ở các mức độ khác nhau
tùy theo mức độ sai phạm, có thể xử phạt hành chính, có thể bị cách chức hoặc miễn
nhiệm; Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả , chất lượng dự án,
chấm dứt tình trạng giao cho người không đủ điều kịên năng lực chuyên môn
nghiệp vụ thực hiện quản lý dự án; Sắp xếp lại các ban quản lý dự án theo đúng tiêu
chí và tiêu chuẩn phù hợp; Chủ đầu tư phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát
thường xuyên các ban quản lý dự án, phát hiện kịp thời những vấn đề phát sinh và
đề xuất các biện pháp xử lý.
Thứ hai phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan hữu trách trong việc ra

quyết định quản lý vốn ODA, nên lựa chọn một cơ quan chịu trách nhiệm hoàn toàn
từ khâu chuẩn bị dự án đến khâu thực hiện, vận hành và khai thác dự án. Nên thành
lập tổ chức liên ngành làm nhiệm vụ tổng hợp, phân tích thơng tin, đánh giá tình
hình trong mối quan hệ với các chỉ tiêu vĩ mô như: dư nợ quốc gia, dư nợ chính
phủ, tốc độ tăng sản phẩm trong nước, kim ngạch xuất khẩu, cán cân thanh toán, bội
chi ngân sách nhà nước. Tập trung công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA vào
một đầu mối theo hướng hình thành một cơ quan quản lý nợ cơng, trong đó chủ yếu
là ODA. Cần khắc phục tình trạng yếu kém trong công tác điều phối và chia sẻ


thông tin giữa các bộ, cũng như Trung ương và địa phương. Điều đó sẽ ảnh hưởng
tới tất cả các công đoạn phối hợp và triển khai ODA: từ khâu xây dựng các cơng
trình quốc gia mang tính chất liên ngành, liên đới cao cho đến việc quản lý ở cấp cơ
sở như vấn đề giải phóng mặt bằng, tái định cư…
- Hồn thiện cơ chế và mơ hình quản lý phù hợp; quản lý chặt chẽ các dự án
chống thất thốt lãng phí: cần cai tiến cơ chế quan lý theo hướng sau:
Một là, tạo lập một cơ chế quản lý sao cho ban quản lý dự án phải chịu trách
nhiệm toàn diện về dự án từ khâu chuẩn bị cho tới khâu thực hiện, nghịêm thu và
vận hành dự án trước chủ đầu tư và đối tượng thụ hưởng. Xác định rõ ràng tính
pháp lý của ban quản lý dự án theo hướng đảm bảo tính chuyên nghịêp, tăng cường
tính minh bạch, chống khép kín và tự chịu trách nhiệm.
Hai là, chủ đầu tư với tư cách là người đại diện pháp nhân của Nhà nước
trong việc sử dụng nguồn vốn, phải chịu trách nhiệm cụ thể trước Nhà nước về cơng
trình của mình cả về tiến độ cũng như chất lượng. Đồng thời quy định rõ trách
nhiệm của người đứng đầu ra quyết định. Từ đó buộc chủ đầu tư phải lựa chọn ban
quản lý dự án thực sự có chất lượng phù hợp với yêu cầu cơng việc, tránh tình trạng
khép kín trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Ba là, xây dựng quy chế làm việc của ban quan lý dự án một cách chặt
chẽ, có chính sách đãi ngộ, có kinh phí hoạt động rõ ràng, minh bạch. Đồng thời, có
chế độ thưởng, phạt nghiêm minh: khi cơng trình khơng bị thất thốt, đạt yêu cầu

chất lượng, đúng tiến độ thì chủ đầu tư có chế độ khen thưởng. Ngược lại, qua thanh
tra, kiểm tra, nếu công chức hoặc cán bộ ban quản lý dự án có sai phạm thì cần xử
lý kỷ luật nghiệm khắc, trong đó ngưới lãnh đạo cũng phải chịu trách nhiệm liên
đới.
Chuẩn bị cẩn thận, chi tiết các khâu chuẩn bị dự án để đảm bảo thuận lợi
trong quá trình thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng: Để đảm bảo tiến độ thực hiện
cũng như đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án thì cơng tác quy hoạch chuẩn
bị dự án trong thời gian tới cần được chú trọng hơn, trong đó cần nhấn mạnh hơn tới
các khía cạnh sau:


