Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.9 KB, 30 trang )

LUẬN VĂN:

Vai trò và giải pháp phát
triển kinh tế tư nhân ở việt
nam hiện nay


LỜI MỞ ĐẦU

Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay,đặc biệt là vấn đề hội nhập nền kinh tế thế
giới đó và đang đặt ra những cơ hội cũng như những thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam.Việt Nam đó và đang có những bước tiến vững chắc trong việc phát triển
nền kinh tế thị trường địng hướng xó hội chủ nghĩa,hội nhập cựng thế giới bằng việc
phỏt huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngồi thơng qua việc phát
huy sức mạnh của các thành phần kinh tế.Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan
trọng của thành phần kinh tế tư nhân trong việc phát triển nền kinh tế.
Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khóa IX khẳng định: “kinh tế tư
nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Phát triển kinh
tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xó hội chủ nghĩa”.
Vậy trong việc phát triển kinh tế Việt Nam thành phần kinh tế tư nhân đó cú
vai trũ như thế nào? Hay tại sao Việt Nam lại phải phát triển kinh tế tư nhân trong
khi chúng ta mn hướng tới một xó hội xó hội chủ nghĩa nơi sở hữu tư liệu sản xuất
là của tập thể.Việc xác định đúng vai trũ của kinh tế tư nhân và con đường đúng đắn
cho sự phát triển của thành phần kinh tế này là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi vỡ
hiện nay toàn cầu húa là một xu thế phỏt triển tất yếu trong tiến trỡnh phỏt triển của
nhõn loại, chỳng ta khụng muốn bị cuốn vào vũng xoỏy dú một cỏch thụ động thỡ
chỳng ta phải biết phỏt huy sức mạnh của cỏc thành phần kinh tế trong đó có thành
phần kinh tế tư nhân, nó là một mắt xích quan trọng trong việc nối kết nền kinh tế thị
trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường thế giới.
Vỡ vậy em xin làm rừ về vai trũ của kinh tế tư nhân ở Việt Nam và thực trạng


phát triển của thành phần kinh tế này trong thời gian qua cũng như xin đưa ra một số
ý kiến về giải phỏp phỏt triển thành phần kinh tế này.


I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRề CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
1. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN:
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ mghĩa xó hội, việc đổi mới đường
lối phát triển kinh tế xó hội trong thời gian qua đó đem lại cho chúng ta những bước
tiến vượt bậc. Chúng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, phát huy nội lực đồng thời
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Việc
xây dựng đường lối phát triển kinh tế như vậy là sự phù hợp với thực tế khách quan
hiện nay ( phù hợp với điều kiện thực tế của kinh tế Việt Nam hiện nay và quỏ trỡnh
toàn cầu húa đang diễn ra như một điều tất yếu trong quá trỡnh phỏt triển của lịch
sử) vỡ vậy đó mang lại cho chỳng ta những thành tựu đáng kể. Trong kết quả chúng
ta có hơm nay phải kể đến sự đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh
tế xó hội Việt Nam của khu vực kinh tế tư nhân nhất là sau khi có sự đổi mới đường
lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Kinh tế tư nhân là một loại hỡnh Kinh tế dựa trờn sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, gắn liền với lao động cá nhân người chủ sở hữu và lao động làm thuê.
Kinh tế tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xó hội
nhất định, do trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy bản
chất của lọai hỡnh kinh tế này đó là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ ln có xu hướng tối đa hóa lợi ích
mà mỡnh thu được vỡ vậy họ phải búc lột sức lao động của công nhân làm thuê.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Trong phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thỡ chế tạo ra giỏ trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của nó.
Thật vậy giá trị thặng dư, phần giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động của công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt phản ánh mối quan hệ kinh tế bản

chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ bóc lột lao động làm th. Mục đích của
sản xuất tư bản chủ nghĩa khơng phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc
đẩy sự hoạt động mỗi nhà tư bản, cũng như tồn bộ xó hội tư bản. Các nhà tư bản


ln được bộ máy chính quyền tư bản bảo vệ lợi ích nên họ đó tỡm đủ mọi cách để
bóc lột giá trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, tăng
năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định
về hỡnh thức sỏ hữu,quản lí, phân phối để thích nghi với điều kiện mới nhưng về
bản chất thỡ khụng thay đổi. Nhà nước tư bản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp
vào đời sống kinh tế xó hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp
tư sản. Xét trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam hiện nay thỡ
kinh tế tư nhân chịu sự kiểm soỏt quản lý của nhà nước xó hội chủ nghĩa nờn khụng
cũn hoàn toàn giống như kinh tế tư nhân trong xó hội tư bản chủ nghĩa. Khái niệm
kinh tế tư bản tư nhân chỉ xuất hiện gắn liền với sự hỡnh thành và phỏt triển phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quỏ trỡnh đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phát
triển các loại hỡnh doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở
lại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Các loại hỡnh doanh
nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được hỡnh thành và phỏt
triển trong điều kiện có sự lónh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà
nước xó hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nhà nứơc khuyến khích
và bảo vệ khơng hồn tồn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Hơn nữa các loại
hỡnh doanh nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước ta được hỡnh thành
và phỏt triển trong điều kiện mới, khơng hàm chứa tính chất giai cấp hay bản chất tư
bản như dưới xó hội tư bản điều này được chứng minh là đó cú rất nhiều doanh nhõn
là đảng viên. Các doanh nghiệp của tư nhân nước ta đại diện cho một lực lựơng sản
xuất mới, là một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân…

2.TÍNH TẤT YẾU TỒN TẠI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM:
* Quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng trước khi đổi mới (1986)
Kinh tế tư nhân là đối tượng chính phải cải tạo, xóa bỏ. Vỡ kinh tế tư nhân ln
đồng nghĩa với làm ăn cá thể bóc lột, tự phát lên con đường chủ nghĩa tư bản, vỡ thế
kinh tế tư nhân không thể là một chủ thể kinh tế để xây dựng chr nghĩa xó hội.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta thỡ Đảng và Nhà nước đứng trước hai
hỡnh thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân của những người sản


xuất nhỏ(cá thể, thợ thủ công, tiểu thương…) và sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản
dân tộc Việt Nam. Đối với sở hữu tư nhân của những ngừơi sản xuất nhỏ thỡ Nhà
nước cải tạo bằng con đường vận động thuyết phục để đưa họ vào làm ăn tập thể.
Cũn đối với sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc thỡ Nhà nước phân làm hai
đối tựơng, một đối tượng đó là các nhà tư sản dân tộc nhưng có cơng với cách mạng
và kháng chiến thỡ Nhà nước cải tạo hũa bỡnh bằng cỏch chuộc lại hay chưng mua
rồi sau đó chuyển thành sở hữu Nhà nước (sau đó vận động họ kết hợp với nhà nước
để kinh doanh hỡnh thành các xí nghiệp công tư hợp doanh) Đối với nhà tư sản làm
tay sai cho đế quốc phong kiến thỡ Nhà nước cải tạo bằng cách quốc hữu hóa hay
tịch thu tồn bộ tài sản biến thành sở hữu Nhà nước.
Tuy nhiên trong giai đoạn này ngay cả ở trong nghiệp là nơi diễn ra quỏ trỡnh
xúa bỏ tư nhân mạnh nhất nhưng sở hữu tư nhân vẩn cũn tồn tại,trong thời gian này
những ngừơi khơng vào tập thể hợp tác xó, làm ăn cá thể, tiểu thương… thường
không được coi trọng, bị phân biệt trong nhiều việc.
* Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhân được thừa nhận tồn tại khách quan lâu dài có
lợi cho quốc kế dân sinh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội.
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX khẳng định: “ Kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xó hội chủ nghĩa”.
Tuy nhiờn trong thời kỳ hiện nay về mặt tõm lý vẫn cũn nhiều người nghi ngờ

về tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, họ vẫn giữ quan niệm cũ trước đổi
mới cho rằng không nên phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân đi liền với sự bóc
lột của tư bản, kinh tế tư nhân là một rào cản trong con đường đi lên chủ nghĩa xó
hội của chỳng ta. Điều này đó tạo nờn tõm lý lo ngại cho một bộ phận khụng nhỏ
trong xó hội và tạo thành một rào cản về mặt tõm lý trong việc xõy dựng phỏt triển
kinh tế tư nhân theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà
nước ta chủ trương xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xó hội chủ nghĩa là một việc làm đúng đắn, thể hiện tầm nhỡn sõu, rộng,
xuyờn suốt của Đảng. Việc xây dựng đường lối chủ trương của Đảng đó gắn với
thực tế, xuất phỏt từ thực tế phự hợp với điều kiện và tỡnh hỡnh phỏt triển của Việt


Nam. Xuất phỏt từ thực tế thỡ nhà nước ta đó khuyến khớch phỏt triển kinh tế tư
nhân trong gần 20 trở lại đây vỡ sự tồn tại phỏt triển của kinh tế tư nhân hay phát
triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam
hiện nay là một sự tất yếu khỏch quan xuất phỏt từ những lý do sau:
Thứ nhất: phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất phát triển chưa đồng
đều ở Việt Nam.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam là
điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Điều đó có nghĩa là trỡnh độ của lực lượng sản xuất ở nước ta cũn rất thấp kộm và
do đó sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn cũn phự hợp với trỡnh độ của lực lượng
sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy trong giai
đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất chẳng những khụng cần phải xúa bỏ mà cũn cần được tạo mọi điều kiện
để phát triển.
Trỡnh độ lực lượng sản xuất của chỳng ta khụng những cũn rất thấp kộm mà cũn
phỏt triển khụng đồng đều có nhiều trỡnh độ khác nhau do đó trong nền kinh tế tồn
tại nhiều loại hỡnh sở hữu khỏc nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều thành
phần kinh tế. Trong lịch sử mỗi phương thức sản xuất có một loại hỡnh sở hữu tư

liệu sản xuất đặc trưng nhưng điều đó khơng có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất
chỉ cú một hỡnh thức sở hữu tư liệu sản xuất mà cú thể cú nhiều loại hỡnh sở hữu tư
liệu sản xuất khác nhau cùng tồn tại. Sự xuất hiện của cỏc hỡnh thức sở hữu tư liệu
sản xuất do tớnh chất và trỡnh độ phát triển của các lực lượng sản xuất quy định, lực
lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng
không ngừng vận động biến đổi, tương ứng với mỗi trỡnh độ phát triển của lực
lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do vậy sự chủ quan núng vội duy ý
chớ trong việc xúa bỏ sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
đều trái với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trỡnh
độ phát triển của lực lượng sản xuất và phải trả giá. Điều này đó được thực tế ở Việt
Nam trong những năm sau khi giành độc lập đến 1986 chứng minh. việc xóa bỏ vội
vàng sở hũu tư nhân, phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung đó làm cho kinh tế
Việt Nam trỡ trệ, lõm vào khủng hoảng, lạm phỏt tăng cao…Vỡ vậy từ một nền sản


xuất nhỏ với nhiều loại hỡnh sở hữu khụng thể tiến thẳng lờn chủ nghĩa xó hội thụng
qua việc xúa bỏ chế độ tư hưu ngay.
Thứ hai: trong quỏ trỡnh phỏt triển do điều kiện lịch sử đó để lại nhiều thành
phần kinh tế như thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ,
thành phần kinh tế tự nhiên của đồng bào dân tộc ở dẻo cao phía bắc và tây
ngun… mà chúng ta khơng thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải
tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới mới đó xuất hiện thờm một số thành phần
kinh tế mới: thàh phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh
tế tư bản nhà nước… các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ
với nhau.
Thứ ba: phát triển kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với xu thế phát triển kinh
tế khách quan của thời đại ngày nay, thời đại các nước hướng về phát triển kinh tế
thị trường có sự quản lý vĩ mụ của Nhà nước. Quá trỡnh toàn cầu húa kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đây là quá trỡnh phỏt triển tất yếu của lịch sử
nhõn loại, nú tỏc động đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc phát triển kinh tế

thị trường sẽ giúp Việt Nam có những cơ hội to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế
trong quỏ trỡnh hội nhập với thế giới. Chúng ta đang đàm phán để được gia nhập tổ
chức WTO vỡ vậy nếu chỳng ta khụng phỏt triển thị trường thỡ chỳng ta sẽ khụng
thể cạnh tranh được với các nước trên thế giới, dẫn tới việc lạc hậu, bị cuốn theo
vũng xoáy của tồn cầu hóa.
Thứ tư: phát triển kinh tế nhiều thành phần phự hợp với lũng mong muốn thiết
tha của người dân Việt Nam là được đem hết tài năng, sức lực để lao động làm giàu
cho đất nước và cho cả bản thân mỡnh, làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh
phúc.
Thứ năm: phát triển kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác có hiệu quả
nhất các tiềm năng hiện có và đang cũn tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất
sự giúp đỡ từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế hướng vào mục tiêu tăng trưởng
nhanh và hiện đại hóa. Chỉ có phát triển nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có
khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tiềm năng về con người, mới có
thể áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế và
xây dựng đất nước.


Thứ sáu: phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng giải quyết được
vấn đề việc làm của chúng ta. Nước ta cũn cú lực lượng lao động dồi dào (hơn 40
triệu lao động) cần cù thông minh, song số người chưa có việc làm hay thiếu việc
làm cũn nhiều, vừa lóng phớ sức lao động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế
xó hội ( thất nghiệp, tệ nạn…) Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh
tế nhà nước khụng nhiều thỡ việc khai thỏc, tận dụng tiềm năng của các thành phần
kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Từ những lý do phõn tớch như trên chúng ta có thể thấy việc Đảng và Nhà nước
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần cú sự quản lý của Nhà nước là việc
làm hết sức đúng đắn phù hợp với thực tế, mong muốn của người dân và lựa chọn
đúng con đường phát triển giữ vững định hướng xó hội chủ nghĩa.