Thứ nhất, phân bổ ngân sách chưa phù hợp cũng là một trong những cản
trở công tác chuẩn bị dự án ở giai đoạn đầu. Do đó cần chuẩn bị đủ ngân sách để
đảm bảo hiệu quả của khâu công tác này.
Thứ hai, phải có phương án giải quyết vấn đề tái định cư ngay trong giai
đoạn đầu chuẩn bị dự án. Việc chậm trễ trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng chủ
yếu là do khâu giải phóng mặt bằng tái định cư. Phải tính đến lợi ích hợp pháp của
người dân trong khu vực giải tỏa, không những về tái định cư mà cả giải quyết việc
làm cho người dân bị mất đất canh tác, mất nhà, địa điểm kinh doanh.
Thứ ba, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các nhà tài trợ trong
khâu chuẩn bị dự an. Do quá trình chuẩn bị dự án của các nhà tài trợ rất khác với
phía Việt Nam, nên phải đảm bảo hài hòa để giảm nhẹ gánh nặng cho Chính phủ.
Việc chia sẻ thơng tin, tham khảo ý kiến của các cơ quan đối tác, sự phối hợp chủ
động, tích cực giữa các nhà tài trợ và Chính phủ cũng như chiến lược phát triển
ngành đã được các bên chia sẻ dưới sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ là rất quan
trọng.
- Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ chuyên môn
cho đội ngũ cán bộ làm việc trong các dự án: Để có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn
viện trợ phát triển của Nhật Bản tại Việt Nam, một nhân tố quan trọng thứ yếu đó là
trình độ nhân lực trong nhiều lĩnh vực liên quan như kiến trúc, kỹ sư, quản lý, vận

hành. Vì vậy cần lưu tâm đặc biệt đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các dự
án đầu tư ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng. Đề cử chuyên gia trong các
lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn như công nghệ thông tin, quản lý môi trường, nghiên
cứu các loại giống cây trồng trong lĩnh vực nông nghiệp và nâng cao hiệu quả quản
lý trong nhiều ngành kinh tế.
Tổ chức các khóa đào tạo cho các cán bộ Việt Nam tại Nhật Bản nhằm
phục vụ cho cơng tác chun mơn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
của Việt Nam.


Đào tạo trong nước các trường đại học và đào tạo nước ngồi theo các
chương trình hợp tác quốc tế, các chun gia quốc tế có trình độ chun mơn cao để
có thể tiếp thu, ứng dụng cơng nghệ cao, tiên tiến một cách hiệu quả.
Đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo các nhà quản lý giỏi. Thuê
các chuyên gia, kỹ sư nước ngoài hay từ Nhật Bản làm việc ngay tại dự án ODA
Nhật Bản triển khai ở Việt Nam để có thể học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao cơng
nghệ ở những dự án có trình độ cơng nghệ cao.
Có chính sách phù hợp để giải quyết mối liên quan giữa đào tạo, sử dụng
và đãi ngộ, giữa đào tạo và đào tạo nâng cao.
Có chính sách thu hút đội ngũ cán bộ, quản lý có trình độ, tránh tình trạng chảy
máu chất xám sau khi được đào tạo ở nước ngoài.
V. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA Ở VIỆT NAM.
1. Định hướng thực hiện nguồn vốn ODA ở Viêt Nam.
Thực hiện đối với giai đoạn 2018 - 2020, tập trung xử lý các vướng mắc,
thúc đẩy giải ngân và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đã được ký kết; tiếp tục lựa chọn
và chuẩn bị các dự án đầu tư công tốt (dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội, tài chính),
sẽ giải ngân sau 2020 để đảm bảo sự liên tục, không bị sụt giảm đột ngột vốn đầu tư
phát triển giai đoạn sau 2020. Tuy nhiên cần phải sàng lọc, lựa chọn các dự án tốt,
hiệu quả để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đồng thời đảm bảo không vượt trần

bội chi ngân sách và các chỉ tiêu an tồn nợ cơng do Quốc hội phê duyệt.
Tập trung sử dụng vốn vay vào một số lĩnh vực chủ chốt, các cơng trình
trọng điểm thực sự quan trọng, có tác dụng lan tỏa rộng, có tính chất kết nối liên
vùng, tạo động lực phát triển vùng, miền và cần thẩm định, đánh giá dự án một cách
chặt chẽ, khách quan, minh bạch để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn vay nước
ngoài.
Chỉ sử dụng vốn vay nước ngoài cho các lĩnh vực/dự án mà vốn đầu tư
công trong nước chưa đáp ứng được, khu vực tư nhân khơng có động lực để đầu tư


do khơng có lợi nhuận hoặc một số lĩnh vực đặc thù cần Nhà nước đầu tư để kiểm
soát và quản lý giá nhằm tạo thuận lợi phát triển các ngành kinh tế khác như cảng
sơng, cảng biển... Khuyến khích tư nhân tham gia cùng nhà nước đầu tư giải quyết
các điểm nghẽn về cơ sở hạ tầng.
Nghiên cứu áp dụng cơ chế để doanh nghiệp vay nguồn vốn của WB,
ADB và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ khác khơng cần bảo lãnh của
Chính phủ để triển khai các chương trình, dự án lĩnh vực năng lượng tái tạo, ứng
phó biến đổi khí hậu.
Vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không
sử dụng cho chi thường xuyên.
2. Tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ODA
Để giải quyết những vấn đề đang đặt ra hiện nay đối với việc quản lý, sử
dụng các khoản vay nước ngồi theo Bộ Tài chính, Nhà nước nên tập trung nguồn
vốn ODA vào những lĩnh, vực then chốt, các dự án cơng trình trọng điểm, thu hẹp
phạm vi cấp phát từ ngân sách nhà nước và giảm tính bao cấp của Nhà nước trong
cơ chế sử dụng vốn vay nước ngồi. Đồng thời, phải tăng tính cơng khai minh bạch
trong quản lý, sử dụng nguồn vốn vay cơng; tăng tính trách nhiệm của tất cả các chủ
thể liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn vay...
Bên cạnh đó, gần đây, Chính phủ cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo được
kỳ vọng sẽ giúp quản lý và sử dụng vốn ODA hiệu quả. Cụ thể, ngày 14/2/2015,

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 02/CT-TTg, trong đó có nội dung tăng
cường cho vay lại chính quyền địa phương và cho vay lại chịu rủi ro tín dụng thông
qua cơ quan cho vay lại đối với nguồn vốn vay nước ngồi của Chính phủ. Đối với
cho vay lại chính quyền địa phương, tỷ lệ cho vay lại được xác định theo điều kiện
của nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi. Ngày 17/2/2016, Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và
vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016 - 2020”. Theo đó, Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA và vốn vay ưu đãi trên cơ sở phân cấp
gắn với trách nhiệm, quyền hạn, năng lực quản lý và tính chủ động của các ngành,


các cấp; bảo đảm sự phối họp quản lý, kiểm tra và giám sát chặt chẽ của các cơ
quan liên quan. Việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi
phải được xem xét, cân đối và lựa chọn trong tổng thể các nguồn vốn đầu tư phát
triển, phải bám sát các mục tiêu của chiến lược nợ cơng và nợ nước ngồi của quốc
gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, Kế hoạch đầu tư công trung hạn và Kế hoạch tài chính trung hạn 5 năm 2016
2020, đảm bảo các chỉ số nợ cơng, nợ chính phủ và mức bội chi ngân sách
nhà nước trong giới hạn cho phép...
Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu tăng cường kiểm tra,
giám sát và đánh giá việc sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi, bảo đảm hiệu quả
đầu tư, chất lượng cơng trình và theo đúng quy định của pháp luật; chủ động ngăn
ngừa và xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16/3/2016 quy định về quản lý và sử dụng
vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thay thế Nghị định số
38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 của Chính phủ theo hướng chặt chẽ. Theo đó, kể từ
ngày 02/5/2016, các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi gồm:
Hỗ trợ thực hiện chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Hỗ trợ nghiên
cứu xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường thể chế quản lý
nhà nước; Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực; Nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ; Hỗ trợ bảo vệ mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng

xanh; Sử dụng làm nguồn vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo
hình thức đối tác công tư (PPP); Lĩnh vực ưu tiên khác theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư đối với:
(1) Các chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi;
(2) Chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA viện trợ không hồn
lại
trong các trường hợp sau: Chương trình, dự án đầu tư nhóm A và nhóm B;


chương trình, dự án, phi dự án kèm theo khung chính sách; chương trình, dự án, phi
dự án trong lĩnh vực an ninh, quốc phịng, tơn giáo; chương trình, tiếp cận theo
ngành; dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị chương trình, dự án vốn vay ODA, vốn vay
ưu đãi; dự án hỗ trợ kỹ thuật có quy mơ vốn tài trợ tương đương từ 2 triệu USD trở
lên; viện trợ mua sắm các loại hàng hóa thuộc diện phải được Thủ tướng Chính phủ
cho phép; sự tham gia của Việt Nam vào chương trình, dự án khu vực;
(3) Hỗ trợ ngân sách: Trong khi đó, đối với các chương trình, dự án, phi
dự án khơng thuộc quy định trên thì người đứng đầu cơ quan chủ quản quyết định
chủ trương đầu tư.
Nghị định số 16/2016/NĐ-CP cũng quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục
đề xuất và lựa chọn Đề xuất chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi.
Theo đó, chương trình, dự án được đề xuất sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi phải
đảm bảo tiêu chí: phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt; chính sách, định hướng ưu tiên cung cấp vốn ODA, vốn vay ưu đãi của
nhà tài trợ nước ngoài; bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường và phát triển
bền vững; bảo đảm tính bền vững về kinh tế; phù hợp với khả năng cân đối vốn
ODA, vốn vay ưu đãi, vốn đối ứng; phù hơp với khả năng trả nợ cơng, nợ Chính
phủ và nợ chính quyền địa phương (đối với chương trình, dự án sử dụng vốn vay
ODA, vốn vay ưu đãi); khơng trùng lặp với chương trình, dự án đã có quyết định
chủ trương đầu tư hoặc đã có quyết định đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì,

phối hợp với Bộ Tài chính, các cơ quan có liên quan lựa chọn Đề xuất chương trình,
dự án phù hợp theo tiêu chí trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định...

KẾT LUẬN
Như vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngồi nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) nói riêng có tác dụng rất lớn đến quá trình phát triển kinh


tế- xã hội của Việt Nam. Đặc biệt khi đất nước càng phát triển thì nguồn vốn ODA
này sẽ giảm, việc vận động ODA nhìn chung sẽ ngày càng khó khăn. Để có thể vận
động được lượng ODA cần thiết thì cần địi hỏi sự nỗ lực của tất cả các ban ngành
liên quan, trước mắt thì phải nâng cao hiêu quả sử dụng nguồn vốn quý báu này.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA không những là tiền đề cho cơng tác
vận động ODA mà nó cịn là đóng góp một phần quan trọng cho sự phát triển chung
của nền kinh tế. Phát huy những thành tựu đạt được trong những năm vừa qua, với
đội ngũ nguồn nhân lực ngày càng được nâng, chúng tôi tin rằng nền kinh tế Việt
Nam sẽ đạt được mục tiêu đề ra và vươn tới những tầm cao mới trong tương lai.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình quan hệ quốc tế, Đại học luật Hà Nội.
2. Giáo trình kinh tế quốc tế, Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội.
3. Giáo trình quản lý Nhà nước về đầu tư, hệ đào tạo Cao học Quản lý kinh tế, Viện

kinh tế, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam; THE WORLD BANK.
5. Một số bài báo, tạp chí.
6. Một số trang Web
- www.vi.wikipcdia.org
- www.vneconomy.vn

- www.mof.gov.vn
- www.vnexpress.com
- www.tailieu.vn
- www.google.com.vn
- Cổng thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư
7. Tạp chí phát triển kinh tế
8. Thời báo kinh tế Việt Nam


MỤC LỤC
T
rang


×