3. VAI TRề CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN:
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX đó khẳng định: “Kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xó hội chủ nghĩa…” Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của kinh tế tư nhân đó
được Đảng khẳng định và trên thực tế khu vực kinh tế tư nhân cũng đó và đang thể
hiện được vai trũ của mỡnh trong nền kinh tế, và ngày càng có những đóng góp quan
trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xó hội ở nước ta.
* Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong
nước GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư
nhân nhỡn chung tăng ổn định trong những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm
1997 là 12,89%; năm 1998 là 12,74%; năm 1999: 7,5%; năm 2000: 12,55% và
chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với
năm 1996 (từ28,45% năm 1996 cũn 26,87% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực
kinh tế tư nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu
vực có vốn đầu tư nước ngũai.

Bảng đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân:


Chỉ tiêu

Năm

Năm

Năm

Năm


vị
Tổng GDP toàn quốc

Đơn Năm
1996

1997

1998

1999

2000

Tỷ

272.036

313.623

361.017

399.943

444.140

đ
1.khu vưc tư nhân


-

77.481

87.475

98.625

106.029

119.337

% trong GDP toàn

%

28.48

27.89

27.32

26.51

26.87

57.879

65.555


73.321

78.054

87.604

%

21.28

20.9

20.31

19.52

19.72

-

74.7

74.94

74.34

73.62

73.41


19.602

21.920

25.304

27.975

31.733

quốc
2. hộ kinh doanh cá Tỷ
thể

đ

Tỷ trọng hộ trong
GDP
Tỷ trọng hộ trong khu
Vực kinh tế tư nhân

3. Doanh nghiệp tư Tỷ
nhân

đ

Tỷ trọng trong GDP

%


7.21

6.99

7.01

6.99

7.14

Tỷ trọng trong khu

%

25.3

25.06

25.66

26.38

26.59

vực
Tư nhân

Nguồn:Bỏo cỏo tổng hợp tỡnh hỡnh và phương hướng,giải pháp phát triển kinh tế tư
nhân. Ban kinh
tế trung ương ngày 26-11-2001

Trong 4 năm (2000-2003) tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong công nghiệp
đạt mức 20% năm. Trong nông nghiệp kinh tế tư nhân đó cú đóng góp đáng kể trong
trồng trọt chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự
phát triển của kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đó cú sự chuyển dịch quan
trọng theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh q trỡnh CNH-HĐH khu vực nơng
nghiệp nơng thơn.
* Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách:


Theo số liệu thống kê của bộ thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân
trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kinh tế
tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, số lượng hàng hóa tham
gia xuất khẩu ngày càng tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân đến nay đó tăng khá, 9 tháng đầu
năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các cơng ty cổ phần đạt 361.759.900
USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 1.606.489.900 USD, công ty tư nhân đạt
211.900.000 USD(số liệu của tổng cục hải quan)
Các doanh nghiệp tư nhân đó tham gia tớch cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến
năm 2000 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200
doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đó vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về
một số mặt hàng quan trọng( sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến…),
đó cú một số doanh nghiệp cú kim ngạch xuất khẩu trờn 100 triệu USD / năm, ở một
số địa phương kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu ( Hà
Giang: 60%,Bỡnh Thuận 45%, Quảng Ngói 34% ).Vỡ thế khu vực ngũai quốc
doanhtrong nước từ chổ chỉ chiếm 11% giá trị xuất khẩu vào năm 1997 thỡ đến quý
I-2002 dó tăng lên khoảng 31% ( Thời báo kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002 ).
Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đó trở thành nguồn thu quan trọng cho
ngõn sỏch Nhà nước và có xu hướng ngày càng tăng, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên
hơn 7% năm 2002.Nhiều địa phương mức đóng góp của doanh nghiệp dân doanh
chiếm trên 20% nguồn thu ngân sách địa phương ( Bỡnh Định 33% Tiền Giang

24%...). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt
103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001.
* Kinh tế tư nhân có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xó
hội phục vụ cho nhu cầu phỏt triển kinh tế xó hội.
Trong 10 năm gần đây vốn đầu tư cho khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ
cao trong tổng vốn đầu tư tồn xó hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư
nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24.05% , năm 2000 đạt 55.894 tỷ đồng tăng 13.8%
so với năm 1999,chiếm 24.31% tổng số vốn đầu tư tồn xó hội,và trong gần 4 năm
thực hện luật doanh nghiệp số vốn các doanh nghiệp đầu tư là hơn 145.000 tỷ đồng.
Đặc biệt số vốn đăng kí giai đoạn 2000-2003 cao gấp 4 lần số vốn đăng kí 9 năm


trước đó (1991-1999). Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đó đóng vai trũ
là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Nhờ vốn huy
động được từ thực hiện luạt doanh nghiệp cơ cấu vốn đầu tư tồn xó hội đó thay đổi
theo hướng tăng tỷ lệ vốn đầu tư trong nước, tăng tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực dân
doanh trong tổng dầu tư tồn xó hội (Vốn đầu tư của dân cư và các doanh nghiệp từ
chổ chiếm 20% năm 2000 tăng lên 23% năm 2001; 25.3% năm 2002 và trong năm
2003 khoảng gần 27% trong đầu tư ).
* Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo:
Ở nước ta hàng năm có khoảng 1.5 triệu người đến độ tuổi lao động, gồm có
lực lượng thanh niên đến độ tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp phổ thông , trung
học, đại học , cao đẳng và dạy nghề. Ngoài ra cũn cú những lao động bị thât nghiệp
do sắp xếp lại sản xuất trong các nghành kinh tế quốc dân. Nếu chỉ thông qua các
doanh nghiệp Nhà nước thỡ sẽ khụng bao giờ tạo đủ công ăn việc làm cho những
người có nhu cầu lao động. Thực tế những năm qua cho thấy ở thời điểm cao nhất
quốc doanh củng chỉ thu hút được khoảng 2 triệu lao động/năm. Trong khi dó tính
đến thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân
là4.643.884 người chiếm 12% tổng số lao động xó hội, bằng 1.36 lần tổng số việc
làm trong khu vực kinh tế Nhà nước. Lao động của hộ kinh doanh cá thể là

3.802.057 người,của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người, trong 3 năm (
2000-2002 ) các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập đó
tạo ra khoảng 1.5 triệu chổ làm việc mới . Tuy nhiờn số lao động qua thực tế khảo
sỏt ở hộ kinh doanh cỏ thể cũn lớn hơn nhiều so với số đăng kí vỡ nhiều hộ gia đỡnh
hủ yếu sử dụng lao động trong dũng họ, lao động mang tính thời vụ và lao động
nông nhàn không thể hiện trong các báo cáo thống kê.
Khu vực kinh tế tư nhõnvới mọi loại hỡnh, mọi quy mụ, mọi nghành nghề, áp
dụng nhiều phương thức sản xuất đó và đang góp phần quan trọng trong việc tạo ra
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Với việc ngày càng tạo ra nhiều việc
làm và sử dụng linh hoạt mọi loại lao động, tạo được th nhập đáng kẻ cho người lao
động nhất là những người lao động thời vụ hay thiếu việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân. Theo thực tế khảo sát thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế
tư nhân thường có mức thu nhập tương đương hoặc cao hơn thu nhập của người lao


động trồng lúa ở nơng thơn cùng địa bàn.Chính vỡ vậy khu vực kinh tế tư nhân đang
có sức hút lao động lớn và đang làm chuyển dịch dần cơ cấu lao động của nước ta
theo hướng giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ lệ lao động trong cơng
nghiệp và dịch vụ góp phần đẩy nhanh quá trỡnh CNH-HĐH đất nước.
* Góp phần thúc đẩy quá trỡnh chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xó hội, thỳc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đó đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường địn hướng xó hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng nhiều lao
động ở nông thôn vào các nghành phi nông nghiệp nhất là công nghiệp, giúp chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Trỡnh độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân càng càng tiến bộ
hơn, các mặt hàng ngày càng phong phú đa dạng, số lượng hàng hóa tham gia xuất
ngày càng tăng đũi hỏi việc hồn thiện cơ chế quản lí về nhiều mặt như chất lượng,
hàng giả, trốn thuế…

* Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo mơi trường kinh doanh, đẩy nhanh
tiến trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự phát triển kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh
giửa các thành phần kinh tế phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp
nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế
mới.Các loại thị trường bắt đầu hỡnh thành và phỏt triển như thị trường hàng hóa
dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường chứng khoán…
Khu vực kinh tế tư nhân cũn là mụi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác
kinh tế với nước ngoài. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay sự giao lưu kinh
tế văn hóa giữa các nước phát triển mạnh và kinh tế tư nhân là khu vực năng
động, có hiệu quả cao cho nên nó là những đối tác quan trọng trong các liên
doanh với nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nâng cao khả năng cạnh
tranh của kinh tế tư nhân thỡ khi chúng ta gia nhâp WTO mới có chổ đứng trên
thị trường thế giới.

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI


GIAN QUA Ở VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN.

Sau cuộc cách mạng dân tộc thành công chúng ta muốn nhanh chóng tiến
lên con đường xó hội chủ nghĩa nờn đó vội vàng thực hiện xúa bỏa mọi hỡnh
thức sở hửu tư nhân chính vỡ vậy yhành phần kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo
của cách mạng xó hội. Tư liệu sản xuất của nhân dân được Nhà nước chưng mua
hoặc quốc hữu hóa để biến thành tài sản của Nhà nước.Tuy nhiên cả trong hồn
cảnh như vậy thỡ kinh tế tư nhân vẫn có sự tồn tại, đặc biệt là trong nơng nghiệp
nơi có phong trào tập thể hóa rất cao nhưng vẫn tồn tại kinh tế tư nhân chứng
minh sự tồn tại khách quan và sức sống mónh liệt của thành phần kinh tế này.
Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 198) với sự thay đổi quan

điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân thỡ khu vực kinh tế tư nhân đó cú
sự phỏt triển rất mạnh mẽ và đó cú những đóng góp quan trọng cho sự phát triển
kinh tế xó hội của đất nước.Các chính sách như chính sách về thuế, đất đai,
vốn…
Đó khuyến khớch kinh tế tư nhân phát triển và làm thay đổi diện mạo của khu
vực kinh tế tư nhân.
Sự thay đổi đầu tiên phải nói đến là số lượng doanh nghiệp được thành lập
nhiều và gia tăng với tốc độ cao.
Về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ:Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn và
tăng nhanh. Tính đến cuối năm 2003 cả nước có 2.7triệu hộ kinh doanh cá thể
công thương nghiệp, 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nơng dân sản xuất
hàng hóa.
Về doanh nghiệp của tư nhân: năm 1991cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp
đến năm 1992 là 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp, năm
1999 là 28.700 doanh nghiệp. Như vậy trong giai đoạn 1991-1999 bỡnh quân
mỗi năm tăng thêm 5000 doanh nghiệp, trong đó các cơng ty trách nhiệm hữu
hạn và cơng ty cổ phần có tốc độ tăng về số lượng rất cao. Kinh tế tư nhân có sự
phát triển nhanh như vậy vỡ Nhà nước đó ban hành luật doanh nghiệp tư nhân
năm 1990 mở đường cho sự bùng nổ về số lượng của thành phần kinh tế tư nhân.


Luật doanh nghiệpcó hiệu lực từ 1-1-2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát
triển vượt của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Tính đến tháng
9-2003 đó cú gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng kí đưa tổng số doanh nghiệp
khu vực tư nhân ở nước ta lên 120.000, đây là một sự gia tăng nhanh của các
doanh nghiệp tư nhân ở giai doạn này. Thực tế cho thấy nếu so với thời kỡ trước
khi thực hiện luật doanh nghiệp thỡ trong 4năm qua số doanh nghiệp đăng kí
kinh doanh bỡnh qũn hàng năm bằng 3.75 lần so với thời kỡ 1991-1999. Đặc
biệt ở một số địa phương như Lai Châu, Hưng Yên, Thanh Hóa… số doanh
nghiệp đăng kí kinh doanh tăng từ 4-8 lần. Điều đáng chú ý là số doanh nghiệp

khụng hoạt động chiếm tỷ lệ thấp, theo thống kê của nhiều thành phố thỡ số
doanh nghiệp đang thực sự hoạt động chiếm 80% - 85% trong tổng số doanh
nghiệp đăng kí.

BIỂU ĐỒ SỐ LƯỢNG CÁC DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ
NHÂN GIAI ĐOẠN 19991-2003.

120000

120000
100000
80000
66780

60000
41700

40000
26001

20000

10881

15276

28700

18894


5198

0
1992

1994

1995

1996

1998

1999

2000

2001

2003

Sự phát triển về quy mô vốn, lĩnh vực và địa bàn kinh doanh:
Cho đến nay khu vực kinh tế tư nhân đó thu hỳt một lượng lớn vốn đầu tư xó
hội, vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể đang trở


thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương.
Tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp dân doanh trong
tổng số vốn đầu tư tồn xó hội đó tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và
28.8% năm 2002. Trong những năm qua mức vốn đăng kí trung bỡnh trờn một

doanh nghiệp cú xu hướng ngày một tăng lên. Theo báo cáo tổng kết 4 năm thi
hành luật doanh nghiệp thời kỡ 1991-1999 vốn đăng kí bỡnh qũn trờn một
doanh nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2002 là 2.8 tỷ
đồng, ba tháng đầu năm 2003 là 2.6 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ tiềm lực to lớn
của khu vực kinh tế tư nhân, số doanh nghiệp có vốn đăng kí lớn ngày càng tăng
cho thấy sự làm ăn hiệu quả và phát triển mạnh mẽ ở khu vực kinh tế tư nhân.Sự
làm ăn hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân là do đó biết khai thỏc cỏc thế
mạnh của cỏc nghành nghề trên khắp các địa bàn. Từ khi có chính sách đổi mới
khu vực kinh tế tư nhân đó phỏt triển mạnh, mở rộng cỏc hoạt động kinh doanh
trong hầu hết các nghành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Kinh tế tư nhân
không cũn chỉ hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, thương mại mà đó mở
rọng hoạt động trong các nghành cơng nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp
sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính…Sự
đa dạng hóa nghành nghề đầu tư đó thu hỳt được nhiều lao động và các doanh
nghiệp cũng góp phần đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Số cơng
nhân có tay nghề lao động cao ngày càng nhiều, nhân viên kĩ thuật phát triển
nhanh. Việc nâng cao chất lượng nguồn lao động do yêu cầu của công nghệ ngày
càng hiên đại đang được các doanh nghiệp đầu tư, và ngày càng mang lại hiệu
quả cao cho các doanh nghiệp.
Việc phát triển mạnh trong mọi nghành nghề mà pháp luật khơng cấm đó
làm đa dạng các hỡnh thức tổ chức doanh nghiệp. Nếu trước đây khu vực kinh tế
tư nhân chỉ gồm các doanh nghệp tư nhân và hộ kinh tế cá thể thỡ hiện nay cú
thờm cỏc hỡnh thức khỏc như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…
Doanh nghiệp tư nhân là loại hỡnh mới được phục hồi và phát triển rất nhanh sau
khi có luật doanh nghiệp tư nhân, cũn cụng ty cổ phần mới ra đời chủ yếu sau khi
ban hành luật công ty năm 1990. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh tế
trung ương năm 1994 cho thấy: 77.7% các công ty trách nhiệm hữu hạn và công


ty cổ phần là thành lập mới, cũn 23.3% số cụng ty là do chuyển đổi hỡnh thức tổ

chức ( từ doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xó, doanh nghiệp tư nhân). Hiện nay
công ty trách nhiệm hữu hạn đang là hỡnh thức được yêu thách nhất và phát triển
rất mạnh trong cả nước.
Khu vực kinh tế tư nhân đó cú những bước phát triển nhanh trong thời gian
qua, đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng không phải là khơng có những
mặt hạn chế yếu kém:
Một là: Hầu hết các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân của nước ta
mới được thành lập, hơn 90% là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương.Theo số liệu của phũng thương
mại và cơng nghiệp Việt Nam có hơn 61% doanh nghiệp mới thành lập thiếu các
nguồn lực cơ bản như vốn, thị trường, đất đai, khó tiếp cận với các nguồn cung
ứng hổ trợ.
Thứ hai: Mặc dù đó huy động được một nguồn vốn lớn trong xó hội nhưng
nhỡn chung hiện trạng về vốn của khu vực kinh tế tư nhân cũn yếu kộm, vốn
bỡnh quõn thấp. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh tế trung ương cho
thấy:67.88% số doanh nghiệpvà 40.3% số công ty tư nhân có vốn kinh doanh
dưới 500 triệu đồng. Phần lớn các doanh nghiệp và công ty tư nhân kinh doanh
bằng vốn tự có, việc kinh doanh bằng vốn tự có sẽ hạn chế khả năng mở rộng
quy mơ doanh nghiệp và áp dụng công nghệ tiên tiến. Hiệu quả sử dụng vốn của
các doanh nghiệp tư nhân tuy có cao hơn các doanh nghiệp Nhà nước nhưng vẫn
cũn thấp.
Thứ ba: Với việc nguồn vốn đầu tư thấp quy mô nhỏ thỡ cỏc doanh nghiệp
chủ yếu chỉ đầu tư vào các nghành thương mại và dịch vụ sơ cấp, các nghành có
thể thu hồi vốn nhanh, khả năng quay vũng vốn cao mà khụng cú nhiều doanh
nghiệp có tiềm lớn để đầu tư vào các nghành công nghiệp, chế biến, dịch vụ cao
cấp.
Thứ tư: kinh tế tư nhân mà nhất là các doanh nghiệp mới tập trung phát triển ở
một số thành phố lớn, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cũn ở nhiều
vựng nông thôn, vùng dân tộc miền núi có rất ít doanh nghiệp tuy ở đây cũng có
nhiều vùng rất có tiềm năng để phát triển kinh tế.



Thứ năm: Phần lớn lao động trong khu vực tư nhân có tay nghề thấp khơng
được đào tạo. Cơng nghệ máy móc, thiết bị của các cơ sở tư nhân rất lạc hậu.
Năm 1994 thỡ chỉ cú 25% số doanh nghiệp và 20.5% cụng ty tư nhân sử dụng
công nghệ hiện đại; 38.5% số doanh nghiệp và 18.7% số công ty tư nhân sử dụng
công nghệ truyền thống; 38.5% số doanh nghiệp và 60.5% số công ty tư nhân kết
hợp cả công nghệ hiện đại và truyền thống. Cũn về quản lý thỡ phần lớn trỡnh độ
quản lý của các chủ doanh nghiệp tư nhân cũn thấp, chưa có kiến thức và kinh
nghiệm kinh doanh trong kinh tế thị trường, thiếu chiến lược kinh doanh, trỡnh
dộ hiểu biết phỏp luật, đặc biệt là luật pháp quốc tế cũn nhiều hạn chế.
Một hạn chế nữa là nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những
quy định của pháp luật về lao động, chế độ bảo hiểm… Một số doanh nghiệp, hộ
kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật, trốn thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực
hiện đúng luật doanh nghiệp và các quy định về đăng kí kinh doanh.
2. NGUYÊN NHÂN :
Trong thời gian qua kinh tế tư nhân phát triển một cách nhanh chóng đó là do
sự đổi mới quan điểm của Đảng. Đảng không ngừng đưa ra các chủ chương
chính sách thích hợp để phát triển kinh tế nhiều thành phần và đó thỳc đẩy kinh
tế tư nhân phát triển. Đảng và Nhà nước luôn tạo mơi trường thuận lợi về thể chế
và tõm lý xó hội cho sự phỏt triển của kinh tế tư nhân : sửa đổi bổ sung luật
doanh nghiệp, xóa bỏ phân biệt đối sử giữa các thành phần kinh tế, ổn định pháp
luật, quy định rừ những nghành nghề kinh doanh khụng được phép thực hiện, sửa
đổi bổ sung một số một số cơ chế chính sách về đất đai, tài chính tín dụng, tiền
lương, xúc tiến thương mại…Các chính sách trên đó và đang mang lại hiệu quả
và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Việc khu vực kinh tế tư nhân cũn một số mặt hạn chế yếu kộm như đó nờu ở
trờn là do:
Các cơng ty tư nhân khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ nên
nguồn vốn đầu tư nhỏ không đủ để đầu tư vào các nghành cần nguồn vốn lớn như

công nghiệp, cơ sỏ hạ tầng… các nguồn vốn của ngân hàng, Nhà nước cho vay
thỡ thường có thời gian ngắn không tạo sự yên tâm cho chủ đầu tư vỡ khụng dễ


thu hồi vốn nhanh trong các nghành công nghiệp, cơ sở hạ tầng… Hơn nữa trỡnh
độ lao động cũn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ ngày càng hiện đại.
Tâm lí muốn thu hồi vốn đầu tư nhanh chóng qua các nghành thương mại
dịch vụ, trỡnh độ quản lớ của cỏc doanh nhõn cũn thấp, chưa có chiến lược đầu
tư lâu dài nên các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mơ nhỏ và ít đầu tư vào
các nghành công nghiệp.
Hành lang phỏp lớ và cỏc chớnh sỏch cụ thể cũn phức tạp hoặc chưa đủ sức
thu hút các doanh nhân bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp nặng, công
nghệ cao, cơ sở hạ tầng… do đó chưa hỡnh thành cơ cấu đầu tư tư nhân có hiệu
quả cho nền kinh tế.
Ở một số tỉnh thành đặc biệt là vùng nông thôn, miền núi chưa có những
chính sách phù hợp để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, cũng như đang
cũn thiếu thốn rất nhiều điều kiện để các doanh nhân đầu tư như về chất lượng
nguồn lao động, cơ sở vật chất hạ tầng…
Các cơ quan quản lí hoạt động kém hiệu quả, chức năng chồng chéo khơng
những gây khó khăn cho việc đăng kí kinh doanh mà cũn khú khăn cho việc quản
lí các cơ sở kinh doanh dẫn đến các hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, lách luật…
của các công ty tư nhân.
Chính ví vậy chúng ta muốn nâng cao được khả năng cạnh tranh quốc tế khi
hội nhập thỡ cần phải quyết tõm giải quyết cỏc nguyờn nhõn trờn, ngoài việc
khắc phục trong cỏc chớnh sỏch quản lý của Nhà nước chúng ta cũng cần phải có
những chiến lược phát triển lâu dài, phải nâng cao năng lực cạnh tranh của khu
vực kinh tế tư nhân, phải tăng quy mô vốn tự có và tài sản của mỗi doanh nghiệp.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chúng ta muốn phát triển kinh tế tư nhân để có thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế trước khi đưa ra những giải pháp để xây dựng phát triển chúg ta


cũng cần thấy được những thuận lợi cũng như khó khăn mà khu vự kinh tế tư
nhân đang vấp phải để có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả nhất.
Sự thuận lợi đầu tiên trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đó
chính là do sự đổi mới đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
cũng như sự thay đổi nhận thức của tồn xó hội đối với khu vực kinh tế tư nhân
đó mở đường cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Nếu trước đây kinh tế tư nhân
là đối tượng chính phải cải tạo thỡ hiện nay chỳng ta coi kinh tế tư nhân là một
bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xó hội chủ nghĩa.Vai trũ và vị tri của kinh tế tư nhân đang được cả xó tụn
trọng. Việc đổi mới nhận thức này chính là yếu tố cơ bản nhất tạo ra mơi trường
tâm lớ xó hội thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Mặt khác để đường lối chủ chương của Đảng có thể đi vào cuộc sống một
cách thiết thực có hiệu quả, Nhà nước đó khụng ngừng hồn thiện cỏc chớnh
sỏch khuyến khớch kinh tế tư nhân phát triển, từng bước bải bỏ các quy định
không phù hợp, cải thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh, cải cỏch thủ tục
hành chớnh

( trong việc đăng kí kinh doanh, một cửa một dấu… ). Hàng loạt

các văn bản pháp quy đó ra đời như luật thuế, luật doanh nghiệp tư nhân, luật
cơng ty, luật đất đai…
Đó thực sự thỳc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, tạo ra niềm tin

cho các chủ doanh nghiệp.
Chúng ta cũng có thể thấy rằng khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế
năng động do họ có tồn quyền quyết định mọi vấn đề thuộc về doanh nghiệp
(sản xuất cái gỡ, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai ), họ không bị rằng buộc
bởi một cơ chế khi quyết định một vấn đề kinh tế như doanh nghiệp Nhà nước,
vỡ vậy họ ra quyết định rất nhanh chóng đây là yếu tố thời cơ tạo nên sự năng
động, thành công của khu vực kinh tế tư nhân. Không những vậy các doanh
nghiệp cũn cú thể tự do tỡm đối tác của mỡnh, tỡm thị trường cho mỡnh nờn cỏc
doanh nghiệp rất chủ động trong kinh doanh.
Một sự thuận lợi nữa là việc chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường định
hướng xó hội chủ nghĩa. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với cỏc nước cho phép tư


nhân tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu, tỡm đối tác làm ăn tạo động lực cho
sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi hiện nay kinh tế tư nhân đang gặp nhiều
khó khăn dẫn đến những hạn chế yếu kém trong quá trỡnh phỏt triển:
Trong thời gian qua tuy kinh tế tư nhân phát triển nhanh về số lượng nhưng
nhỡn chung cỏc doanh nghiệp vẫn cũn rất nhỏ bộ về quy mụ (như vốn ít, số lao
động trong các doanh ngiệp ít tay nghề thấp…), công nghệ lạc hậu đang làm hạn
chế sức cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước.
Đến cuối năm 2000 vốn đăng kí kinh doanh khi mới thành lập của các doanh
nghiệp tư nhân bỡnh quõn chỉ trờn dưới một tỷ đồng, số vốn hoạt động kinh
doanh bỡnh quõn là 3.8 tỷ đồng một doanh nghiệp, theo báo cáo của nhiều địa
phương cho rằng khu vực kinh tế tư nhân thiếu vốn phải vay ở thị trường khơng
chính thức với lói suất cao, thời gian ngắn, rất khó tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là các nguồn vốn ưu đói của Nhà nước.
Về mặt bằng kinh doanh đây đang là vấn đề mà các doanh nghiệp có nhiều
bức xúc. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng nhà ở của gia dỡnh trong khu
dõn cư để sản xuất gây ảnh hưởng tới dân cư, khó mở rộng quy mơ, nếu đi thuê

mặt bằng kinh doanh thường họ phải trả giá cao hơn so với giá thuê của Nhà
nước quy định. Một số nơi chưa có quy hoạch cụ thể, cũng như các chính sách về
đền bù , giải tỏa đất đai cũn nhiều vướng mắc đang là một rào cản cho sự phát
triển của kinh tế tư nhân.
Xột về trỡnh độ quản lý của chủ doanh nghiệp thỡ đa số họ chưa qua đào tạo,
họ chủ yếu quản lý bằng kinh nghiệm tớch lũy trong quỏ trỡnh kinh doanh gia
đỡnh, kinh doanh nhỏ cộng với việc thiếu hiểu biết về luật phỏp quốc tế nờn chắc
chắn cỏch quản lý của họ sẽ khụng cũn phự hợp nếu chỳng ta gia nhập thị trường
thế giới.
Trong chiến lược đầu tư, nghành nghề đầu tư của các doanh nghiệp phần lớn
tập trung vào các nghành thương mại và dịch vụ, ít đầu tư vào các nghành công
nghiệp làm cơ cấu đầu tư mất cân đối, các doanh nghiệp tư nhân chỉ chú trọng
đầu tư vào các nghành mang lại lợi nhuận nhất thời, nhanh có lói và thu hồi được
vốn nhanh nhất. Thực trạng này cho thấy các doanh nghiệp tư nhân chưa có chiến


lược đầu tư lâu dài, chưa tạo ra được thương hiệu cho doanh nghiệp của mỡnh
nờn làm cho cỏc doanh nghiệp tư nhân khơng có chổ đứng vững chắc trên thị
trường.
Hệ thống chính sách của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân chưa đầy đủ, thiếu
đồng bộ nhiều mặt chưa rừ ràng như trong chính sách đất đai ( về đền bù, giải tỏa
mặt bằng… ) chính sách thuế ( như thực hiện các loại thuế chưa thống nhất, thuế
đánh trùng lắp, thuế suất cao, hệ thống thuế cũn nhiều khe hỏ…tạo điều kiện cho
một số doanh nghiệp phạm pháp ) chính sách lao động xó hội…Điều này khơng
những gây khó khăn cho cơng tác quản lý kinh tế tư nhân mà cũn tạo ra sự bất
bỡnh đẳng giữa các thành phần kinh tế nhất là giữa kinh tế tư nhân và kinh tế
Nhà nước: như việc đang cũn tồn tại nhiều luật khỏc nhau để điều chỉnh các
thành phần kinh tế khác nhau ( Doanh nghiệp Nhà nước thỡ cú luật doanh nghiệp
Nhà nước diều chỉnh, các loại doanh nghiệp tư nhân thỡ thực hiện theo luật
doanh nghiệp…), nếu thực sự bỡnh đẳng thỡ cỏc doanh nghiệp đều phải được

điều chỉnh bằng một loại luật thống nhất; hay như trong chính sách lao động xó
hội thỡ người lao động trong khu vực ngoài quốc doanh hầu như chưa được
hưởng bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm y tế cũn trong doanh nghiệp Nhà nước
người lao động được hưởng đầy đủ hệ thống bảo hiểm, khi công nhân không có
việc làm vẫn được tính thời gian để hưởng chế độ…
Một bộ phận xó hội, cỏn bộ cụng chức nhà nước chưa có cái nhỡn đúng đắn
về vị trí và vai trũ của kinh tế tư nhân tạo ra môi trường tâm lí khơng ổn định cho
sự phát triển của kinh tế tư nhân. Điều này đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc huy
động các nguồn lực, tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư phát triển
sản xuất kinh, doanh và làm khó khăn thêm trong việc đưa đuờng lối chính sách
của Đảng vào cuộc sống.
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
a. các vấn đề kinh tế vĩ mơ
Hồn thiện mơi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp.
Mặc dù Nhà nước đó ban hành một số chớnh sỏch, quy định tao thành hành
lang pháp lý cho lĩnh vực kinh tế tư nhân nhưng về cơ bản cơ chế chính sách và


khung phỏp lý cho khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ,
một số văn bản chưa theo kịp các chế tài quy định trong luật doanh nghiệp nên
cần được tiếp tục bổ sung xây dựng hồn thiện. Những phức tạp trong các thủ tục
hành chính và tâm lý vẫn cũn là những cản trở trong quỏ trỡnh phỏt triển của cỏc
doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp cũn phàn nàn về việc UBND một số tỉnh,
thành phố thỉnh thoảng ban hành một số văn bản trái thẩm quyền và trái với quy
định của luật doanh nghiệp, sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản pháp lý
như thông tư hướng dẩn cấp chứng chỉ hành nghề tư nhân pháp lý, nhiều chủ
trương chính sách của Đảng về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân chưa
được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đúng, khơng ít trường hợp cơ quan Nhà
nước chủ trỡ soạn thảo văn bản pháp quy không xuất phát từ những nhu cầu của

doanh nghiệp tư nhân mà cũn theo sự suy nghĩ chủ quan, theo lợi ích của cơ quan
mỡnh nhằm nớu kộo cơ chế “ xin – cho”. Chúng ta cần phải loại trừ sự chồng
chéo giữa chức năng của một số cơ quan quản lý Nhà nước kể cả ở trung ương
và địa phương, trong đó đặc biệt là việc thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp một
cách tràn lan và trùng lắp làm tăng chi phi kinh doanh, dễ dẫn đến tiêu cực, kỡm
hóm động lực phát triển kinh doanh…Việc phân định rừ chức năng quản lý, cấp
cơ quan quản lý sẽ làm tăng hiệu quả quản lý giám sát và trách nhiệm gắn liền
của các cơ quan Nhà nước. Các văn bản ban hành phải được thẩm định kĩ càng,
phải phù hợp với pháp luật, phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và nhất
thiết phải tạo được sự bỡnh đẳng giữa các thành phần kinh tế cả về kinh tế chính trị điều này đũi hỏi Nhà nước phải đưa ra một luật chung cho các thành
phần kinh tế. Các chính sách kinh tế và tổ chức bộ máy quản lý phải theo quan
điểm hệ thống và thống nhất, không chia cắt theo thành phần kinh tế. Chỉ nên có
một bộ máy, một hệ thống chính sách và một hệ thống phỏp luật chung trong
toàn bộ nền kinh tế. Khi hỡnh thành mụ hỡnh quản lý cỏc doanh nghiệp phải làm
sao cho cỏc yếu tố đó tác động một cách tích cực đến sự phát triển của tồn bộ
nền kinh tế.
Việc hồn thiện mơi trường pháp lý là cần thiết nhưng chỳng ta cũng phải
tạo dựng và duy trỡ tỡnh ổn định của các chính sách, hạn chế sự thay đổi quá
mức cần thiết để các doanh nghiệp yên tâm phát triển kinh doanh. Khi có sự thay


đổi nhanh trong một số chính sách như về thuế, đất đai, xuất khẩu…sẽ khiến
nhiều nghành bị động và chịu tổn thất đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Việc ổn
định các chính sách vĩ mơ cũng tạo nên sự ổn định trong môi trường kinh doanh,
làm giảm đi sự khó khăn của mơi trường kinh doanh trong nước. Sự khó khăn
trong mơi trường kinh doanh thể hiện trước hết khi gia nhập thị trường doanh
nghiệp của kinh tế tư nhân phải mất nhiều thời gian và chịu chi phí khá cao, cao
hơn các nước khác trong khu vực. Cho đến nay khi gia nhập thị trường doanh
nghiệp phải qua sáu bước là: đăng kí kinh doanh; khắc dấu; đăng kí mó số thuế;
đóng thuế mơn bài; mua hóa đơn lần đầu và đăng báo trong đó có nhiều thủ tục

rườm già và bây giờ không cũn thực sự cần thiết, vỡ vậy chỳng ta cần phải đơn
giản hóa các thủ tục, bỏ các thủ tục không cũn phự hợp để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp kinh doanh. Các cơ quan Nhà nước phải tạo điều kiện để doanh
nghiệp được tham gia đóng góp ý kiến vào nhiều văn bản, chính sách khác nhau
mới có thể tiếp thu được ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp, biết được điều
các doanh nghiệp thực sự cần để xây dựng các văn bản thực sự sát với thực tế.
Cơ chế chính sách phuơng hướng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân cần phù
hợp với lộ trỡnh Việt Nam gia nhập AFTA và WTO, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế.
Vị trớ và trũ của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được coi trọng
nhất là sau khi có đổi mới chủ trương phát triển của Đảng và Nhà nước nhưng
cũng cũn một bộ phận xó hội, cán bộ Nhà nước chưa có cái nhỡn đúng đắn về
thành phần kinh tế này tạo ra tâm lý e ngại dè dặt, sợ chệch hướng xó hội chủ
nghĩa nên không muốn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển mạnh. Quan niệm
coi kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, tỡnh tự phát, ln chỉ nhỡn thấy những
tiêu cực của khu vực kinh tế tư như trốn thuế, hàng giả… đó dẫn đến tâm lý kỡ
thị, phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân của một số cán bộ và nhân dân. Vỡ
vậy cần phải tăng cường tun truyền thơng tin về chính sách chủ trương của
Đảng, về vai trũ, vị trí của kinh tế tư nhân để tạo ra môi trường tâm lý thuận lợi
xó hội thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là truyền hỡnh và báo chí
khơng những nêu ra những mặt xấu, hạn chế mà cũn phải nêu những mặt được
của thành phần kinh tế tư nhân, cần nêu gương các nhà kinh tế tư nhân làm ăn


phát đạt, có đóng góp nhiều cho xó hội để người dân biết làm theo. Mặt khác cần
phải bảo đảm lợi ích cho người lao động, tạo diều kiện cho tổ chức Đảng, các
đoàn thể nhân dân phát huy vai trũ của mỡnh trong doanh nghiệp.Các thông tin
tuyên truyền cần quán triệt quan điểm kinh tế tư nhân là bộ phận hữu cơ cấu
thành nền kinh tế thống nhất, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu
dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.

Tăng cường năng lực tài chính, mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho
các doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước có thể tạo ra một động lực tài chính lớn cho
khu vực này thơng qua việc mở rộng hơn khả năng tiếp cận các nguồn tài chính,
tạo sự thơng thống hơn trong việc vay vốn, hỗ trợ doanh nghiệp năng lực xây
dựng dự án để vay vốn. Cần đổi mới chính sách đầu tư tín dụng một cách thích
hợp nhằm tạo điều kiện thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các
nhà đầu tư nước ngoài để hổ trợ về vốn cho các doanh nghiệp, cần phải có chính
sách quy định cụ thể nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ những trở ngại trong việc
vay vốn nhất là vay vốn nước ngoài. Trong hệ thống ngân hàng phải làm cho thủ
tục vay vốn đơn giản và thận tiện hơn. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhà
nước nên mở rộng hỡnh thức cho vay, việc quy định về lói xuất, thời hạn vay vốn
phải linh hoạt và bỡnh đẳng giữa các doanh nghiệp. Mặt khác phải có chính sách
thuế hợp lý mới kích thích được tư nhân đầu tư và mới thu hút được vón đầu tư
trong nhân dân.
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, chế
biến, đầu tư vào các lĩnh vực mới, các lĩnh vực yêu cầu hàm lượng kĩ thuật cao…
Ngoài việc đổi mới chính sách tài chính tín dụng để thu hút vốn thỡ có thể hay
đổi cơ cấu đầu tư của tư nhân hướng vào các nghành trên bằng chính sách thuế.
Đối với những doanh nghiệp mới ra kinh doanh những lĩnh vực mới cần khuyến
khích ta có thể miễn hoặc giảm thuế trong một thời gian nhất định để doanh
nghiệp có bước đầu phát triển thuận lợi và nên có chính sách giảm thuế chung
cho các cơ sở kinh doanh thuộc kinh tế cá thể và kinh tế hộ gia đỡnh, đánh thuế
cao trong các lĩnh vực, nghành không khuyến khích phát triển…Chúng ta cũng
cần có quy định rừ ràng về đất đai, mặt bằng kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng
để doanh nghiệp có điều kiện phát triển mở rộng sản xuất.


Nông thôn và miền núi là những vùng giàu tiềm năng ( về con người, lao
động, tài nguyên… ) để đầu tư phát triển nhưng lại chưa được chú trọng xây
dựng phát triển, chưa có sức thu hút đối với các doanh nghiệp tư nhân vỡ với số

vốn nhỏ, điều kiện cơ sở hạ tầng chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất thỡ các doanh
nhân không thể tự mỡnh đứng ra đầu tư được vỡ vậy Nhà nước phải xây dựng
các khu quy hoạch cụ thể, ở các vùng này Nhà nước cần xây dựng những khu
công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết, có giá thành phù hợp để khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư, ngồi ra cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc
sử dụng đất ở các vùng cũn nhiều đất chưa được sử dụng, đất trống đồi núi trọc…
có như vậy chúng ta mới có thể phát huy hết tiềm năng của các khu vực này. Mặt
khác lao động nông nghiệp vẫn cũn chiếm tỷ trọng lớn, lượng lao động dư thừa,
thời gian nơng nhàn vẫn cũn cao. Nếu có cơ chế khuyến khích phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ một cách hiệu quả thỡ đây sẽ là lĩnh vực thu hút nhiều lao
động.
Một điều quan trọng nữa là phải nâng cao hiệu quả của công tác quản lý Nhà
nước để các doanh nghiệp thực thi đúng pháp luật. Bộ máy quản lý Nhà nước
phải thống nhất không phân biệt theo thành phần kinh tế, đổi mới theo hướng
tinh giảm gon nhẹ nhưng hiệu lực và hiệu quả cao. Các tiềm năng vật chất, lao
động chỉ được khơi dậy huy động vào phát triển kinh tế xó hội của đất nước
thơng qua hiệu quả của quản lý. Hiệu quả của các đạo luật, chính sách trước hết
phải thể hiện ngay trong tính phù hợp của các văn bản pháp luật, chính sách.
Theo đó là sự thống nhất về nhận thức và hành động kiên quyết của bộ máy Nhà
nước và nhân dân ( luật doanh nghiệp mang lại hiệu quả cao vỡ nội dung luật sát
với cuộc sống, được tổ chức thực hiện nhất quán… ). Việc yếu kém trong hoạt
động của một bộ phận Đảng viên, cơng chức Nhà nước đó làm giảm hiệu lực,
thậm chí sai lệch nghị quyết chính sách của Đảng vỡ vậy nâng cao phẩm chất
năng lực của bộ máy Nhà nước, công chức Nhà nước là biện pháp cơ bản để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế ở nước ta. Đội ngũ cán
bộ giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật chế độ chính sách của
các doanh nghiệp phải thực sự là người có phẩm chất đạo đúc tốt, năng lực cao
trong nghề nghiệp.



×